MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài . 1
2. Mục đích nghiên cứu .2
3. Lịch sử vấn đề . 3
4. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu 6
5. Phương pháp nghiên cứu .7
6. Kết cấu của luận văn .7
NỘI DUNG
Chương 1: Những vấn đề chung về văn học trung đại liên quan đến việc
nghiên cứu các chú giải văn học trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa
Ngữ văn THPT
1.1. Các giai đoạn phát triển của văn học trung đại Việt Nam .9
1.2. Những đặc điểm cơ bản của văn học viết trung đại Việt Nam .12
1.3. Hai loại hình văn học cơ bản của văn học trung đại phương Đông . 19
Chương 2: Nghiên cứu và hệ thống hoá các chú giải văn học trung đại
Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn THPT
2.1. Thống kê và phân loại các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam trong
sách giáo khoa Ngữ văn THPT . 33
2.2. Nghiên cứu các phần tiểu dẫn, chú giải và câu hỏi hướng dẫn học bài
phần văn học trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn THPT 39
Chương 3: Tìm hiểu việc giảng dạy và tiếp thu các chú giải văn học trung
đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn của giáo viên và học sinh ở
trường THPT
3.1. Đối tượng và tư liệu khảo sát . 62
3.2. Quá trình khảo sát và kết quả khảo sát . 64
3.3. Các đề xuất và hướng giải quyết . 73
KẾT LUẬN . 75
THƯ MỤC THAM KHẢO . 79
PHỤ LỤC. 84
90 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3306 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tìm hiểu chú giải văn học trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa ngữ văn trung học phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăn học trung đại phương
Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, có vậy mới tiếp cận được giá trị
đích thực của mỗi hiện tượng văn học và công việc họ làm mới đạt hiệu
quả cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
Chương 2
NGHIÊN CỨU VÀ HỆ THỐNG HOÁ
CÁC CHÚ GIẢI VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN THPT
2.1. Thống kê và phân loại các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam
trong sách giáo khoa Ngữ văn THPT.
2.1.1. Thống kê các tác phẩm văn học trung đại Viêt Nam trong sách
giáo khoa Ngữ văn THPT
2.1.1.1. Lớp 10: 19 bài (trong đó chính khoá 14 bài; đọc thêm 05 bài)
Bài 1: Tỏ lòng (Thuật hoài) – Phạm Ngũ Lão
Bài 2: Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới- 43) – Nguyễn Trãi.
Bài 3: Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm
Bài 4: Đọc Tiểu Thanh ký (Độc Tiểu Thanh ký) – Nguyễn Du.
Bài 5: Vận nước (Quốc tộ) – Pháp Thuận (Đọc thêm)
Bài 6: Có bệnh, bảo mọi người (Cáo tật thị chúng) – Mãn Giác (đọc thêm)
Bài 7: Phú sông Bạch Đằng (Bạch Đằng giang phú) – Trương Hán Siêu.
Bài 8: Đại cáo bình Ngô (Bình Ngô đại cáo) – Nguyễn Trãi.
Bài 9: Tựa " Trích diễm thi tập" – Hoàng Đức Lương.
Bài 10: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia ( Trích Bài ký đề danh tiến sĩ
khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba) – Thân Nhân Trung (Đọc
thêm)
Bài 11: Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (Trích Đại Việt sử ký toàn
thư) – Ngô Sỹ Liên.
Bài 12: Thái sư Trần Thủ Độ ( Trích Đại Việt sử ký toàn thư) – Ngô Sỹ
Liên (Đọc thêm)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
Bài 13: Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Tản Viên từ phán sự lục –
Trích Truyền kỳ mạn lục) – Nguyễn Dữ.
Bài 14: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ ( Trích Chinh phụ ngâm) -
Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm.
Bài 15: Truyện Kiều - Nguyễn Du
Bài 16: Trao duyên ( Trích Truyện Kiều) – Nguyễn Du.
Bài 17: Nỗi thương mình (Trích Truyện Kiều) – Nguyễn Du.
Bài 18: Chí khí anh hùng (Trích Truyện Kiều) – Nguyễn Du.
Bài 19: Thề nguyền (Trích Truyện Kiều) – Nguyễn Du (Đọc thêm)
2.1.1.2. Lớp 11: 14 bài (trong đó học chính khoá 10 bài; đọc thêm 04 bài)
Bài 1: Vào phủ chúa Trịnh (Trích Thượng kinh ký sự ) – Lê Hữu Trác.
Bài 2: Tự tình (Bài II ) – Hồ Xuân Hương.
Bài 3: Câu cá mùa thu (Thu điếu) – Nguyễn Khuyến.
Bài 4: Thương vợ – Trần Tế Xương
Bài 5: Khóc Dương Khuê – Nguyễn Khuyến (Đọc thêm)
Bài 6: Vịnh khoa thi Hương – Trần Tế Xương ( Đọc thêm)
Bài 7: Bài ca ngất ngưởng – Nguyễn Công Trứ
Bài 8: Bài ca ngắn đi trên bãi cát ( Sa hành đoản ca) – Cao Bá Quát.
Bài 9: Lẽ ghét thương (trích Truyện Lục Vân Tiên) – Nguyễn Đình Chiểu)
Bài 10: Chạy giặc – Nguyễn Đình Chiểu (Đọc thêm).
Bài 11: Bài ca phong cảnh Hương Sơn (Hương Sơn phong cảnh ca) – Chu
Mạnh Trinh (Đọc thêm).
Bài 12: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Nguyễn Đình Chiểu
Bài 13: Chiếu cầu hiền (Cầu hiền chiếu) – Ngô Thì Nhậm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
Bài 14: Xin lập khoa luật (trích Tế cấp bát điều) – Nguyễn Trường Tộ.
2.1.2. Phân loại loại hình các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam
trong sách giáo khoa Ngữ văn THPT và số lượng các chú giải, câu hỏi
hướng dẫn học bài trong từng tác phẩm được trích giảng.
2.1.2.1. Các tác phẩm thuộc loại hình văn học chức năng.
* Tác phẩm thuộc loại hình văn học chức năng hành chính.
Bài 1. Quốc tộ – Pháp Thuận
Tác phẩm có 20 âm tiết, trong đó có 3 chú giải và 4 câu hỏi hướng dẫn
học bài.
Bài 2: Đại cáo bình Ngô - Nguyễn Trãi
Tác phẩm có 1304 âm tiết, trong đó có 44 chú giải và 6 câu hỏi
hướng dẫn học bài.
Bài 3: Tựa " Trích diễm thi tập" – Hoàng Đức Lương.
Tác phẩm có 682 âm tiết, trong đó có 9 chú giải và 4 câu hỏi hướng
dẫn học bài.
Bài 4. Hiền tài là nguyên khí của quốc gia – Thân Nhân Trung
Tác phẩm có 429 âm tiết, trong đó có 14 chú giải và 4 câu hỏi hướng
dẫn học bài.
Bài 5: Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (Trích Đại Việt sử ký toàn
thư) - Ngô Sỹ Liên.
Tác phẩm có 1176 âm tiết, trong đó có 11 chú giải và 5 câu hỏi
hướng dẫn học bài.
Bài 6: Thái sư Trần Thủ Độ (Trích Đại Việt sử ký toàn thư) – Ngô Sỹ Liên.
Tác phẩm có 463 âm tiết, trong đó có 9 chú giải và 4 câu hỏi hướng
dẫn học bài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
Bài 7: Chiếu cầu hiền – Ngô Thì Nhậm
Tác phẩm có 549 âm tiết, trong đó có 16 chú giải và 5 câu hỏi hướng
dẫn học bài.
Bài 8: Xin lập khoa luật – Nguyễn Trường Tộ.
Tác phẩm có 637 âm tiết, trong đó có 16 chú giải và 5 câu hỏi hướng
dẫn học bài.
* Tác phẩm thuộc loại hình văn học chức năng lễ nghi.
Bài 1: Cáo tật thị chúng – Mãn Giác.
Tác phẩm có 34 âm tiết và 4 câu hỏi hướng dẫn học bài.
Bài 2: Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc – Nguyễn Đình Chiểu
Tác phẩm có 705 âm tiết, trong đó có 58 chú giải và 4 câu hỏi hướng
dẫn học bài.
2.1.2.2. Các tác phẩm thuộc loại hình văn học nghệ thuật.
* Văn xuôi.
Bài 1. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Trích Truyền kỳ mạn lục) –
Nguyễn Dữ.
Tác phẩm có 1859 âm tiết, trong đó có 20 chú giải và 4 câu hỏi
hướng dẫn học bài.
Bài 2: Vào phủ chúa Trịnh ( Trích Thượng kinh ký sự) – Lê Hữu Trác
Tác phẩm có 1980 âm tiết, trong đó có 21 chú giải và 4 câu hỏi
hướng dẫn học bài.
* Thơ.
Bài 1: Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão.
Tác phẩm có 28 âm tiết, trong đó có 3 chú giải và 5 câu hỏi hướng dẫn
học bài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
Bài 2. Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi.
Tác phẩm có 54 âm tiết, trong đó có 8 chú giải và 5 câu hỏi hướng dẫn
học bài.
Bài 3. Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Tác phẩm có 56 âm tiết, trong đó có 4 chú giải và 3 câu hỏi hướng dẫn
học bài.
Bài 4: Đọc Tiểu Thanh ký – Nguyễn Du.
Tác phẩm có 56 âm tiết, trong đó có 4 chú giải và 4 câu hỏi hướng dẫn
học bài.
Bài 5: Tình cảnh le loi của người chinh phụ (Trích Chinh phụ ngâm) -
Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm.
Đoạn trích học gồm 168 âm tiết, trong đó có 12 chú giải và 5 câu hỏi
hướng dẫn học bài.
Bài 6: Trao duyên (trích Truyện Kiều) – Nguyễn Du.
Đoạn trích có 238 âm tiết, trong đó có 13 chú giải và 4 câu hỏi
hướng dẫn học bài.
Bài 7: Nỗi thương mình (trích Truyện Kiều) – Nguyễn Du.
Đoạn trích gồm 140 âm tiết, trong đó có 6 chú giải và 5 câu hỏi
hướng dẫn học bài.
Bài 8: Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) – Nguyễn Du.
Đoạn trích gồm 126 âm tiết, trong đó có 12 chú giải và 3 câu hỏi
hướng dẫn học bài.
Bài 9: Thề nguyền (trích Truyện Kiều) – Nguyễn Du.
Đoạn trích gồm 156 âm tiết, trong đó có 15 chú giải và 3 câu hỏi
hướng dẫn học bài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
Bài 10: Tự tình (Bài II) - Hồ Xuân Hương
Tác phẩm có 56 âm tiết, trong đó có 3 chú giải và 2 câu hỏi hướng dẫn
học bài.
Bài 11: Câu cá mùa thu – Nguyễn Khuyến
Bài thơ có 56 âm tiết và 5 câu hỏi hướng dẫn học bài.
Bài 12: Thương vợ – Trần Tế Xương.
Tác phẩm có 56 âm tiết, trong đó có 5 chú giải và 4 câu hỏi hướng dẫn
học bài.
Bài 13: Khóc Dương Khuê - Nguyễn Khuyến
Bài thơ có 266 âm tiết, trong đó có 9 chú giải và 3 câu hỏi hướng dẫn
học bài.
Bài 14: Vịnh khoa thi Hương – Trần Tế Xương.
Bài thơ có 56 âm tiết, có 6 chú giải và 4 câu hỏi hướng dẫn học bài.
Bài 15: Bài ca ngất ngưởng – Nguyễn Công Chứ.
Tác phẩm có 141 âm tiết, trong đó có 14 chú giải và 4 câu hỏi hướng
dẫn học bài.
Bài 16: Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Cao Bá Quát
Tác phẩm có 101âm tiết, trong đó có 4 chú giải và 4 câu hỏi hướng
dẫn học bài.
Bài 17: Lẽ ghét thương (Trích Truyện Lục Vân Tiên) – Nguyễn Đình Chiểu
Đoạn trích có 224 âm tiết, trong đó có 19 chú giải và 3 câu hỏi
hướng dẫn học bài.
Bài 18. Chạy giặc – Nguyễn Đình Chiểu
Bài thơ có 56 âm tiết, trong đó có 7 chú giải và 3 câu hỏi hướng dẫn
học bài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
Bài 19. Bài ca phong cảnh Hương Sơn – Chu Mạnh Trinh
Tác phẩm có 137 âm tiết, trong đó có 13 chú giải và 3 câu hỏi hướng
dẫn học bài.
* Vận văn (phú)
Bài: Phú sông Bạch Đằng – Trương Hán Siêu
Tác phẩm có 473 âm tiết, trong đó có 33 chú giải và 6 câu hỏi hướng
dẫn học bài.
2.2. Nghiên cứu các phần tiểu dẫn, chú giải và câu hỏi hướng dẫn học
bài phần văn học trung đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn
THPT.
2.2.1. Về phần tiểu dẫn ở đầu mỗi tác phẩm được trích giảng.
Tất cả các tác phẩm hoặc đoạn trích được đưa vào trong sách giáo
khoa Ngữ văn THPT đều có phần tiểu dẫn. Mục đích của phần này là tạo
điều kiện cho học sinh tìm hiểu tác phẩm. Nội dung của các tiểu dẫn đều
tương tự như sau: đầu tiên là giới thiệu tóm tắt về cuộc đời và sự nghiệp
văn học của tác giả (trừ những tác giả lớn Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,
Nguyễn Đình Chiểu thì mục này có hẳn một bài riêng); tiếp theo là trình
bày khái quát hoàn cảnh ra đời hoặc xuất xứ của tác phẩm, đoạn trích và
những nét đặc trưng khái quát về nội dung, nghệ thuật của nó. Nội dung
tiểu dẫn như thế dành cho một tác phẩm văn học hiện đại có thể xem là đủ
ý. Nhưng để dành cho một tác phẩm văn học trung đại thì có lẽ vẫn cần
phải bổ sung thêm, đặc biệt là việc giải thích nhan đề tác phẩm dưới góc
độ thể loại, thể loại “là một phạm trù chủ đạo, nó không chỉ được thể hiện
trong cách thường xuyên nêu bật nên ở ngay tác phẩm mà còn chi phối
nghiêm nhặt và toàn diện người cầm bút trong quá trình sáng tác dù anh ta
có tự giác hay không tự giác ý thức về điều ấy”[21, 66]. Vì thế nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
văn học trung đại thực chất là nghiên cứu đặc trưng thể loại và phải xuất
phát từ đặc trưng thể loại. Nắm được đặc trưng thể loại của tác phẩm, ta có
thể hiểu được ý đồ nghệ thuật của nhà văn và bút pháp của anh ta, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tiếp cận chân giá trị của tác phẩm ở cả hai măt: nội
dung và hình thức. Đáng tiếc vấn đề này trong các phần tiểu dẫn về văn
học trung đại Việt Nam chưa được chú ý đúng mức. Điều đó được thể hiện
qua các dạng thức sau:
Một là: Tiểu dẫn không hề giải thích tiêu đề thể loại của tác phẩm,
tiêu biểu là các trường hợp Quốc tộ và Đoạn trường tân thanh (tức Truyện
Kiều).
- Về tác phẩm Quốc tộ: trong phần tiểu dẫn có viết “ Tác phẩm của
ông- Đỗ Pháp Thuận- hiện còn một bài thơ trả lời Lê Đại Hành hỏi về việc
nước”[26, 138]. Đã khẳng định như vậy thì phải khôi phục đầy đủ nhan đề
bài thơ như trong sách Thơ văn Lý - Trần là “ Đáp quốc vương quốc tộ chi
vấn”[55, 204]. Nếu bài thơ có nhan đề như đã nêu thì nó thuộc thể loại thư
(thư trả lời) viết dưới dạng một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt. Vậy nó thuộc
loại hình văn học chức năng. Còn nếu để nhan đề Quốc tộ sẽ dẫn đến cách
hiểu: đó là bài thơ thuộc loại hình văn học nghệ thuật. Không xác định rõ
loại hình văn học của tác phẩm sẽ dẫn đến cách hướng dẫn khai thác tác
phẩm không đúng hướng.
- Về tác phẩm Truyện Kiều. Tác phẩm này lúc đầu có tên gọi là
Đoạn trường tân thanh. Bài tựa của Mộng Liên Đường Chủ nhân viết cho
tác phẩm của Nguyễn Du vào đầu thế kỉ XIX có đoạn: “Tố Như tử… dịch
chi dĩ quốc âm, nhan chi viết Đoạn trường tân thanh – Thầy Tố Như…
dịch sách (Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài nhân) ra quốc âm rồi
đặt nhan đề Đoạn trường tân thanh”[21, 207]. Dĩ nhiên dùng chữ dịch ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
đây là chưa chuẩn. Cũng ở bài tựa này nhan đề Đoạn trường tân thanh còn
được nhắc lại nhiều lần. Sau này các học giả Đào Nguyên Phổ, Kiều Ánh
Mậu và Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền đều khẳng định như vậy. Về sau học
giả Trần Trọng Kim đổi lại là Truyện Thuý Kiều. Khi nghiên cứu tác phẩm
này nhiều học giả vẫn để ý đến tiêu đề cũ nhưng lại phiên là “Tiếng kêu
mới đứt ruột”. Sách Văn học 10 (tập 1), Nxb GD, H.1999 cũng viết là:
“Tiếng kêu mới về nỗi đau thương đứt ruột”. Sách Ngữ văn 10 (tập 2) Nxb
GD, H.2006 thì không hề đả động gì đến Đoạn trường tân thanh mà chỉ
nói đến Truyện Kiều. Vậy từ góc độ thể loại mà xem xét thì giữa Truyện
Kiều và Kim Vân Kiều truyện có điểm gì khác nhau? Chúng tôi rất tâm đắc
với ý kiến của PGS. TS Nguyễn Đăng Na về vấn đề này. Ông cho rằng:
“Tân thanh là một thể thơ sáng tác theo phương châm của Tân nhạc phủ
cũng gọi là thơ Tân nhạc phủ”[21, 266]. Nguyễn Du đặt tên tác phẩm của
mình là Đoạn trường tân thanh nhằm thể hiện ý đồ nghệ thuật mang tính
sáng tạo của mình, mặc dù ông đã dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài
nhân. Thứ nhất, Nguyễn Du khẳng định tác phẩm của mình là thơ (Tân
thanh được ông dùng với nghĩa là thơ ca) chứ không phải văn xuôi như
nguyên tác; thứ hai, đó là tiếng thơ “Đoạn trường” phản ánh cuộc đời ba
chìm bảy nổi sống đoạ, thác đày của một người con gái lương thiện tài sắc
song toàn. Vậy là chính tên tác phẩm đã báo hiệu cho người đọc sự thay
đổi không chỉ về mặt hình thức mà còn là chủ đề của truyện so với nguyên
tác. Đó là vấn đề quyền sống của con người bị tước đoạt trong đời sống của
một xã hội hiện thực được ví như “ địa ngục ở miền nhân gian” chứ không
phải là lời thuyết minh cho một lý thuyết siêu hình nào. Đúng là “cốt
truyện tuy vay mượn của Trung Hoa nhưng nó đã được thẩm thấu qua từng
thớ thịt, từng tia máu, từng hơi thở của một con người “có con mắt trông
thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời” và từng chữ, từng chữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
được viết ra bằng “máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy”.
Do đó nhan đề Đoạn trường tân thanh không chỉ là tấc lòng của Nguyễn
Du mà còn là lời khẳng định bản quyền tác phẩm của ông, của dân tộc Việt
Nam”[21, 274]. Bỏ qua nó không giải thích đúng là một điều đáng tiếc.
Hai là: Giải thích nhan đề chung chung ở cấp độ thể văn mà chưa
giải thích nó ở cấp độ đặc trưng thể loại. Đó là các trường hợp tiêu biểu
như Bình Ngô đại cáo và Truyền kỳ mạn lục:
- Về Bình Ngô đại cáo: Đây là tác phẩm thuộc loại hình văn học
chức năng. Tuy nhiên khi vâng mệnh Lê Lợi viết bài cáo này, Nguyễn Trãi
đã thể hiện rất sâu sắc cảm xúc của một người nghệ sĩ, tức là đã để cả “tâm
thuật” (lời Phan Huy Chú) ngụ vào trong tác phẩm. Vì thế yếu tố văn học
nghệ thuật của tác phẩm này cũng hết sức nổi bật. Sách giáo khoa Ngữ văn
10 (tập 2), Nxb GD, H.2006, trang 16 viết: “Bài Đại cáo này mang đặc
trưng cơ bản của thể cáo nói chung, đồng thời có những sáng tạo riêng của
tác giả”. Tuy nhiên sự “sáng tạo riêng” trên cái nền chung mà trước hết thể
hiện ngay ở nhan đề mang đặc trưng thể loại của tác phẩm “Bình Ngô đại
cáo” thì đã không được giải thích đầy đủ. Sách chỉ tập trung nói về thể cáo
nhưng vấn đề cần làm sáng tỏ ở đây là nghĩa của “đại cáo” và vì sao
Nguyễn Trãi đã dùng thể loại cáo đặc trưng này?
Đại cáo là một thiên sách trong quyển IV Kinh thư (một trong Ngũ
kinh của Nho gia do Khổng Tử san định). Đại cáo gắn liền với tên tuổi
Thành Vương và Chu Công – tự là Đán (một nhà văn hoá nổi tiếng, một
nhà chính trị kiệt xuất của Trung Hoa thời nhà Chu thế kỷ XI trước công
nguyên). Bài cáo này bắt nguồn từ một sự kiện lịch sử. Đó là sau khi diệt
Trụ Vương nhà Ân, Chu Vũ Vương (cha của Thành Vương) vẫn phong cho
con Trụ là Vũ Canh làm vua Ân và sai ba người em là Quản Thúc, Thái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
Thúc và Hoắc Thúc đến giám sát. Sau khi Vũ Vương mất, Thành Vương
nối ngôi và Chu Công làm phụ chính. Ba người em kể trên phao tin Chu
Công tiếm quyền. Để tránh tiếng, Chu Công lánh về miền Đông. Sau hai
năm Thành Vương biết chuyện hối hận cho người đón ông trở lại lo việc
triều chính. Ba người em sợ hãi đã liên kết với Vũ Canh và các tộc Di ở
phía Đông hùa nhau nổi loạn đem quân đánh Thành Vương phản lại nhà
Chu. Thành Vương sai Chu Công đi dẹp loạn và viết bản Đại cáo này.
Cuộc bình Ngô của Lê Lợi cũng mang ý nghĩa như việc Thành Vương dẹp
Vũ Canh. Đó là việc đánh dẹp những kẻ phản loạn. Tác giả muốn sánh Lê
Lợi với Chu Thành Vương, quân sư của Lê Lợi với Chu Công Đán và
muốn bài Bình Ngô đại cáo của thời đại ông mang ý nghĩa ngang tầm với
thiên đại cáo đánh Vũ Canh thời Tây Chu của Trung Hoa cổ đại. Lại nữa,
15 thế kỷ sau, Chu Nguyên Chương – một người được coi là anh hùng giải
phóng của dân tộc Hán, một người đã được dã sử Trung Hoa thêu dệt
quanh mình bao nhiêu huyền thoại, sau khi đánh đuổi quân Nguyên giành
lại độc lập và lập ra triều Minh đã cho ban bố một văn kiện pháp luật vĩ đại
gọi là “Đại cáo”. Nếu bản đại cáo này ban bố ra là để ổn định xã hội, cai trị
nhân dân và mang ý nghĩa quốc gia trọng đại thì ý nghĩa “Đại cáo” của
Nguyễn Trãi cũng chẳng kém cạnh gì (xét cả tư cách của người tuyên cáo
và tầm vóc quan trọng của bài cáo). Hơn nữa, đại cáo của Nguyễn Trãi lại
được dùng để bình Ngô (tức là bình tận gốc nòi giống họ Chu, bởi Chu
Nguyên Chương vốn là người đất Ngô và khi mới khởi nghiệp từng xưng
là Ngô Quốc Công, Ngô Vương). Rõ ràng ở đây Nguyễn Trãi muốn dùng
gậy ông để đập lưng ông và Bình Ngô đại cáo xét ở khía cạnh này đã mang
một ý nghĩa vô cùng thâm thuý. Vì lẽ đó, chúng tôi cho rằng “nắm được ý
nghĩa nhan đề Bình Ngô đại cáo là nắm được tư tưởng cốt lõi của tác
phẩm” [21, 157].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
- Về Truyền kỳ mạn lục, giống như trường hợp Bình Ngô đại cáo nêu
trên, mục tiểu dẫn Truyền kỳ mạn lục trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 (tập
2), Nxb GD, H.2006, cũng mới chỉ đề cập tới thể văn truyền kỳ “là một thể
văn xuôi tự sự thời trung đại, phản ánh hiện thực qua những yếu tố kì lạ
hoang đường” (trang 55) mà chưa chú ý giải thích đặc trưng thể loại của
tác phẩm. Sách không giải thích Truyền kỳ mạn lục là gì, mà chỉ nói chung
chung về số lượng các truyện, tóm tắt giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật
của tác phẩm. Về cụm từ “Truyền kỳ mạn lục” trước đây người ta thường
giải thích là “ghi chép tản mạn những truyện truyền kỳ”. Soạn giả Ngữ văn
9 – tập 1 (sách in năm 2005) cũng viết: “Truyền kỳ mạn lục là ghi chép tản
mạn những truyện truyền kỳ được lưu truyền”. Vậy là Nguyễn Dữ chỉ ghi
chép tản mạn những truyện truyền kỳ có sẵn vẫn được lưu truyền. Thế thì
căn cứ vào đâu để khẳng định “ tác phẩm thực sự là sáng tác văn học” [26,
55] mang đậm cá tính sáng tạo của tác giả và vì sao nó được ca ngợi là áng
“Thiên cổ kỳ bút”. Ông Nguyễn Đăng Na đã khảo cứu rất sâu về cụm từ
“Truyền kỳ mạn lục”. Ông cho rằng, “mạn lục” không phải là ghi chép tản
mạn mà là thể văn cổ Trung Hoa: thể Mạn lục. Nếu truyền kỳ đứng riêng
thì là một thể tài của truyện ngắn trung đại. Do các nhân vật, tình tiết, kết
cấu… của truyện phần lớn là lạ kỳ, đặc biệt nên người ta gọi chúng là
“Truyền kỳ”. Nhưng đứng trong cụm từ truyền kỳ mạn lục thì truyền kỳ
làm định ngữ chỉ tính chất của thể mạn lục – một thể tự sự viết tự do tuỳ
hứng theo ý đồ sáng tác của tác giả, không bị ràng buộc bởi bất cứ một lí
do nào (xem bài viết về Truyền kì mạn lục trong cuốn Con đường giải mã
văn học trung đại Việt Nam). Như vậy, có thể hiểu Truyền kỳ mạn lục một
cách ngắn gọn là thiên truyện viết theo tuỳ hứng cá nhân (tác giả) về những
cái lạ kỳ. Chính nhan đề mang tính đặc trưng thể loại của tác phẩm đã bao
hàm sự khẳng định vai trò sáng tạo nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Dữ. Nó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
nói lên rằng, tác phẩm không phải loại ghi chép lại những cái có sẵn như
Việt điện u linh hay Lĩnh Nam chích quái mà là một sáng tác văn học. Giáo
sư Lê Trí Viễn ví “20 đoản thiên tiểu thuyết trong Truyền kỳ mạn lục có giá
trị như 20 truyện ngắn hiện đại” là một sự khẳng định giá trị sáng tạo văn
học đó của Nguyễn Dữ.
Thể loại là một phạm trù đặc biệt quan trọng của văn học trung đại
Việt Nam. Nhà văn chọn một thể loại nào đó để sáng tác là xuất phát từ ý
đồ nghệ thuật của anh ta và cái gọi là “cá tính sáng tạo” của người nghệ sĩ
trung đại nhiều khi cũng được thể hiện ngay trong sự lựa chọn đó. Đối với
một tác phẩm văn học trung đại, đặc trưng thể loại của nó đa phần được
nêu ngay ở tiêu đề tác phẩm. Vì vậy nghiên cứu một tác phẩm văn học
trung đại, trước hết là phải quan tâm ngay đến tên gọi của nó. Bỏ qua hoặc
không chú ý đúng mức điều này sẽ dẫn đến sự nhận thức tác phẩm, hoặc là
chưa sâu, hoặc là chưa chính xác giá trị đích thực của nó.
2.2.2. Về những chú thích phần văn học trung đại Việt Nam trong sách
giáo khoa Ngữ văn THPT.
2.2.2.1. Về chú thích các điển tích, điển cố.
Qua khảo sát các tác phẩm, đoạn trích thuộc văn học trung đại Việt
Nam có trong chương trình, chúng tôi thấy hầu hết các điển tích, điển cố có
dùng trong các tác phẩm (đoạn trích) đều đã được các soạn giả quan tâm
đúng mức. Nội dung các điển tích, điển cố đó đều được dẫn và chú tương
đối rõ ràng, đồng thời cũng nêu lên cách vận dụng chúng của tác giả. Tuy
nhiên ở một số trường hợp, chúng tôi thấy vẫn cần phải bổ sung và trao đổi
thêm:
Thứ nhất, một số điển tích, điển cố chưa ghi rõ xuất xứ và trình bày
đầy đủ, chính xác nội dung của nó:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
Sách Ngữ văn 10 (tập 2) trang 18, chú thích chữ “về đông” như sau:
“Chữ lấy trong Hán thư, từ câu nói của Lưu Bang (Hán Cao Tổ). Khi bị
Hạng Vũ đẩy vào đất Tây Thục, Lưu Bang bực tức nói “Dư diệc dục đông
nhĩ, an năng uất uất cửu cư thử hồ” (ta cũng muốn trở về đông sao chịu
chết ải ở chốn này).
Điển này theo Hán thư đại lược như sau: Khi bị đẩy vào Tây Thục,
cuộc sống của tập đoàn vua tôi, quân lính Lưu Bang vô cùng khốn đốn.
Nhiều người bỏ trốn vì gian khổ và nhớ quê hương. Một hôm có người
báo: “Thừa tướng Tiêu Hà trốn mất rồi”. Hán Vương nghe nói vô cùng lo
sợ. Mấy hôm sau Tiêu Hà trở về, Hán Vương vừa mừng, vừa giận, trách
cứ: “Sao ngươi lại bỏ trốn?”. Tiêu Hà trả lời: “Thần đâu có bỏ trốn. Thần
chỉ đuổi theo giữ kẻ bỏ trốn lại thôi”. Hán Vương hỏi: “Ngươi
đuổo"wngo"go?∝."Uoîw"Lî"wwᾫ"n῝ o;"∝Lîn"Uïn∝."Lïn"Wƻƫ ng"n῝ o
"goᾯn"nÿo;"∝Uƻ῟ ng"wï"f῏ "ww῝ n"nîng"gn` g"ngƻ ῝ o"oî"ngƻƫ o"on
ÿng"wwgn"wîo."nᾫo"đw῝ o"wngo"đ῏ "go` "Lîn"Uïn"nî"g῟ "nîo"wgo?∝.
"Uoîw"Lî"nÿo;"∝Uƻ῟ ng"wnƻ ῝ ng"wnî"gÿ"ng• "onÿng"gůng"đƻ` g"nn
ƻ ng"nnîn"wîo"nnƻ "Lîn"Uïn"gn῍ "gÿ"o῝ w"onÿng"gÿ"ngo."N᾿ w"đᾫo"w
ƻƫ ng"ow῝ n"῟ "Lïn"Uwwng"ww῝ w"đ῝ o"wnî"onÿng"gᾯn"fÿng"đ᾿ n"L
în"Uïn."gÿn"n᾿ w"ow῝ n"w῍ "đÿng"gno᾿ o"nᾯ• "wnoîn"nᾫ"wnî"onÿng"
wn῏ "onÿng"fÿng"ngƻ ῝ o"nî• ."Ý"đᾫo"wƻƫ ng"wn᾿ "nîo?∝."Lïn"Wƻƫ
ng"nÿo;"∝Dī"nnoîn"wg"gůng"ow῝ n"w῍ "đÿng"gn` "đîw"ggo"gn῏ w"gn
᾿ w"oÿn"oïo"῟ "nƫ o"nî ∝."Nnƻ "wᾯ• "nî"noîn"gᾫnn"• wᾯw"no῏ n"gî
w"nÿo"g` g"Lïn"Wƻƫ ng"*Lƻw"Fgng+"nî"nnîn"o῝ w"w"oo῏ n"n῏ gn"
w` ."Uwg"w"oo῏ n"nî• ."wg"wnᾯ• "gîw"nÿo"g` g"Lƻw"Fgng"wn῏ "n
o῏ n"n῝ o"wîo"n᾿ w"w` g"nÿgog."Gÿn"gnÿ"goᾫo"nnƻ "wïgn"goïo"onog"
nî"wno᾿ w"gnïnn"• ïg"wî"gnïnn"wî"wn᾿ "wno᾿ w"wïnn"nÿgog"wwong"n
῝ o"nÿo"g` g"Lƻw"Fgng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
"Un` "ngo."o῝ w"w῝ "gnÿ"wnïgn"onÿng"đᾯ• "đ` ."wÿ"wîng.
Wïgn"goïo"onog"Ng` "wăn"33"*wᾯw"3+"wwgng"337."gnÿ"gn` "
∝Uwƻ῟ ng"nwnn∝"nî;"∝]ƻ g"gÿ"ngƻ ῝ o"nnî"ngnîo"onÿng"gÿ"đîn"đ῏
"đ῍ g"wïgn."wnᾫo"fᾯw"đoo"đÿo"nîo"đîn"n῍ g."Do đó trướng huỳnh
được dùng để chỉ phòng học của nho sinh đồng thời gợi ý hiếu học”.
Lẽ ra phải chú thích nghĩa của trướng huỳnh trước: “màn có ánh
sáng đom đóm” rồi mới dẫn chữ này bắt nguồn từ một điển. Tấn thư chép:
Xa Dận người Nam Bình tự Vũ Tử thuở nhỏ rất chăm học; nhà nghèo
không có dầu thắp đèn phải lấy đom đóm cho vào vỏ trứng lấy ánh sáng để
đọc sách. Về sau trướng huỳnh được dùng với nghĩa là phòng học. Không
nên chú thích vắn tắt: “Xưa có người nhà nghèo…”
Sách Ngữ văn11 (tập1) trang 61, chú thích chữ “phong hạc” là “Lấy
ở câu phong thanh hạc lê thảo mộc giai binh”, nghĩa gốc: chỉ sự hồi hộp lo
lắng, nghe tiếng gió thổi, chim hạc kêu, thấy cây cỏ cũng tưởng là quân
giặc đuổi đánh. Câu này xuất xứ từ một điển. Tấn thư chép: “Một trăm vạn
quân Bồ Kiên nước Tần bị quân Tấn do Tạ Huyền chỉ huy đánh cho tan tác
ở Hợp Phì, ban đêm chạy hoài, sợ hãi đến nỗi nghe tiếng gió thổi, chim hạc
kêu, trông thấy cây cỏ trên Công Sơn cũng tưởng là quân Tấn đuổi theo”.
Rõ ràng đây là một điển chứ có phải là một từ hay cụm từ mà nói đến nghĩa
gốc.
Lại nữa, cũng ở sách này, trang 63 chú: “Da ngựa bọc thây chỉ cái
chết ở nơi chiến trường”. Cụm từ này cũng khởi nguồn từ một điển. Sách
Hậu Hán thư chép: Mã Viện bảo Mạnh Kí rằng: “Làm trai nên chết ở chốn
biên thuỳ, lấy da ngựa bọc thây mới đáng trọng chứ sao lại chịu nằm ở xó
giường, chết trong tay bọn đàn bà con trẻ thì có hay ho gì”. Dù nhà thơ chỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
lấy cụm từ “da ngựa bọc thây” để chỉ cái chết ở chiến trường cũng không
thể không dẫn gốc tích, xuất xứ của nó.
Chú thích đầy đủ nội dung, chính xác các điển được sử dụng trong
các tác phẩm văn học trung đại chẳng những cung cấp cho giáo viên và học
sinh những tri thức văn hoá, văn học cổ góp phần làm giàu cho vốn tri thức
của họ mà hơn nữa còn giúp cho họ nhận thức được cách vận dụng sáng
tạo linh hoạt của nhà văn khi sử dụng những điển đó. Sách giáo khoa –
một loại sách trường quy – cần phải chú ý đặc biệt đến điều này, không nên
để tồn tại
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doc271.pdf