Luận văn Tìm hiểu phương thức ẩn dụ trong tiếng Việt (thể hiện qua Ca dao trữ tình, Thơ tình Xuân Diệu và thơ tình Xuân Quỳnh )

Giọng thơXuân Quỳnh bao giờcũng ấm áp tình người. Thơchịít trực tiếp

nói vềnỗi lòng của riêng mình, ít khơi gợi cảm giác. Chịviết nhiều vềthiên

nhiên, vềcon thuyền, vềsóng, vềbiển, Nhưng người đọc vẫn phát hiện được

đâu đó nhân vật trữtình, đó là một con người khát khao và quyết giữchặt hạnh

phúc của mình, cho dù hạnh phúc ấy có nguy cơbịquay cuồng giữa giông bão

dữdội của cuộc đời. Tình yêu giúp chịtrởnên cao cảphi thường hơn, đứng vững

hơn giữa cuộc đời đầy bão táp. Vì tình yêu là một cái gì đó rất thiêng liêng, nó có

thể đem đến nhiều điều kì diệu cho con người

Dẫu vui buồn biển vẫn mênh mông

Vẫn là nơi gặp gỡtriệu dòng sông. (26 - Xuân Quỳnh)

pdf258 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5442 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tìm hiểu phương thức ẩn dụ trong tiếng Việt (thể hiện qua Ca dao trữ tình, Thơ tình Xuân Diệu và thơ tình Xuân Quỳnh ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trải tâm tư dưới trời trăng sáng; Đem lòng vui tôi dệt tấm đời chung; Thời gian trắng vẫn ngừng trong bệnh viện. Đặc điểm này tạo nên “một Xuân Quỳnh rất riêng”. Phải nói rằng những ẩn dụ trong thơ của Xuân Quỳnh là tiếng hát của trái tim. Tiếng hát thanh tao, dạt dào tình cảm, tiếng hát không bao giờ tắt. Có một điều đáng lưu ý là cũng giống như trong Thơ tình Xuân Diệu, trong Xuân Quỳnh thơ tình cũng có những ẩn dụ phức hợp. Chương 3 SO SÁNH CƠ CHẾ LIÊN TƯỞNG ẨN DỤ TỪ CA DAO TRỮ TÌNH ĐẾN THƠ TÌNH XUÂN DIỆU VÀ XUÂN QUỲNH THƠ TÌNH 3.1. So sánh giữa Ca dao trữ tình và Thơ tình Xuân Diệu 3.1.1. Từ ngữ, hình ảnh dùng làm cơ sở cho sự liên tưởng ẩn dụ a. Cứ liệu thống kê cho thấy từ ngữ dùng làm cơ sở liên tưởng ẩn dụ trong Ca dao trữ tình nhiều hơn trong Thơ tình Xuân Diệu. Ở Ca dao trữ tình có 81 từ ngữ, còn trong Thơ tình Xuân Diệu chỉ có 50 từ ngữ. Các từ ngữ mang nghĩa ẩn dụ trong ca dao thể hiện các hiện tượng khách quan quanh đời sống con người như: các hiện tượng tự nhiên, các vật dùng hàng ngày, các động vật, các loại thực vật, các công trình kiến trúc… Các tên gọi động vật, thuộc cả thế giới hữu hình và vô hình trong ca dao rất phong phú. Trái lại, ở thơ Xuân Diệu rất hạn chế, chỉ có những tên gọi động vật quen thuộc như: chim, bướm, ong. Hai từ trầu, cau được ca dao dùng nhiều nhất, nhưng ở thơ Xuân Diệu không hề có. Tương tự, từ sông trong ca dao xuất hiện ít hơn trầu - cau 6 lần. Ở Thơ tình Xuân Diệu cũng không có nó. Trong thơ Xuân Diệu cũng không có các từ chỉ kiến trúc: đình, chùa, giếng, chợ…; ngược lại ở Ca dao trữ tình có không ít. Trong Ca dao trữ tình, ở không ít bài, có nhiều từ ngữ thường đi sóng đôi nhau, tạo thành một cặp mang nghĩa ẩn dụ khác với khi nó được dùng riêng lẻ, như: trăng - hoa, vàng - bạc, nước trong - nước đục, thuyền - bến, rồng - mây, tằm - dâu, trăng - gió, trăng - sao. Hiện tượng này trong thơ Xuân Diệu rất ít xuất hiện, ta chỉ bắt gặp một vài trường hợp như: gió - trăng, gió - hoa, hoa cạnh - hoa bên, tháng - ngày, đào - sen, thuyền - bến. Trong lúc đó các từ ngữ chỉ thế giới nội tâm trong thơ Xuân Diệu lại nhiều hơn ở ca dao. Xuân Diệu cũng dùng nhiều từ ngữ chỉ thời gian như: chiều, ngày, đêm, tháng, năm, thời gian,…; nhưng ca dao hầu như không dùng chúng. b. Có khi ta thấy cùng một nghĩa biểu trưng nhưng tác giả ca dao dùng từ ngữ này để thực hiện liên tưởng, đến Xuân Diệu được thay bằng từ ngữ khác. Ví dụ, người xe duyên trong ca dao là ông tơ - bà nguyệt : Sáu mươi vác cuốc ra đồng Hỏi ông Tơ bà Nguyệt lấy chồng được chưa? (457 - Ca dao) đối với Xuân Diệu lại là bình minh: Nghìn buổi sáng bình minh xe chỉ thắm Đem lòng tôi ràng rịt với xuân tươi. (72 - Xuân Diệu) c. Có những từ ngữ ẩn dụ mang nghĩa biểu trưng giống nhau giữa Ca dao trữ tình và Thơ tình Xuân Diệu. Cụ thể: Trời  người ban điều tốt lành, hạnh phúc: - Xin trời cho ngược gió đông Thuyền quay mũi lái thiếp trông thấy chàng. (514 - Ca dao) - Một trời mơ đang cầu nguyện trong tôi Chờ một tiếng để bừng lên hạnh phúc. (34 - Xuân Diệu ) Gió  Tình yêu của người con trai: - Gió vào ve vuốt má đào, Má đào quyến gió lối nào gió ra?35 (322 - Ca dao) - Chàng gió lạ đi khuya ngoài khuất nẻo Nghe tiếng thơm liều liệu đến tìm hương. (76 - Xuân Diệu) Xuân  tình yêu: - Chưa chi anh đã vội về Hay là xuân giục vội về với xuân. (119 - Ca dao) - Xuân của đất trời nay mới đến Trong tôi xuân đến đã lâu rồi; (17 - Xuân Diệu) Đàn  tâm trạng người đang yêu: - Đương khi cuộc rượu say nồng, Đàn kia đang gảy sao chùng mất dây? Hết điệu thì em cho vay, Can gì phải nghỉ nửa ngày, anh ơi! (183 - Ca dao) - Đàn của hồn ta ai vặn thế Gặp nhau khi ấy bỗng hoà tơ36. (130 - Xuân Diệu) Trăng - gió  tình yêu lứa đôi: - Ước gì cho gạo bén sàng, Cho trăng bén gió cho nàng bén anh. (494 - Ca dao) - Trăng còn đợi gió chưa lên Hay là trăng đã tròn trên mái rồi? (83 - Xuân Diệu ) Chỉ  tình yêu, hôn nhân: - Chỉ điều đố gỡ cho ra, Keo sơn cố kết một nhà cho vui. (96 - Ca dao) - Nghìn buổi sáng bình minh xe chỉ thắm Đem lòng tôi ràng rịt với xuân tươi. (72 - Xuân Diệu ) d. Tuy nhiên cũng có trường hợp cùng một hình ảnh nhưng ở hai tác phẩm lại mang hai nét nghĩa biểu trưng khác nhau. - Gương biểu trưng cho tình yêu lứa đôi (80 - Ca dao) / tình yêu tan vỡ (151 - Xuân Diệu) - Hoa nhài biểu trưng cho người con gái với vẻ đẹp kín đáo, lâu bền (453 - Ca dao) / sự kết hợp lứa đôi (75 - Xuân Diệu ) 3.1.2. Cơ sở của sự lựa chọn các từ ngữ, hình ảnh a. Ca dao là tiếng nói, là món ăn tinh thần của người bình dân, của người lao động vất vả, khổ cực. Họ tìm đến ca dao, bởi xem đó là phương tiện giải trí tối ưu. Giữa đồng ruộng mênh mông, trên trời, dưới đất, đủ thứ cỏ cây, chim muông… tất cả đều dễ gợi nhiều cảm xúc bất ngờ và họ cũng dễ dàng tìm chỗ dừng chân để cất lời ca tiếng hát. Đó là tiếng hát của những con người yêu sự sống, yêu lao động. Vì vậy việc họ đưa hình ảnh cây cỏ, chim thú… thiên nhiên nói chung vào tiếng hát của mình là điều dễ hiểu . Các loài động vật xuất hiện không ít trong ca dao. Đó là những con vật quen thuộc hàng ngày, gần như trở thành những người bạn thân thiết của người. Nên đứng trước loài vật con người như tìm thấy mình, xem đó là chỗ để tự nhìn ngắm lại mình, để giải bày tâm sự, để bộc lộ những khát vọng hạnh phúc hay giải thoát sự tù túng đang phải chịu đựng Ước gì em biến ra ruồi Để em đậu má cái người đi ô Ước gì em hóa ra ong Để em quấn quýt trong lòng cái ô. (495 - Ca dao) Mặt khác, cuộc sống của họ gần gũi với ruộng vườn, núi sông, cây cỏ… Nên hơn ai hết họ hiểu được các đặc điểm, tính chất, quá trình phát triển của các sự vật, hiện tượng ấy. Họ phát hiện được nhiều nét tương đồng giữa chúng với mình. Từ đó họ liên tưởng tới nhiều khía cạnh, nhiều bình diện của cuộc sống con người. Qua ẩn dụ, chúng ta thấy những gì liên quan đến đời sống con người đều thành ca dao. Những vật tầm thường chẳng mấy ai quan tâm như cành cây, củi khô, cơm nguội… khi đi vào ca dao đều trở thành những ẩn dụ gây nhiều xúc động: Củi than nhem nhuốc với tình Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên (142 - Ca dao). Người bình dân đã gửi vào sự vật rất tầm thường là củi than một giá trị tinh thần. Câu ca dao đã trở nên có ý nghĩa khái quát lớn: cái đáng quí là nghĩa là tình, hơn là vẻ ngoài. Ca dao không là văn chương bác học. Nó xuất hiện khi chưa có chữ viết, và người ta đang sống dưới chế độ phong kiến độc quyền, rất nhiều luật lệ phi lý đè nặng lên vai, kiềm chế, ngăn cấm tự do trong quan hệ nam nữ. Những giáo lý ấy đã ăn quá sâu vào đời sống riêng tư của con người, xâm phạm nhân quyền. Để được giải thoát, người bình dân đã tìm đến với ca dao như một người bạn tâm tình. Do vậy, trong ca dao, tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình là lĩnh vực được chú ý nhiều. Ca dao đề cao tình cảm tự nhiên, xem đó là nhu cầu không thể thiếu được. Phải chăng điều này có liên quan mật thiết đến việc dùng nhiều cặp từ ngữ ẩn dụ sóng đôi của tác giả ca dao để thể hiện tình yêu như: ông tơ - bà nguyệt, rồng - mây, phượng hoàng - ngô đồng... Chúng đã gợi lên được hình ảnh gắn bó, quấn quýt như hình với bóng giữa vợ với chồng, giữa những cặp tình nhân. Cái đẹp trong đời sống của người bình dân là họ sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, thử thách, mọi lời đồn đãi, thị phi để đến, và được sống với nhau trọn đời. Họ ngay thẳng, trung thực, nên tình cảm của họ cũng rất chân thành. Hạnh phúc vợ chồng là nghĩa, là tình, không có chỗ cho sự so đo tính toán: Chàng lên non thiếp cũng lên non, Chàng lên trời vượt biển thiếp cũng bồng con theo chàng. (82 - Ca dao) Tuy nhiên tác giả dân gian cũng thể hiện sự xứng đôi ấy rất đa dạng, sinh động, đem đến cho người đọc nhiều suy nghĩ sâu sắc: Đôi ta lên thác xuống ghềnh, Em ra đứng mũi để anh chịu sào. (176 - Ca dao) Chính việc dùng các cặp từ ngữ ẩn dụ sóng đôi thể hiện những nỗi niềm tâm sự như vậy làm cho ý nghĩa tăng lên gấp bội, lời ít ý nhiều, có sức truyền cảm mạnh. Lời ca tiếng hát thêm ngọt ngào, tình tứ. Đôi khi cách dùng từ ngữ sóng đôi ấy cũng tạo nhiều hình ảnh tương phản làm hiển lộ nhân sinh quan của người xưa: - Tiếc nồi cơm trắng để ôi Tiếc con người lịch mà soi gương mờ. (443 - Ca dao) - Ai ơi! Đừng phụ bát đàn Nâng niu bát sứ vỡ tan có ngày. (16 - Ca dao) Nếu đạo lí phong kiến là rào cản quan hệ nam nữ thì ngược lại ca dao là nhịp cầu nối những bờ tình yêu. Hơn thế nữa, thông qua phương tiện ẩn dụ, họ dễ dàng bộc bạch nỗi niềm của mình bằng những lời có cánh, hết sức duyên dáng, nhưng cũng rất chân tình. Bởi cơ sở của những liên tưởng ẩn dụ này bắt rễ từ thực tiễn cuộc sống của họ. Song có điều cần lưu ý là tình cảm trong ca dao là tình cảm chung của cả cộng đồng, hoặc của cả một tập thể cá nhân, chứ không phải của riêng một cá nhân nhất định. Nói cách khác, ẩn dụ trong ca dao không biểu hiện cái tôi cá nhân, điều này khác với ẩn dụ trong thơ Xuân Diệu. Xã hội thời ca dao xưa không có chỗ cho cái tôi cá nhân. Có những câu ca dao chứa từ xưng hô anh, em, chàng, thiếp nhưng tình cảm thể hiện trong đó là của những ai cùng hoàn cảnh, cùng tâm trạng: Gió đưa bụi chuối se tàu, Chàng Nam thiếp Bắc làm giàu ai ăn? (224 - Ca dao) Những ai phải sống trong cảnh xa nhau thì đều thấm thía khi đọc câu ca dao này, bởi thấy mình trong đó. Thường trong ca dao rất ít từ ngữ nhân xưng, nhiều trường hợp từ mang nghĩa ẩn dụ đồng thời là từ nhân xưng: - Trúc nhớ mai, trúc buồn ngao ngán, Mai trở về mai nhớ trúc chăng? (487 - Ca dao) Hay là cách nói trống không: - Nước trong cá chẳng ăn mồi Đừng câu mà mệt đừng ngồi mà trưa. (361- Ca dao) Hoặc cách nói phiếm định: - Ai làm cho bướm lìa hoa, Cho chim xanh nọ bay qua vườn hồng? (11 - Ca dao) Quả là nền văn minh lúa nước lâu đời của người Việt đã ăn sâu vào tiềm thức người lao động. Nó như một mạch nước ngầm chi phối toàn bộ quá trình lựa chọn, sử dụng các từ ngữ để thực hiện liên tưởng ẩn dụ khi sáng tác ca dao. Chim trời, cá nước, sông ngòi, biển cả, cây cỏ… đều là những biểu tượng của nhân sinh quan, thế giới quan của họ. Qua những biểu tượng này ta thấy được hồn quê, bối cảnh văn hoá Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Nó phản ánh khí sắc dân tộc, tâm hồn dân tộc, và là tấm gương soi đời sống thực tại. Đặc biệt các từ ngữ ẩn dụ trong ca dao thường mang tính biểu trưng cho người phụ nữ, người nông dân, về tình yêu lứa đôi… Điều này khẳng định người Việt Nam có nền văn hoá trọng đạo lí, nghĩa tình, giàu tính nhân đạo. Ẩn dụ trầu cau xuất hiện nhiều nhất trong Ca dao trữ tình. Như nhiều lần đã nói ở trên, hình ảnh trầu cau, nhất là ở thời xa xưa, luôn gắn liền với sự trao lời trong các cuộc giao tiếp, đặc biệt là trong giao duyên; cao hơn là trong những nghi lễ tác hợp hôn nhân, nghi lễ cúng bái, hội hè, đình đám. Chúng đã trở thành một nét văn hóa của dân tộc, đó là văn hóa trầu cau. Thực tế ấy đã giải thích vì sao hình ảnh trầu cau lại xuất hiện nhiều trong ca dao trữ tình, hơn nữa lại có khả năng gợi đến sự trao duyên, đến nghĩa tình sâu nặng: Miếng trầu ăn một trả mười, Ăn sao cho được một người như em. Miếng trầu ăn nặng bằng chì Ăn rồi em biết lấy gì đền ơn? (285 – Ca dao) Quan niệm đạo đức, thẩm mỹ của quần chúng cần lao là chuộng sự thủy chung, nghĩa tình, thích cái đẹp, cái duyên thầm kín hơn là những gì ồn ào, mãnh liệt, phô trương. Phải chăng vì vậy mà các từ ngữ ẩn dụ trong ca dao không mang ý nghĩa chỉ mức độ cực cấp, vượt khỏi khuôn phép của quan niệm thời bấy giờ. Nếu có khao khát được yêu thì đó cũng chỉ là những ước mong thâm trầm, tế nhị; nếu có bộc lộ thì cũng rất duyên dáng, dễ thương: Gần nhà mà chẳng sang chơi Để em hái ngọn mồng tơi bắc cầu. Bắc cầu anh chẳng đi cầu Để tốn công thợ để sầu lòng em. (218 – Ca dao) b. Ngược lại với ca dao, các ẩn dụ trong thơ tình Xuân Diệu đưa người đọc đến một thế giới mà ở đó chỉ có những thứ tình nồng nàn, đắm say hoặc khát khao tột độ. Có thể nói, hầu hết các trạng thái tình cảm đều ở cực đỉnh. Các từ ngữ mang nghĩa ẩn dụ trong thơ Xuân Diệu cũng vẫn là các từ ngữ chỉ các hiện tượng tự nhiên như mây, gió, trăng, sao; chỉ các loài động thực vật: hoa cỏ, ong bướm; nghĩa là vẫn những cái tồn tại quanh ta. Nhưng với trái tim của một con người “sống là yêu và chết đi rồi vẫn còn yêu” thì cảnh sắc thiên nhiên đã được nhân hoá, mang các trạng thái tình cảm của con người: Đường rất lặng với hàng cây hay nhớ Xa sao đành mắt đẹp của hoàng hôn! (80 – Xuân Diệu) Nhà thơ thường mang cảm xúc trẻ trung sôi nổi của mình trải vào cảnh vật. đem những ước mơ, khát vọng của mình phủ lên thiên nhiên. Ông bắt thiên nhiên phải chiều ý mình, để biến những cái vốn vô tri vô giác thành những cái trĩu nặng tâm tư hoặc tưng bừng sự sống. Chẳng hạn chỉ với một từ “gió” mà Xuân Diệu đã tạo cho đời bao nhiêu là sắc thái: Gió thơm phơ phất bay vô ý Đem đụng cành mai sát cành đào.(13 - Xuân Diệu); Những tiếng ân tình hoa bảo gió, Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân. (30 - Xuân Diệu); Sao họ khéo nõn nà mà bợ ngợ Những nàng hoa chờ đợi gió phong lưu! (75 - Xuân Diệu). Khác hẳn với “gió táp mưa sa” trong ca dao. Các ý nghĩa khác nhau ấy nhằm diễn tả nhiều cung bậc cảm xúc của thi nhân. Rõ ràng với tình yêu, thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu đều cũng thiết tha say đắm. Ngôn ngữ mà nhà thơ dành cho thiên nhiên cũng là ngôn ngữ của tình yêu. Chính lòng yêu đời, nhạy cảm với đời đã giúp nhà thơ cảm nhận được những mối tương giao thầm kín, hô ứng giữa sự vật với nhau và với con người: Chính hôm nay gió dại tới trên đồi; Cây không hẹn để ngày mai sẽ mát; Trời đã thắm lẽ đâu vườn cứ nhạt? Đắn đo gì cho lỡ mộng song đôi! (65 - Xuân Diệu) Bao nhiêu cảnh sắc của thiên nhiên, của vũ trụ mà tác giả ca dao chỉ nhìn, chỉ ngắm để khảo sát tìm ra chỗ giống và khác nhau với cuộc sống con người thì đến Xuân Diệu ông kéo chúng xích lại gần mình để hưởng thụ trong cái thế giới trần gian của riêng mình. Ông cảm nhận bằng đủ tất cả các giác quan vốn có37: Anh một mình nghe tất cả buổi chiều (29 - Xuân Diệu); Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm (26 – Xuân Diệu). Thơ Xuân Diệu thuộc dòng văn chương bác học, và ở thời mà cái tôi hiện rõ. Thơ ông thể hiện tình yêu của một con người cuồng nhiệt, sống hết mình vì yêu. Ông muốn hòa mình vào đời nhưng lại tự thấy mình là kẻ cô đơn, lạc loài nên lại như người bị giam lỏng. Ước vọng không thành, không thỏa mãn với thực tại, cho nên ông càng thêm ảo tưởng. Phải chăng vì vậy mà trong thơ ông ta ít thấy có sự hòa hợp, xứng lứa vừa đôi; khổ đau nhiều hơn hạnh phúc. Điều này thể hiện ở việc các từ ngữ mang nghĩa ẩn dụ biểu hiện những cung bậc tình cảm của thi sĩ hầu hết đều ở dạng đơn lẻ. Trong thơ ông cũng có cặp từ sóng đôi như thuyền - bến, nhưng mối quan hệ giữa thuyền và bến ở đây chỉ là tạm bợ, không chặt chẽ, không biểu trưng cho hạnh phúc con người: Người giai nhân: bến đợi dưới cây già Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt. (70 - Xuân Diệu). Bến không lấy gì để ràng buộc thuyền được. Câu thơ đau đáu một nỗi niềm xót xa cho số phận bất hạnh. Nó khác hẳn với thuyền và bến trong ca dao: Một thuyền một bến một dây Ngọt bùi ta hưởng, đắng cay ta chịu cùng. (303 - Ca dao) Những lúc một mình, nhà thơ đã đủ thấm thía nỗi sầu cô đơn, ấy vậy mà ngay cả lúc sánh bước bên người tâm đầu ý hợp cũng chẳng dịu nhạt đi nỗi cô đơn: Hoa ngỡ đem hương gửi gió kiều, Là truyền tin thắm gọi tình yêu, Song le hoa đợi càng thêm tủi, Gió mặc hồn hương nhạt với chiều. (78 - Xuân Diệu). Bởi “hoa” vẫn cứ là “hoa”, “gió” vẫn cứ là “gió”, chẳng bao giờ hoàn toàn hòa quyện. Vì “cái tôi” của nhà thơ là “cái tôi” luôn xê dịch đâu phải “cái tôi” đứng yên. Nên lúc nào nhà thơ cũng cảm thấy cô đơn, lạnh lẽo. Hình ảnh “lòng” xuất hiện nhiều trong thơ ông là một cách để nhà thơ phơi bày tình cảm, “phơi trải cái tôi”. Nói đến “lòng” là nói đến nhiều trạng thái tình cảm khác nhau, đan xen, hòa quyện vào nhau: yêu đời, cô đơn, buồn đau, sự thất vọng…Thi sĩ còn sáng tạo những kết hợp mới của từ lòng: nhụy lòng, nhị lòng, hoa lòng… tạo nên những ẩn dụ phức hợp mà ta không thấy có ở ca dao38: Người si muôn kiếp là hoa núi, Uổng nhụy lòng tươi tặng khách hờ. (79 - Xuân Diệu) Một từ khác nữa cũng khá mới lạ, xưa nay ít gặp trong thơ văn, đó là hồn. Tìm hiểu khái niệm hồn là đồng nghĩa với việc tìm hiểu thế giới tâm linh con người, phát hiện ra cái tôi ẩn chứa trong đó. Con người cá nhân trong thơ Xuân Diệu là con người của sự suy tư, đau đớn, cảm xúc, đào sâu vào bản ngã: - Linh hồn ta còn u ẩn hơn đêm, Ta chưa thấu, nữa là ai thấu rõ. (21 - Xuân Diệu) - Chớ đạp hồn em!…39 (69 - Xuân Diệu) Các ẩn dụ trong thơ Xuân Diệu góp phần giải bày mọi bí mật của cõi lòng, từ nỗi buồn, nỗi cô đơn, những khát khao phi chuẩn mực, những giây phút yếu đuối, thất vọng chán chường có tính suy đồi, đến ghen tuông, thèm khát trần tục. Theo nhà thơ, hình như không có gì là vĩnh cửu, tất cả đều có thể biến đổi, từ thiên nhiên đến lòng người. Ông cũng có những hoài bão, và khát vọng cháy bỏng nhất ở ông là mơ ước tự do, được sống đúng với bản sắc và nhân cách của mình. Nhưng, như đã có lần nhắc tới ở trên, thực tại mà tác giả bắt gặp không phù hợp với ước mơ; nó phũ phàng và đầy đau xót. Rồi những ước mơ mà nhà thơ khao khát như một lẽ sống, như một cứu cánh về tinh thần cũng thật mỏng manh, mờ mịt. Đó là nguyên nhân đưa đến nhiều liên tưởng mới của thơ ông: - Mưa, theo ca dao, biểu trưng cho thân phận người phụ nữ, nhưng Xuân Diệu lại liên tưởng đến tình yêu của thi sĩ: Lòng ta là một cơn mưa lũ Đã gặp lòng em là lá khoai Mưa biếc tha hồ rơi giọt ngọc Lá xanh không ướt đến da ngoài. (54- Xuân Diệu) - Kết hợp cây đời, nhụy đời, ở thơ ông, biểu trưng cho sự trường tồn, sự vĩnh hằng của tình yêu: Mãi mãi môi em nhụy đời vô hạn Và cây đời! Ôi xán lạn xanh tươi. (156 - Xuân Diệu) - Lá - cành biểu trưng hình ảnh con người chờ đợi tình yêu: Lá lim dim trên mấy ngọn bằng bằng Cành lả lả chờ tay ai đón đẩy. (75 - Xuân Diệu) 3.2. So sánh giữa Ca dao trữ tình và Xuân Quỳnh thơ tình 3.2.1. Từ ngữ, hình ảnh dùng làm cơ sở cho sự liên tưởng ẩn dụ a. Số lượng từ ngữ mang nghĩa ẩn dụ trong thơ Xuân Quỳnh không phong phú như ca dao, chỉ có 37 từ ngữ, chỉ các hiện tượng tự nhiên, thế giới vật thể, thực vật, động vật, và thế giới nội tâm. Ở thơ chị không có mặt những từ chỉ các công trình kiến trúc như: đình, chùa, nhà, giếng, cầu, chợ mang nghĩa ẩn dụ. Nhưng không phải vì tất cả những điều ấy mà thơ Xuân Quỳnh trở nên nhạt nhẽo. Ngược lại, chỉ với một vài từ, một vài hình ảnh mới so với ca dao, Xuân Quỳnh đã tạo nên một hồn thơ bất hủ như con tàu - sân ga, ngọn lửa… b. Kết quả thống kê cho thấy có các từ ngữ trong thơ Xuân Quỳnh và ca dao trùng nhau, nhưng sự liên tưởng không hoàn toàn như nhau. Ca dao và thơ Xuân Quỳnh đều có cặp từ sóng đôi: thuyền - biển mang nghĩa ẩn dụ. Nhưng nếu ở ca dao hai hình ảnh thuyền - biển chỉ gợi về nỗi đau xa cách một cách chung chung: Ai làm cho biển cạn khô, Cho thuyền sang không đặng, Hán Hồ xa nhau (11), thì ở Xuân Quỳnh thơ tình chúng biểu hiện nhiều cung bậc, trạng thái của tình yêu, lúc dịu êm, lúc lại dữ dội - cái dữ dội dễ thương hơn là đáng sợ, cái dữ dội làm cho đôi lứa xích lại gần nhau hơn, Thuyền và biển của Xuân Quỳnh có thể đi đến tận cùng của sự sống, để thỏa mãn khát vọng của thuyền và cái bao la của biển. Biển với Xuân Quỳnh đã hóa thân thành người phụ nữ nhỏ bé nhưng dám khẳng định dứt khoát: Suốt cuộc đời biển gọi ước mơ Nỗi khát vọng những phương trời chưa đến Đứng trước biển quên những điều nhỏ hẹp Lại thấy lòng trong sạch thêm ra. (25 - Xuân Quỳnh ) Tương tự, sóng của thơ Xuân Quỳnh cũng không hoàn toàn là sóng của ca dao. Sóng, biển trong ca dao chủ yếu gợi lên những khó khăn, thử thách, trắc trở trong cuộc đời mà ta cần đề phòng, cố gắng để vượt qua. Còn trong thơ Xuân Quỳnh con sóng cũng có khát vọng đến với cái vô biên để khám phá cái bản ngã: Sóng không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể (18). Nếu ca dao ví hạt mưa sa là thân con gái: Hạt vào đài các, hạt ra ngoài đồng (412- Ca dao), thì trong thơ Xuân Quỳnh, Hạt mưa sa cũng trên vũng lầy nước đọng nhưng lại có tính biểu trưng cao hơn, gợi về cả Một kiếp người nhắm mắt lệ còn rơi (5-Xuân Quỳnh ). Cùng là hình ảnh thư, nhưng với ca dao nó là chiếc cầu nối của tình yêu nam nữ nói chung. Với Xuân Quỳnh thì cụ thể hơn, đó là tình yêu chân thành của người con gái. Xuân Quỳnh còn viết về tiếng gà. Nhưng đó không phải là tiếng gà gáy vội tàn canh làm cản trở giờ tình tự của lứa đôi trong ca dao (484- Ca dao), mà đó là tiếng gà đánh thức cả một quãng đời của con người. Chỉ một tiếng gà mà bao nhiêu năm tháng của tuổi thơ hiện lên. Tiếng gà là hoài niệm, là niềm vui, lẽ sống của một cô bé mồ côi mẹ Xuân Quỳnh. Mạnh mẽ hơn, Xuân Quỳnh tự ví mình là ngọn gió nam hung dữ để khẳng định mình trên văn đàn nữ sĩ, đầy tự tin là Vẫn đủ sức làm cuộc đời xáo động. (260 - Xuân Quỳnh)40. Xuân Quỳnh còn khác tác giả dân gian ở chỗ không dùng sóng đôi những cặp từ trăng - gió, trăng - sao hay trăng - cuội mà lại dùng trăng - đêm. c. Xuân Quỳnh thơ tình và Ca dao trữ tình có những từ mang nghĩa ẩn dụ tương đối giống nhau: Cò được liên tưởng tới thân phận người phụ nữ41: - Những con cò con vạc từ xưa Vẫn lặn lội bờ sông bắt tép Cuộc sống vẫn ngàn đời nối tiếp (166 – Xuân Quỳnh ) - Cái cò lặn lội bờ ao Phất phơ đôi dải yếm đào gió bay. (71 - Ca dao) Núi - đèo được liên tưởng tới không gian cách trở42: - Mẹ lại hát ru con những bài ca đất nước: “… Khi đã yêu mấy núi đèo cũng vượt. (22 - Xuân Quỳnh ) - Anh về em những trông theo. Trông cho khuất núi, khuất đèo mới thôi. (438 – Ca dao) Thác ghềnh được liên tưởng tới khó khăn, thử thách của cuộc đời43: - Tôi đã qua bao thác ghềnh đá núi Qua thời gian tóc thoảng sợi màu mưa (164 - Xuân Quỳnh ) - Đôi ta lên thác xuống ghềnh Em ra đứng mũi để anh chịu sào. (176 – Ca dao) Nón được liên tưởng tới tình cảm, tình yêu đôi lứa44: - Trong mưa thấp thoáng hai người Một khung nón nhỏ che đôi mái đầu. (173 – Xuân Quỳnh ) - Nón này là nón u mê Nón này là nón đi về che chung. (353 – Ca dao) Thuyền được liên tưởng tới người con trai: - ...Chỉ có cát nghiêng về phía sóng Như tấm lòng tôi ngóng những thuyền xa. (109 - Xuân Quỳnh) - Thuyền rời nhưng bến chẳng rời... (430 - Ca dao) Rõ ràng Xuân Quỳnh có tiếp thu những ẩn dụ của ca dao, nhưng tiếp thu một cách sáng tạo. Một phần cũng nhờ thể loại thơ tự do đã giúp chị diễn đạt một cách dàn trải hơn, đầy đủ những khuất chiết của tâm tư. Nhưng ngay cả khi sự tiếp thu được thể hiện ở thể thơ lục bát như ca dao thì ta cũng thấy sự sáng tạo tuyệt vời của nữ sĩ: Biết ơn hạt muối mặn mòi, Với gừng cay để cho người nhớ nhau (85-Xuân Quỳnh ). 3.2.2. Cơ sở của sự lựa chọn các từ ngữ, hình ảnh Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ thời chống Mỹ. Vào cuối thập niên 60 và nửa đầu thập niên 70, ở tiền tuyến lớn miền Nam diễn ra nhiều cuộc chiến ác liệt. Chị đã tự nguyện dấng thân vào nơi bom rơi đạn nổ ấy. Chính vì vậy chị hiểu rõ hơn ai hết thế nào là nỗi đau và sự mất mát do chiến tranh gây ra. Thực tế cuộc sống đã hằn sâu vào suy nghĩ của chị. Tâm hồn chị sớm tìm sự hòa nhập và lắng nghe tiếng nói của thời đại. Thời đại cần những con người xếp bút nghiên theo việc đao cung, thời đại mà một khi đã ra đi thì không hẹn ngày trở lại. Trong dòng suy nghĩ đó, ngòi bút của chị hướng về những con tàu - sân ga, ngọn lửa, những từ ngữ mang nghĩa ẩn dụ lạ so với ca dao. Sân ga đã trở thành nhân chứng lớn của những cuộc chia tay lịch sử: Sân ga chiều em đi Bàn tay da diết nắm Vừa thoáng tiếng còi tàu Lòng đã Nam đã Bắc. (61) Xuân Quỳnh thấu hiểu và cảm thông với những người phải sống trong bom rơi lửa đạn. Nhưng cái vĩ đại của họ là trong nguy nan họ vẫn bảo tồn được vận mệnh của tổ quốc, họ vẫn nghĩ về nhau: Ta nào quên thời chúng ta sinh Mọi con đường mang nỗi đau đạn lửa Con đường đỏ bừng ngụy trang cũng đỏ Con đường xanh màu lá ngụy trang xanh Từ con đường này em viết cho anh. (227 - Xuân Quỳnh) Những ai đã từng trải qua những năm tháng ấy, khi nhìn lại mới thấy hết niềm tự hào về một quãng đường hào hùng của dân tộc. Ở thời ấy, trong mắt Xuân Quỳnh, đến ngọn cỏ cũng biết cảm thông với những nỗi đau thương, mất mát của con người: Trong ác liệt bỗng biết ơn màu cỏ Cỏ làm bớt hoang tàn Cỏ làm bớt thương đau. (197-Xuân Quỳnh). Khác hẳn với hình ảnh cỏ trong ca dao, ở đây, tuy yếu ớt là vậy nhưng cỏ biểu trưng cho sức sống trường tồn, bởi tháng ngày xanh mãi không thôi (250). Sự liên tưởng ấy quả khá độc đáo! Có thể nói, cuộc đời chinh chiến đã giúp Xuân Quỳnh có nhiều liên tưởng mới, lạ. Cũng là biển, cũng là gió, là những hiện tượng muôn đời của thiên nhiên, nhưng trong thơ Xuân Quỳnh ít nhiều n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVNNH005.pdf
Tài liệu liên quan