Hiện na y n gười nông dân chọn hình thức ký gửi cà phê cho các đại lý cà ph ê
ở xã, hu y ện các tỉnh Tâ y Ngu yên . Đây là hình thức mua bán xuất hiện cách na y
chục năm và được xem là phương th ức mua bán ha y h ơn hẳn so với phươn g thứ c
tru y ền thống “tiền trao cháo múc”. Ký gửi được xem là “h iện đại” hơn cách mua
b án cũ vì các đại lý kinh doanh cà ph ê xây dựn g được kho chứa, có vốn lớn để khi
cần thì mua một lú c cà phê của nhiều hộ nôn g d ân. Còn nôn g d ân , tha y vì th u ho ạch
và bán ngay cho đ ại lý như trước với b ất kỳ mức giá n ào của ngà y hôm đó, thì
phươn g thức n ày cho phép nông dân đưa cà ph ê tới kho của đại lý như hình thức
tạm trữ , đồng thời được tạm ứn g một khoản tiền đ ể n gười nông d ân tran g trải được
n ợ nần. Nông dân theo dõ i diễn biến giá cả trên thị trường, bất kể lúc nào thấ y giá
b án có lợi, thì họ sẽ đến gặp thư ơng lái chốt giá bán, và lấ y tiền
74 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3405 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tìm hiểu thực trạng kinh doanh cà phê ở Việt Nam và khả năng ứng dụng thị trường giao sau cà phê tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biến chỉ nắm giữ khoảng 0,4% thị phần cà phê
chế biến thế giới nên trong phần này chúng ta sẽ chỉ tập trung vào tìm hiểu quá trình
giao dịch cà phê nhân từ khi thu hoạch cho đến khi xuất đi thị trường nước ngoài để
thấy được những tồn tại của nó làm cơ sở tìm ra những giải pháp thích hợp để giảm
bớt ảnh hưởng của sự biến động giá cả đối với ngành này.
31
Sơ đồ 2.1: Quy trình kinh doanh cà phê ở Việt Nam hiện nay
Quy trình từ sản xuất đến xuất khẩu cà phê có 3 chủ thể chính tham gia:
Nông dân sản xuất nhỏ
(chiếm 80% diện tích
trồng cà phê)
Cà phê nhân xô
Sơ chế tại đại lý
(làm sạch, phân loại
cho xuất khẩu)
Sơ chế lại tại các doanh
nghiệp xuất khẩu
Doanh nghiệp chế biến cà phê
rang xay
(5% tổng sản lượng sản xuất)
Thị trường nội địa Thị trường quốc tế
Doanh nghiệp xuất khẩu cà phê
nhân
(95% tổng sản lượng sản xuất)
Đại lý thu mua,
ký gửi cà phê
Cà phê nhân xô
Nông dân
trồng cà phê
Thương lái,
đại lý, thu
mua cà phê
Doanh nghiệp
xuất khẩu
cà phê
Nông trường và trang trại
(chiếm 20% diện tích
gieo trồng)
32
v Người nông dânà thương lái, đại lý thu mua cà phê
§ Về sản phẩm:
Có một nghịch lý: cà phê robusta Việt Nam chất lượng vào loại cao trên thế
giới, kể cả so với Indonesia nhưng lại thường phải bán giá thấp hơn cà phê cùng loại
của nước này. Sở dĩ như vậy vì người nông dân còn nhiều thiếu sót trong khâu thu
hái, sơ chế, phân loại và bảo quản.
Với giá nhân công tăng lên trong những năm gần đây, người nông dân
thường lựa chọn phương pháp tuốt hơn là hái từng quả, vì thế chất lượng quả cà phê
bị ảnh hưởng, đồng thời thu hoạch luôn cả quả xanh để đỡ bị mất trộm, giảm được
công hái (vì chỉ hái một lần là xong), phơi sấy một lúc, tiết kiệm được chi phí và
điều quan trọng nhất là vẫn bán được, vẫn có người mua, tuy giá có thấp hơn nhưng
lại được lợi ở nhiều khâu khác…
Bên cạnh đó, để không bán sản phẩm ngay sau vụ thu hoạch lại có thể bảo
quản được chất lượng thì cần phải có sân xi măng để phơi, kho bãi để chứa, máy
móc phân loại v.v… những thứ này hầu hết nằm ngoài tầm với của nông dân nên họ
để lẫn lộn cả cà phê chín và xanh khi bán, ủ cà phê trên đất dễ bị hút ẩm gây mốc và
lẫn sạn, cát… dẫn đến giá bán thấp. Đây là kiểu sản xuất mà cà phê tốt cũng chỉ bán
được với giá chẳng khác gì cà phê xấu. Chính vì việc hái cà phê khi còn xanh nên
đã làm giảm chất lượng quả vì hương sẽ không thơm, vị sẽ nhạt, nhân không đẹp,
không mẩy bóng mà teo tóp và làm giảm từ 10 – 15% sản lượng, khi xuất khẩu sẽ bị
khách hàng chê, bị trừ lùi cao (1 tấn từ 100 – 120USD).
Trong vụ cà phê 20052006, Tổ chức Cà phê quốc tế đã phân loại cà phê
nhập tại 10 cảng khác nhau ở châu Âu và trong số 1.485.750 bao cà phê bị loại của
17 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu, có đến hơn 72% là cà phê xuất xứ từ VN. Cho
nên tính ra mỗi năm ngành cà phê Việt Nam bị thiệt hại tới hàng trăm triệu USD.
§ Về phương thức mua bán:
Trước đây người nông dân sau khi thu hoạch cà phê thì lập tức bán ngay cho
đại lý thu mua theo kiểu “tiền trao cháo múc”. Nguyên nhân là do phần lớn nông
dân trồng cà phê thiếu vốn, trong quá trình trồng cà phê thường nhận tạm ứng trước
33
của đại lý để mua phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, bơm tưới… nên hầu hết sau vụ
thu hoạch là bị đại lý ép phải bán ngay để trang trải nào nợ nần, cho dù lúc thu
hoạch giá cả cao hay thấp, nông dân đều phải bán. Kiểu mua bán này luôn khiến
người nông dân ở thế yếu khi thu hoạch và bán cà phê vì giá nào cũng phải bán và
thường bị thương lái ép giá.
Hiện nay người nông dân chọn hình thức ký gửi cà phê cho các đại lý cà phê
ở xã, huyện các tỉnh Tây Nguyên. Đây là hình thức mua bán xuất hiện cách nay
chục năm và được xem là phương thức mua bán hay hơn hẳn so với phương thức
truyền thống “tiền trao cháo múc”. Ký gửi được xem là “hiện đại” hơn cách mua
bán cũ vì các đại lý kinh doanh cà phê xây dựng được kho chứa, có vốn lớn để khi
cần thì mua một lúc cà phê của nhiều hộ nông dân. Còn nông dân, thay vì thu hoạch
và bán ngay cho đại lý như trước với bất kỳ mức giá nào của ngày hôm đó, thì
phương thức này cho phép nông dân đưa cà phê tới kho của đại lý như hình thức
tạm trữ, đồng thời được tạm ứng một khoản tiền để người nông dân trang trải được
nợ nần. Nông dân theo dõi diễn biến giá cả trên thị trường, bất kể lúc nào thấy giá
bán có lợi, thì họ sẽ đến gặp thương lái chốt giá bán, và lấy tiền.
Tuy nhiên hình thức này không phải là không có rủi ro và những tổn thất do
những rủi ro này đem lại đối với người nông dân là vô cùng lớn: mất toàn bộ tiền
bán hàng khi đại lý vỡ nợ. Lý do rất đơn giản, các đại lý này cũng phải kinh doanh
lại bằng hai cách: ký gửi lại cho đại lý lớn hơn hoặc bán trước cà phê ký gửi của
nông dân lấy tiền đầu tư vào thương vụ khác để có lãi trả cho nông dân khi giá lên.
Điển hình năm 2008, hàng chục đại lý kinh doanh cà phê ở Đak Lak vỡ nợ đã bỏ
trốn do giá cà phê dù vẫn đang ở mức cao, trên 30.000 đồng/kg song lên xuống thất
thường khiến các đại lý đã bán trước cà phê của nông dân ký gửi với giá thấp cho
nhà xuất khẩu, tới khi giá lên, nông dân chốt giá bán bị lỗ nặng, gây thiệt hại cho
nông dân hàng chục tỉ đồng.
v Thương lái, đại lý thu mua cà phê à Doanh nghiệp xuất khẩu:
Các thương lái và đại lý thu mua cà phê thực chất chỉ là những người trung
gian giữa người nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu.
34
Với mạng lưới khắp các tỉnh Tây Nguyên cùng hệ thống kho bãi, các đại lý
hơn hẳn các doanh nghiệp xuất khẩu khi nhận ký gửi cà phê của nông dân đồng thời
cho phép chốt giá vào bất kỳ thời điểm nào. Với phương thức kinh doanh như vậy,
thương lái và địa lý cũng đang đối mặt với những rủi ro biến động bất lợi của giá cả
khi họ có thể phải thu mua với giá cao và bán ra với mức giá thấp không được dự
tính trước. Do đó thời gian vừa qua đã dẫn đến vỡ nợ hàng loạt của các đại lý bởi lý
do khi người nông dân chốt giá bán thì hàng ký gửi đã được thương lái xuất bán với
giá thấp từ trước đó cho doanh nghiệp xuất khẩu để lấy tiền làm thương vụ khác.
Rốt cuộc người nông dân vừa mất tiền vừa không thu hồi được hàng.
v Doanh nghiệp xuất khẩuà nhà nhập khẩu nước ngoài:
§ Về sản phẩm:
Bên cạnh đó tuy là thành viên của Tổ chức Cà phê quốc tế, song Việt Nam
vẫn chưa áp dụng cách thức phân loại cà phê theo tiêu chuẩn thế giới đã được tổ
chức này ban hành mặc dù đã có 25 nước tuân thủ. Việt Nam đã chấp nhận tiêu
chuẩn quốc tế ISO 10470:2004 và soạn thảo thành TCVN 41932005 nhưng tất cả
những tiêu chuẩn đó đều không được thực hiện, cho tới nay cà phê vẫn là loại hàng
hóa chưa bị bắt buộc kiểm tra chất lượng trước khi thông quan.
Phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê hiện nay chỉ là nhà thương mại
đơn thuần, tìm khách hàng nhập khẩu, ký hợp đồng và đưa xe container tới đại lý cà
phê “đóng hàng’; có nghĩa là các đại lý đảm nhận luôn cả khâu sơ chế, phân loại cà
phê theo từng tiêu chuẩn riêng của nhà xuất khẩu. Do việc áp dụng tiêu chuẩn là tự
nguyện, nên rốt cuộc cho đến nay rất nhiều doanh nghiệp vẫn duy trì phân hạng cà
phê theo 3 tiêu chí: thủy phần %, đen vỡ %, tạp chất %. Trong khi đó, các hợp đồng
mua bán cà phê robusta tại thị trường LIFFE đều xếp hạng cà phê dựa trên các
thông số chất lượng đo bằng phần trăm khối lượng, không phải bằng tỉ lệ phần trăm
số lỗi. Như vậy, cách xếp hạng theo phần trăm số lỗi mà ta đang áp dụng không
được quốc tế công nhận. Thế nhưng rất đông doanh nghiệp Việt Nam không muốn
áp dụng TCVN 41932005; các doanh nghiệp nước ngoài mua cà phê của Việt Nam
cũng không muốn áp dụng tiêu chuẩn này, vì không muốn phải trả giá cao hơn.
35
Như vậy, chúng ta xuất khẩu lẫn cả một lượng cà phê chất lượng xấu mà lẽ
ra phải được thải loại từ trước, vì thế cà phê tốt và xấu bị đánh đồng giá trong khi
người mua (nhà nhập khẩu cà phê VN) lại chọn lọc cà phê tốt để bán với giá cao,
còn cà phê xấu thì xuất trả. Đơn cử một con số: tỉ lệ lượng cà phê tuân thủ kỹ thuật
mà Tổ chức Cà phê quốc tế nhận được niên vụ 20032004 là 31,6% đã tăng lên
73,1% niên vụ 20052006 (xét toàn thế giới), Việt Nam nằm trong số 26,9% còn lại.
Chính vì vậy cà phê xuất khẩu của Việt Nam luôn bị phàn nàn về chất lượng
xấu, có lúc bị thải loại đến 60%, giá bị giảm 100200 USD/tấn, có lúc lên đến 600
USD/tấn tại London. Lượng cà phê robusta được cấp chứng nhận chất lượng
London ngày càng ít, khiến có lúc cà phê Việt Nam bị tồn kho tại London lên đến
400.000 tấn vào cuối năm 2007, đầu năm 2008.
§ Về phương thức mua bán:
Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà phê Việt Nam không đưa được
hàng lên các sàn cà phê của thế giới nên thường áp dụng phương thức bán hàng ký
hợp đồng giao sau, nhưng không chốt giá, mà vào thời điểm giao hàng mới chốt giá
dựa vào giá giao dịch trên thị trường và trừ lùi một mức nhất định.
Khi ký hợp đồng giao sau nhà nhập khẩu phải ứng trước cho doanh nghiệp
70% giá trị hàng hoá. Giá xuất không được chốt tại thời điểm đặt bút ký hợp đồng
mà căn cứ vào giá cà phê tại sàn London vào đúng ngày giao hàng, sau đó lấy giá
này trừ đi các chi phí chênh lệch, thuế, vận chuyển... và mức trừ lùi giá thường lên
tới 50100 USD/tấn. Điểm yếu của các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê hiện nay là
không dự đoán được sự lên xuống của thị trường, đồng thời không đánh giá được
sản lượng và tình hình thực tế cung, cầu trên thế giới, hầu hết đều dựa vào các kênh
thông tin chính là Reuter, Dowjohn… trong khi đây là các kênh thông tin phục vụ
người mua chứ không phải người bán. Chính vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam
luôn bị các nhà nhập khẩu nước ngoài dắt mũi. Khi các đối tác nước ngoài đã ký
được nhiều hợp đồng mua hàng với các doanh nghiệp Việt Nam, họ sẽ coi như đã
“nhốt” được các doanh nghiệp Việt Nam vào cái rọ. Đến thời điểm mà nhiều doanh
nghiệp Việt Nam phải giao hàng thì giới đầu cơ ở sàn London sẽ cấu kết với nhau
36
làm giá để đẩy giá bán cà phê tại sàn này xuống thấp. Lúc đó, các doanh nghiệp
Việt Nam buộc phải giao bán hàng cho họ với giá rẻ mạt.
Thông qua tìm hiểu quy trình giao dịch cà phê hiện nay của Việt Nam, chúng
ta có thể nhận thấy rủi ro biến động giá đang tác động lên từng khâu và ảnh hưởng
đến tất cả các đối tượng tham gia giao dịch, điều này sẽ được thể hiện rõ hơn trong
bảng bên dưới.
Bảng 2.3: Rủi ro đối với người sản xuất và kinh doanh cà phê VN khi
xảy ra biến động giá
Đối tượng Những rủi ro tiềm ẩn Nguyên nhân
Sản xuất nhưng không dự tính
được chi phí và giá bán đầu ra
Không có hợp đồng đầu ra trước
khi sản xuất
Chất lượng cà phê thấp => giá
bán thấp
Không có phương tiện hỗ trợ cho
việc thu hoạch và phân loại cà
phê
Người nông
dân
Ký gửi cà phê cho đại lý =>
rủi ro mất hàng mà không thu
được tiền, bị ép giá
Không có kho chứa, không đủ
vốn để trữ hàng
Đại lý Nhận ký gửi nhưng chưa chốt
giá => bị thua lỗ khi giá lên
Do đã bán hàng ký gửi khi giá
thấp
Giá xuất khẩu thấp hơn giá trị
thực tế, lượng hàng xuất trả do
dưới tiêu chuẩn nhiều
Chưa phân loại cà phê theo tiêu
chuẩn quốc tế
Doanh nghiệp
xuất khẩu
Ký trước hợp đồng đầu ra
nhưng chưa chốt giá bán +
nhận tạm ứng 70% giá trị hợp
đồng => không thể hủy HĐ
cho dù giá bán thấp
Không đủ vốn để tạm trữ hàng,
khi có biến động giá sẽ giảm giá
mua trong nước
37
2.1.2.2. Thiếu thông tin dự báo thị trường mang tính chuẩn xác
Bên cạnh quy trình sản xuất – kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi ro, có một vấn đề
không thể không nói tới đó là người sản xuất và kinh doanh cà phê hầu như bị động
hoàn toàn trước diễn biến giá cả cà phê thế giới, sẽ là quá muộn nếu chỉ đợi tình
hình thế giới biến động rồi mới điều chỉnh. Với cương vị là nước xuất khẩu cà phê
đứng thứ hai thế giới, thật khó có thể tưởng tượng là ngay cả hiện nay vẫn chưa có
cơ quan nào ở VN dự báo thị trường cho ngành hàng quan trọng này.
Theo nhận định của các nhà kinh doanh cà phê chuyên nghiệp, hầu hết các
cơ quan dự báo về ngành cà phê trên thế giới là lực lượng phục vụ cho người mua
chứ không bao giờ vì người sản xuất. Chính bất công này đã khiến người nông dân
luôn chịu cảnh điêu đứng vì giá bán thấp và ít khi được hưởng những thành quả
đáng ra phải thuộc về mình. Cụ thể niên vụ 2009 2010 họ dự báo Brazin sản lượng
lên tới 50 triệu pound (0.454 kg/pound) nhưng thực tế chỉ có 39 triệu pound, còn
VN tới 22 triệu pound nhưng thực ra chỉ có 18 triệu pound. Tiếp tục sang niên vụ
2010 – 2011, họ lại dự báo “khống” Brazin sẽ đạt 56 – 58 triệu pound nhưng khả
năng chỉ đạt chưa tới 47 triệu pound, còn VN sẽ đạt trên 20 triệu pound nhưng căn
cứ tình hình hiện tại cao nhất VN cũng chỉ đạt 17,5 triệu pound mà thôi. Đầu năm
2010 tổ chức cà phê thế giới (ICO) cũng đã tuyên bố: các hãng tin tư nhân đưa tin
không chính xác, đồng thời khẳng định lượng cà phê tồn kho trên toàn cầu đang ở
mức thấp kỷ lục, tại Châu Âu lượng cà phê tồn kho chỉ còn 10 triệu pound so với 16
triệu pound cùng kỳ. Tình hình này cũng diễn ra tương tự tại Hoa Kỳ và một số
nước có thói quen sử dụng cà phê khác. ICO cũng khẳng định, hiện Brazil đang hạn
hán nên sẽ ảnh hưởng tới việc ra hoa và sản lượng vụ tới. Còn tại VN, sản lượng cà
phê vụ này do ảnh hưởng của hạn hán kéo dài nên hạt nhỏ, tỷ lệ cây già cỗi lên đến
gần 30%. Hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum bị tác động của mùa mưa bão năm ngoái và
hạn hán nặng nề năm nay nên sản lượng cà phê ở 2 tỉnh này có thể giảm tới 20%.
Như vậy nếu chúng ta không xây dựng được một cơ quan dự báo chuyên
nghiệp để có được những số liệu phân tích dành cho riêng mình thì ngành cà phê
cũng sẽ khó có thể chủ động được việc sản xuất và kinh doanh.
38
2.1.2.3. Vai trò mờ nhạt của Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam
Tuy chúng ta có Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam (VICOFA) nhưng Hiệp
hội cũng chưa đưa ra được những dự báo tương đối chính xác có thể hỗ trợ cho
ngành. Thực tế hiện nay Hiệp Hội chỉ chú trọng tới chỉ tiêu xuất khẩu chính phủ
giao và quan tâm lợi ích của các doanh nghiệp thành viên chứ chưa thực sự quan
tâm đến đội ngũ nông dân trực tiếp sản xuất. Hiệp hội mới chỉ đóng vai trò điều
hành xuất khẩu mà chưa điều hành được sản xuất sao cho cung phù hợp với cầu
cũng như chưa hướng dẫn hay đề ra các giải pháp khả thi để thực sự hỗ trợ cho
người nông dân khi có rủi ro bất ổn giá cả sản phẩm.
Chính sách tạm trữ của Chính phủ, theo đề xuất của VICOFA là đảm bảo
nông dân trồng cà phê có lợi nhuận tối thiểu 30% thông qua hỗ trợ doanh nghiệp
xuất khẩu vay vốn ngân hàng No& PTNT Việt Nam từ nguồn vốn hỗ trợ của nhà
nước với lãi suất ưu đãi để mua tạm trữ 200.000 tấn cà phê. Thế nhưng các doanh
nghiệp xuất khẩu hội viên của VICOFA có khả năng tạm trữ (một hình thức ký gửi)
lại công nhận rằng họ chỉ có khả năng tạm trữ cà phê bằng cách gom từ các đại lý
lớn của mình, chứ không thể gom cà phê trực tiếp của nông dân. Bên cạnh đó các
doanh nghiệp tham gia mua tạm trữ lại mua cà phê theo giá thị trường, có nghĩa là
giá thấp thì họ mua thấp, giá cao họ mua cao, nên mục tiêu nâng đỡ giá cho nông
dân của chính sách này hầu như không có ý nghĩa. Đồng thời VICOFA và các
doanh nghiệp tham gia mua không xây dựng được giá sàn mua cà phê nên những lời
hứa đảm bảo nông dân có lãi tối thiểu 30% khi họ thuyết phục Chính phủ ban hành
chính sách, cũng chỉ là lời hứa. Hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn là nơi duy nhất được Ngân hàng Nhà nước chỉ định cho vay mua tạm trữ
cà phê có hỗ trợ lãi suất 6% từ ngân sách nhà nước nhưng theo Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Chi nhánh Dak Lak, lượng vốn đã giải ngân cho vay
mua tạm trữ cà phê trên địa bàn tỉnh chỉ hơn 400 tỉ đồng, ứng với hơn 17.000 tấn.
Lâm Đồng là địa phương có diện tích cà phê lớn thứ hai trong nước, sau Đak Lak,
việc doanh nghiệp mua tạm trữ còn èo uột hơn cả Đak Lak. Chính vì thế chính sách
cho vay mua tạm trữ cà phê đã thất bại hoàn toàn.
39
Tóm lại, tuy là một cường quốc xuất khẩu nhưng cà phê Việt Nam không có
thương hiệu, thiếu một chỗ đứng ổn định trên thị trường thế giới, không có các hợp
đồng mua bán dài hạn, nên các tổ chức kinh doanh xuất khẩu không tiên liệu được
chính xác nhu cầu của thị trường và chiều hướng biến động giá… dẫn tới không
định hướng được sản xuất. Người sản xuất chỉ biết sản xuất, không biết được khả
năng tiêu thụ. Người kinh doanh đến mùa vụ chỉ biết thu mua, không biết sẽ bán
được bao nhiêu,với giá nào… ngành cà phê Việt Nam càng phát triển thì cà phê trên
thế giới càng bị dư thừa, hậu quả là cà phê Việt Nam phải bán phá giá, dẫn đến thua
lỗ cả người kinh doanh và người sản xuất. Tình trạng bị động về tiêu thụ, may rủi về
giá là đặc điểm cơ bản của sản xuất kinh doanh ngành cà phê Việt Nam.
Chính vì vậy cần thiết phải nhanh chóng ứng dụng giao dịch giao sau cà phê
nhằm bình ổn giá cả và giảm thiểu rủi ro cho người nông dân trồng và doanh nghiệp
kinh doanh cà phê.
2.2. Khả năng ứng dụng hợp đồng giao sau vào giao dịch cà phê tại Việt Nam
2.2.1. Học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước
§ Trung Quốc phát triển sàn giao dịch hàng hóa với hạt nhân là các nhà
sản xuất:
Thực tế, ở các nước trong khu vực, mỗi sàn giao dịch hàng hóa thành công
thường gắn với một mặt hàng thuộc thế mạnh quốc gia như sàn Đại Liên – Trung
Quốc với đậu nành; sàn Bursa – Malaixia với dầu cọ; sàn Sicom với cao su… Với
các sàn giao dịch trong khu vực đã thành công, ở giai đoạn ban đầu, lực lượng hạt
nhân luôn là nhà sản xuất (có nhu cầu bảo hộ giá sản phẩm). Ở Trung Quốc đã từng
xảy ra việc bùng phát các sàn giao dịch hàng hóa nhưng lại chú trọng vào các nhà
đầu tư hàng hóa nhiều hơn, điều này giúp các sàn có khách hàng nhanh, nhưng phát
triển không bền vững. Số lượng các nhà đầu cơ quá lớn có thể gây nên tình trạng
mất cân đối cung cầu, thị trường nóng lạnh đột ngột. Sự phát triển quá nóng rồi
nguội lạnh có thể tạo ra dư luận xã hội không tốt, khiến sau này các nhà sản xuất có
nhu cầu bảo hiểm giá sản phẩm ngần ngại tham gia
40
§ Singapore – sàn giao dịch phải gắn với vùng nguyên liệu:
Trước Sicom, trên thế giới, cà phê đã được đưa lên một số sàn giao dịch. Nổi
tiếng và thành công trong số này có sàn Liffe (London) với cà phê Robusta và sàn
Nybot (Mỹ) với cà phê Arabica. Để cạnh tranh, Sicom đã nỗ lực tạo ra hấp dẫn
riêng. Đó là tổ chức cơ chế giao dịch phù hợp với nhiều đối tượng như giờ giao dịch
buổi sáng từ 10h – 12h, buổi chiều từ 16h – 23h (phù hợp với khách hàng châu Á và
châu Âu). Sicom còn nhấn mạnh tới yếu tố khu vực: các nhà sản xuất và các NĐT
tài chính giao dịch trên sàn Sicom sẽ sử dụng chuẩn chất lượng cà phê châu Á (theo
tiêu chuẩn chất lượng tại các cường quốc về cà phê như Việt Nam hay Indonesia).
Điều này khá hấp dẫn, vì chuẩn chất lượng cà phê Robusta trên sàn Liffe cao hơn
chuẩn Việt Nam hay Indonesia. Ngoài ra, Sicom cho sàn liên thông với Liffe.
Thế nhưng, kể từ ngày khai trương, cà phê được giao dịch khá thưa thớt, với
số lô giao dịch đếm trên đầu ngón tay. Sicom không thành công với cà phê có
nguyên nhân khá đơn giản là Sicom không có lợi thế ở trung tâm các vùng nguyên
liệu của các quốc gia sản xuất cà phê lớn như Braxin, Việt Nam, Indonesia. Để thu
hút NĐT, Sicom cho phép khách hàng ở Việt Nam giao nhận thực hiện thông qua
việc xuất hóa đơn của các kho hàng trữ cà phê tại TP. HCM hoặc Singapore. Tuy
nhiên, thực tế việc xuất nhập, kiểm tra hàng mất thời gian đến hàng tuần sau khi
hợp đồng đến hạn. Đây là điều không mấy thuận lợi nên các nhà sản xuất ngần ngại.
Trong khi đó, đối với NĐT tài chính, họ chưa tìm thấy ở Sicom điểm hấp dẫn hơn
so với sàn giao dịch cà phê Robusta London.
Năm 2008, Việt Nam đã thành lập Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma
Thuột được đặt tại Đăk Lăk, nơi sản xuất ra 50% sản lượng cà phê của ngành cà phê
Việt Nam và giao dịch loại hàng hóa duy nhất là cà phê.
2.2.2. Hoạt động của Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC)
BCEC là một tổ chức dịch vụ thương mại, nơi giao dịch, mua bán các loại cà
phê hạt khô (cà phê nhân) sản xuất tại Việt Nam, hoạt động theo phương thức đấu
giá tập trung và công khai gồm giao dịch mua bán giao ngay và giao dịch mua bán
41
giao sau; hoạt động theo nguyên tắc thành viên, dưới sự quản lý của UBND tỉnh
Đaklak. Theo đó BCEC vừa là thị trường sơ cấp vừa là thị trường thứ cấp:
Thị trường sơ cấp: Là những giao dịch mua bán lần đầu, sản phẩm của người
sản xuất lần đầu tiên được đưa vào giao dịch (sản phẩm không xuất xứ từ hợp đồng
mua trước đó tại Trung tâm Giao dịch Cà phê BMT) hình thành hợp đồng nguyên
thuỷ.
Thị trường thứ cấp (dành riêng cho giao dịch kỳ hạn): Là những giao dịch
mua bán lại quyền mua từ hợp đồng nguyên thuỷ (bên mua bán lại hợp đồng cho
người khác). Nghĩa là Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột phục vụ cho cả
người sản xuất và người kinh doanh, tiêu thụ.
Cơ cấu tổ chức của BCEC hiện nay:
Sơ đồ 2.2. Cơ cấu tổ chức của BCEC hiện nay
Các tổ chức kinh doanh trong nước muốn trở thành thành viên của BCEC
phải có vốn tự có ít nhất là 5 tỷ đồng, và có 3 năm liên tục gần nhất có số lượng cà
phê xuất khẩu, chế biến hoặc tiêu thụ ít nhất là 5.000 tấn/niên vụ.
Đối với các tổ chức môi giới phải có giấy phép hoạt động môi giới tài chính,
thương mại và có vốn điều lệ tối thiểu là 3 tỷ đồng, còn đối với các tổ chức môi giới
42
nước ngoài là 2 triệu USD. Các tổ chức, đơn vị không hội đủ các điều kiện để trở
thành thành viên nhưng muốn tham gia giao dịch tại Trung tâm phải được môi giới
thông qua một tổ chức thành viên.
Trung tâm có sàn giao dịch nên các tổ chức thành viên có thể giao dịch trực
tiếp tại sàn hoặc giao dịch qua mạng Internet. Thời gian giao dịch tại trung tâm là 5
phiên/tuần bắt đầu từ 19h30 đến 21h00 theo giờ giao dịch của thị trường Luân Đôn.
Sản phẩm cà phê đăng ký tham gia giao dịch tại trung tâm gồm 2 loại cà phê
chính là cà phê Arabica ký hiệu trong giao dịch là A và cà phê Robusta ký hiệu là
R. Mỗi loại cà phê được phân thành 6 thứ hạng từ hạng đặc biệt đến hạng 5 và loại
cà phê nhân xô (hỗn hợp).
BCEC có ba tổ chức ủy thác:
Ngân hàng ủy thác thanh toán là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương
(TECHCOMBANK), thực hiện các nghiệp vụ thanh toán cho các hoạt động
giao dịch tại Trung tâm.
Tổ chức uỷ thác kiểm định chất lượng sản phẩm là Chi nhánh Công ty Giám
định hàng hóa nông sản xuất khẩu thuộc Bộ NN&PTNT tại Đaklak
(CafeControl) thực hiện việc kiểm định chất lượng, phẩm cấp, chủng loại cà
phê.
Công ty An Giang ủy thác quản lý, kinh doanh kho với hệ thống kho bãi do
công ty Thái Hòa (công ty mẹ) đầu tư.
Để làm tốt các chức năng, nhiệm vụ trên và nhằm tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho các các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, chế biến, xuất khẩu cà phê,
nhất là đối với người trực tiếp sản xuất cà phê, BCEC cùng với Techcombank và
doanh nghiệp quản lý kho triển khai hoạt động ký gửi hàng hóa, cung cấp dịch vụ
tín dụng, các dịch vụ kho bãi, các dịch vụ khác về kiểm định, gia công, chế biến,
giao nhận hàng hóa khi khách hàng có nhu cầu, với hệ thống gồm 04 kho và 01
xưởng chế biến ngay tại Trung tâm.
Khi xây dựng dự thảo quy chế giao dịch, BCEC dự định triển khai cả hai
cách thức giao dịch là mua bán giao ngay và mua bán kỳ hạn. Tuy nhiên, sau đó
43
BCEC chỉ chọn mua bán giao hàng thật để bảo đảm từng bước đi phù hợp với trình
độ mua bán cà phê của phần đông nông dân và doanh nghiệp hiện nay.
Với phương thức mua bán này khiến BCEC giống một đại lý thu mua chứ
chưa hẳn đã trở thành một sàn giao dịch khi chưa có mua bán kỳ hạn, mà chỉ là mua
bán giao ngay. Khi giao dịch tại sàn người nông dân được hưởng khá nhiều lợi ích,
cụ thể như:
Người nông dân có thể yên tâm khi gửi kho của sàn, không sợ vỡ nợ, rủi ro
như ký gửi cà phê ở đại lý như bao lâu nay.
Người nông dân được hướng dẫn phân loại cà phê xô theo ba tiêu chuẩn dựa
trên kích cỡ hạt (có sàng đo kích cỡ để phân loại), đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, nhờ đó
bán thành phẩm được giá cao hơn nhiều so với bán xô tại đại lý.
Cà phê ký gửi được kiểm định chất lượng bởi công ty Cafecontrol, chỉ cần
30 phút sau khi nhập kho là có thể cho người gửi biết kết quả lô hàng nhập là bao
nhiêu phần trăm sàng 18 (cỡ hạt), sàng 16, sàng 13, độ ẩm, tỷ lệ hạt đen vỡ, tỷ lệ tạp
chất… đồng thời được cấp giấy chứng thư đã ký gửi trong đó có chứng nhận tiêu
chuẩn cà phê của Cafecontrol. Người nông dân có thể dùng nó để bán, cầm cố vay
tiền n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xay_dung_thi_truong_giao_sau_nham_phong_ngua_rui_ro_bien_dong_gia_ca_phe_tai_viet_nam.pdf