Luận văn Tính nhân văn trong cảm hứng phê phán của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái

MỤC LỤC

 

PHẦN MỞ ĐẦU 1

Chương 1:

CHÂN DUNG CÁI XẤU TRONG DIỆN MẠO

NHỮNG CON NGƯỜI CỤ THỂ 8

1.1 Nhu cầu bức thiết của việc vạch trần cái xấu trong cuộc sống 8

1.2. Những vấn đề nổi bật trong nội dung phản ánh cái xấu trong tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái 13

1.2.1. Con người tha hoá vì chạy theo chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa danh lợi 13

1.2.2Con người sống trong hận thù và mất niềm tin 30

1.3. Cơ chế xã hội dồn ép con người lương thiện vào những bi kịch trong cuộc sống 36

Chương 2:

Tính nhân văn trong cảm hứng phê phán của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái 43

2.1 Cái thiện hiện hữu trong từng con người tốt đẹp 43

2.1.1 Người trí thức có tài năng và cốt cách cao đẹp 43

2.1.2. Sự hồn hậu trong tâm hồn của những con người bình dị 49

2.2. Con người trong sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác 50

2.2.1 Quá trình phục thiện: sám hối, xưng tội 50

2.2.2. “Thiên sứ” dẫn dắt con người từ bóng tối ra ánh sang 57

2.3. Quan niệm sống mang đậm tính nhân văn của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái 60

Chương 3:

Nghệ thuật biểu hiện cảm hứng phê phán trong các tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái 68

3.1.1. Cốt truyện số phận 69

3.1.2. Cốt truyện luận đề 70

3.1.3. Cốt truyện tâm lý, hồi tưởng và ký ức 72

3.1.4. Cốt truyện phân mảnh- lắp ghép 74

3.1.5. Cốt truyện dòng ý thức 77

3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 78

3.2.1. Phạm trù thẩm mỹ trong xây dựng nhân vật 78

3.2.2. Hư cấu, tưởng tượng như là một thủ pháp nghệ thuật đắc lực trong việc thể hiện cảm hứng phê phán 81

3.2.3. Nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật 83

3.3. Một số đặc điểm về giọng điệu trần thuật 93

KẾT LUẬN 100

TÀI LIỆU THAM KHẢO 102

 

 

doc108 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2399 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tính nhân văn trong cảm hứng phê phán của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n thân mình. Anh kiếm nghề đạp xích lô đê tự nuôi mình ăn học, hết bậc phổ thông rồi vào đại học. Ra trường, anh vào công tác tại một cơ quan đối ngoại. Điều đặc biệt ở Toàn chính là sự ham ham học hỏi, “cứ nghe nói được đi học là tim Toàn đập rộn. Anh khao khát được đi học, nhất là học ngành ngoại ngữ” [34,152]. Chỉ nghĩ đến việc được đi học lên cao, Toàn đã ham mê và ao ước được lĩnh hội được nhiều kiến thức. Ham học hỏi, tâm hồn tinh tế, ham thơ ca…Toàn có một tâm hồn nhạy cảm và có tấm lòng say mê với công việc, có ước mơ, có khát vọng, có quyết tâm nhưng ước mơ của Toàn thực hiện được không phải là dễ khi bên cạnh anh tồn tại những con người ích kỷ luôn luôn rình rập, phá phách. Anh có được công việc đúng với nguyện vọng, năng lực nhưng lại bị thói ích kỷ, tham lam, hãnh tiến của những kẻ làm lãnh đạo tước mất hy vọng. Toàn bị Khuynh gây sức ép không cho đi học cao hơn ở nước ngoài. Ngồi nhìn ông thợ sửa xe cho mình, anh buồn bã thấm thía trước sự thật cay đắng: “Con người ta ai chẳng muốn vươn tới, muốn đi về phía trước. Nhưng chỉ một chút trục trặc nhỏ, một cái ốc, một cái đinh cavét… thế là phải chậm trễ, phải rớt lại đằng sau” [34,159]. Do cuộc sống phải tự lập quá sớm, Toàn luôn khép mình lại trong quan hệ với mọi người, kể cả với các bạn học thân thiết từ thuở nhỏ. Với tâm hồn nhạy cảm, anh thấu hiểu nỗi đau trong cuộc sống của bản thân mình, thấu hiểu những vấp ngã của Minh, thấu hiểu những khát vọng và mất mát của Trang và Hiệp và chính anh cũng luôn sống trong sự day dứt không nguôi để hoàn thiện mình. Trước những thực tế xung quanh có những điều cao cả và thấp hèn, những nhân hậu và độc ác, Toàn đã vươn lên để hoàn thiện mình như hình tượng cụ thể của chiếc mụn cơm xấu xí nơi tay anh mà anh luôn muốn bứt nó đi. Bằng tình yêu thương của mọi người, anh đã vượt qua được những trở ngại trong tâm hồn, tìm lại nguồn tin yêu vào cuộc sống và luôn có khao khát hoàn thiện bản thân mình. Bên cạnh Toàn là Hiệp, người bạn thân của anh, cũng là hình ảnh của một con người có khao khát đem công sức, tri thức của mình để xây dựng đất nước. Cùng Trang đặt chân lên hòn đảo Cát Bạc, anh mong muốn có thể góp một phần công sức của mình để làm thay đổi bộ mặt của hòn đảo nhỏ này bằng con đường xuất khẩu. Anh là tấm gương điển hình cho những con người năng động dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. 2.1.2. Sự hồn hậu trong tâm hồn của những con người bình dị Bên cạnh hình ảnh những người trí thức có cốt cách cao đẹp, trong tác phẩm của Ma Văn Kháng Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, hình ảnh những con người bình dị nhưng có tâm hồn cao quý được miêu tả một cách chân thực. Ta có thể bắt gặp đâu đó hình ảnh những người phụ nữ có cốt cách cao đẹp hay những con người đi ra từ cuộc chiến, trải qua những mất mát đau thương nhưng họ vẫn đau đáu khát vọng một cuộc sống tươi đẹp hay hình ảnh những em bé ngoan hiền, chăm chỉ, có tâm hồn yêu thương con người bao la rộng lớn. Trong tác phẩm của Ma Văn Kháng, người phụ nữ có phẩm chất cao đẹp được gợi tả một cách rất bình dị mà tràn đầy ý nghĩa. Viết về người phụ nữ, tác giả thường chú trọng đến những con người bình dị của cuộc sống đời thường. Khi xây dựng nhân vật người phụ nữ, Ma Văn Kháng thường chú ý đến vẻ đẹp tâm hồn mang tư tưởng công, dung, ngôn, hạnh, đạo đức truyền thống trong lối sống của họ. Bà nội cu Duy, cô Quyên, cô Đại Bàng trong Côi cút giữa cảnh đời là những con người như thế. Họ có tấm lòng nhân hậu, sự bao dung, luôn vững vàng trước những biến động khó khăn của cuộc đời. Trong Côi cút giữa cảnh đời, bà nội cu Duy được ví như bà tiên hiền từ che chở cho cuộc sống đầy bão tố của hai bé Duy và Thảm. Vượt qua sự nghèo đói, sự yếu đuối của tuổi già, bà nội cu Duy đã mạnh mẽ chống chọi lại thói đời xấu xa do tên Hứng, Luông gây nên để mang lại cuộc sống bình yên cho hai đứa cháu nhỏ tội nghiệp. Trong tác phẩm này, cô Quyên là hình ảnh người phụ nữ yêu chồng thương con, như người mẹ hiền của hai đứa bé đáng thương Thảm và Duy. Trong sáng tác của Hồ Anh Thái, những nhân vật phụ nữ được đặt trong những hoàn cảnh éo le, gặp nhiều bi kịch trong cuộc sống nhưng họ vẫn giữ được thái độ sống tích cực. Đó là hình ảnh của những con người lam lũ vất vả nhưng vẫn không ngừng vươn lên sống một cuộc sống hữu ích cho cộng đồng, xã hội. Đó là Miên và Giềng trong Cõi người rung chuông tận thế. Đó là hai người phụ nữ mang những bi kịch của những người ra đi từ cuộc chiến. Trong chiến tranh, họ đã sẵn sàng hy sinh cả tuổi xuân và tính mạng của mình để mong muốn được sống hạnh phúc trong hòa bình. Mặc dù vậy, khi đất nước hòa bình, trở về sau cuộc chiến, họ phải đối mặt với sự lạc lõng, phải đối đầu với cái ác, nhưng trong họ bản chất hy sinh vì người khác vẫn còn thắm đượm. Trong sáng tác văn học thời kỳ đổi mới, ta còn thấy những tâm hồn trẻ thơ trong sáng, đáng yêu. Mặc dù rơi vào hoàn cảnh éo le nhưng các em nhỏ vẫn ngoan hiền, cố gắng vươn lên trong cuộc sống. Trong sáng tác của Ma Văn Kháng, bên cạnh những nhân vật trẻ em có tính cách xấu như Vàng Anh, Vành Khuyên là em nhỏ có tính cách rất đáng trân trọng đó là Duy. Gặp bất hạnh ly tán cha mẹ từ nhỏ, Duy ở với bà nội. Trải qua bao sóng gió của cuộc sống từ tấm bé nhưng Duy vẫn dũng cảm cùng bà vượt qua mọi trắc trở trong cuộc sống. Hay, ta còn thấy nhân vật cu Đức trong Người và xe chạy dưới ánh trăng của Hồ Anh Thái là một em nhỏ tình cảm và có tấm lòng hiếu thảo sâu sắc. 2.2. Con người trong sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác 2.2.1 Quá trình phục thiện: sám hối, xưng tội Một trong những nỗi đau đau truyền kiếp của con người đó là sự hiện diện và tồn tại của cái ác. Một cuộc sống tươi đẹp, không còn sự ngự trị của cái ác là điều mơ ước của tất cả chúng ta. Con người vẫn đang tin tưởng rằng, cái ác có thể giảm đi phần nào khi con người biết sám hối đấu tranh để cái thiện giành phần chiến thắng. Phần lớn các nhân vật của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái luôn luôn luôn bị đặt trong trạng thái lựa chọn - đấu tranh giữa cái xấu và cái tốt, đấu tranh với môi trường, với kẻ thù và với chính bản thân mình để cuối cùng con người hướng về tính thiện trong nhân cách của mình bởi cái ác luôn là mầm mống gây nên những bi kịch trong cuộc sống. Con người sống trong những bi kịch do chính mình tạo dựng nên với đầy đủ sự đau khổ, day dứt khôn nguôi. Nhưng đáng quý thay từ những bi kịch mà họ vướng phải, từ những tâm hồn tìm thấy sự sám hối, dần dần họ đã hiểu ra giá trị của cuộc sống, chân lý của cuộc sống đó là niềm tin và tình yêu thương con người. Tìm lại giá trị con người, tìm đến với lẽ sống chính là quá trình sám hối. Xã hội và mỗi con người cần nhìn ngắm lại mình, chính vì vậy tự vấn là nhu cầu của mỗi cá nhân và của toàn xã hội. Tự thú là kiểu nhân vật xuất hiện nhiều trong các tác phẩm của Hồ Anh Thái và đặc biệt là Tạ Duy Anh. Tạ Duy Anh là người luôn trăn trở đi tìm nhân vật, tìm kiếm những mẫu người có thể bao quát được hết các vấn đề của con người đương đại. Nhân vật sám hối của Tạ Duy Anh là nhân vật nội tâm, nó gắn liền với nhân vật tìm kiếm, bởi vì quá trình tìm kiếm cũng là quá trình sám hối và sám hối giúp nhân vật được tìm lại chính mình. Nhân vật nổi bật trong quá trình tìm kiếm lại mình trong sáng tác của Tạ Duy Anh chính là Lão Khổ. Lão Khổ từ nhỏ đã mang thân phận khổ cực “Lão Khổ vừa thò mặt ra đời đã chìm lút trong cỏ rác. Có hồi mẹ con lão phải ăn cả bèo” [1,11], Lão Khổ đã từng “lừng danh một thời, ba đào một thời, lụn bại một thời” [1,11]. Mở đầu tác phẩm, nhà văn miêu tả “Một hôm, nhân lúc uống rượu, Lão Khổ bỗng phát hiện ra đa phần những việc đời lão làm đều có kết quả trái với ý định của lão” [1,7]. Trong toàn bộ tác phẩm, ta thấy Lão Khổ phải trải qua cuộc vật lộn trong hình phạt khủng khiếp, đối mặt với tòa án lương tâm, với tất cả những việc ông đã làm trong quá khứ. Sự sám hối của Lão Khổ là sự tự vấn với chính lương tâm mình, đánh giá lại những gì mình đã làm trong quá khứ với tính khách quan nhất. Đây thật sự là một việc làm có ý nghĩa đối với lão, là cách tốt nhất để cứu rỗi linh hồn của một con người như lão: “Cùng với hành động gượng dậy, Lão Khổ lại thấy không thể tha thứ hoàn toàn cho thằng Hai Duy. Đấy là những ngày cuộc đời lão bắt đầu có sự thay đổi sâu sắc. Lão bình tâm hơn để đong đếm lại những việc lão làm. Giả sử lão Tự có chết phơi thây cho ruồi bâu chim rỉa, không đáng cho lão bận lòng. Nhưng, có nhẫn tâm không khi con cái lão ta bị phân biệt đối xử? Chúng nó lớn lên trong chính thể của lão. Có một cuộc sống mà lão không kiểm soát được đã nuôi dưỡng mầm mống phản loạn của con lão sau này…Hoá ra ngần ấy năm chúng nó vẫn chờ nhau. Cả điều đó nữa Lão khổ cũng không thể hiểu nổi. Hình như cuộc sống vẫn còn lại cái gì thiêng liêng lắm, tồn tại ngoài tầm với của lão. Nó thăng thoát khỏi cõi tục nhầy nhụa để sờ thấy, đôi khi người ta phải trả giá bằng cực hình. [1,118-119]. Khi được người khác đánh giá về bản thân mình, “Lão Khổ giật thót mình…Nhưng câu phán của ông khách lạ này thật hàm súc mà thâu tóm được tất cả tình cảnh của lão. Lão long đong lận đận suốt đời, xét cho cùng bởi lão coi thường mồ hôi công sức của ông cha lão. Hồi lão đang được thiên hạ tung hô, lão mê muội như người luôn luôn sống trong mộng. …Tất cả những gì Lão Khổ mơ ước và tạo ra trở thành tai vạ cho đời lão….” [1,112-113]. Mở đầu tiểu thuyết Lão Khổ, nhân vật chính được đưa ra toà vì tội vu khống nhưng đến cuối tác phẩm Lão Khổ lại bị toà án lương tâm phán xét, lão phải nhận một hình phạt khủng khiếp, một hình phạt mà chỉ có toà án lương tâm mới phán xử như thế. Trong giấc mơ, Lão Khổ dũng cảm nhìn thẳng vào lòng mình, vào những nơi sâu kín nhất để tìm ra nguyên nhân thực sự của những biến động trong cuộc đời lão. Có lẽ khi đối diện với chính mình, lão mới nhận ra được bản chất của mình, lão quá lý trí, quá nghiêm khắc và bảo thủ, cứng nhắc như một khúc gỗ nên chính lão đã gây ra những bi kịch cho cuộc đời của mình. Trải qua những thăng trầm của cuộc đời, đến cuối đời Lão Khổ hiện ra với một chân dung chân thực và suy ngẫm về niềm tin vào cuộc đời “Phải thấy là phần lớn thời gian lão ngồi như hoá đã, tay đỡ vầng trán khá đồ sộ. Lão đang ngẫm về thế sự bằng nỗi đau thường trực. Một lần lão bảo: “Nếu không tin thì biết sống bằng gì? Cứ thế lão ôm mặt khóc rưng rức, khóc không giấu giếm” [1,177]. Trong Lão Khổ, bên cạnh Lão Khổ sống trong sự đấu tranh dằn vặt về cuộc đời mình thì Tư Vọc cũng bị ám ảnh về những tội lỗi của mình: “Nhưng ở đời không ai biết trước điều gì ngày mai đến với mình. Chưa thấy kẻ thù của mình ngã gục, tôi đã nhận một hình phạt khủng khiếp. Những cơn ác mộng không ngớt hành hạ tôi. Đêm nào tôi cũng phải chống trả với một bầy ma quỷ. Những kẻ bị tôi đầy đoạ, giết chóc mấy chục năm trước, hình như cũng chờ tôi trở về từ lâu lắm rồi. Đó là luật đời và trong cuộc “đen đỏ” ấy tôi đã thua trắng” [1,173-174]. Trong tác phẩm của Tạ Duy Anh, nhân vật tự thú thường không có sự thuần nhất trong nhân cách. Họ không phải là những nhân vật hoàn toàn tốt hoặc hoàn toàn xấu mà họ luôn ở giữa làn ranh thiện - ác. Trong tiểu  thuyết Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh, các nhân vật Chu Quý, Tiến sĩ N, nhà văn Bân, Thảo Miên tuy mỗi người có một cảm xúc khác nhau nhưng đều trải qua quá trình tự vấn bản thân mình. Suốt chiều dài tác phẩm, Chu Quý luôn dằn vặt về tội ác đã hãm hiếp cô gái rồi phải chịu hình phạt khủng khiếp là căn bệnh liệt dương đến suốt đời: “Khi tôi dừng lại, hoàn toàn chỉ còn là một khối bọt kết thành, thì ý nghĩ đầu tiền khiến tôi lo sợ là cô gái đã chết. Tiếng thở của cô rất yếu, mặt cô trắng bệch cùng với những giọt máu loang lổ trên đệm ghim chặt tôi vào hiện thực. Trời ơi!- tôi muốn gào lên- tại sao em không ô uế, nhơ nhớp trước khi gặp tôi? Tại sao em không là quỷ sứ để tâm hồn tôi có chỗ trú ngụ. Cảm giác mạnh mẽ nhất với tôi lúc đó là cảm giác hổ thẹn. Tôi thấy rõ tôi vừa làm một việc tội lỗi bởi vì tôi không hề yêu cô” [2,28]. Nàng Thảo Miên đã sám hối để trở về với bản chất trong trắng của mình. Còn Tiến sĩ N luôn bị ám ảnh bởi sự lừa dối trong cuộc đời mình và ý nghĩ hãm hại người khác. N sống trong đau khổ, giằng co giữa hai mặt của con người ông, một bên là một tiến sĩ hoàn hảo trước công chúng và vợ mình, một bên là một người sống trong giả dối, một người con quên cha, quên nguồn gốc. Tiến sĩ N lâm vào cuộc khủng hoảng tinh thần trong suốt cuộc đời mình. N tìm cách giải thoát cho mình bằng cách tình nguyện ra chiến trường để tìm kiếm một cái chết nhưng cái chết mà N hướng tới không thực hiện được lại mang tính vụ lợi: “Tôi quyết định tìm kiếm một cái chết…Đấy là cái chết được khoác danh nghĩa. Nhưng từ sâu xa chính là do tôi sợ chết” [2,128]. N tiếp tục phải sống trong giả dối. N không những không thoát được cuộc khủng hoảng tinh thần mà ngược lại, còn lâm vào cuộc khủng hoảng tinh thần trầm trọng hơn. Đó là thực tế đấu tranh giữa con người cá nhân và con người xã hội trong N. Bi kịch mà tiến sĩ N bị nhấn chìm chính là bi kịch giữa sự chân thực và giả dối. Nếu N sống thành thực với chính bản thân mình thì ông ta cũng đã không phải ân hận bởi những mất mát trong cuộc sống. Nhưng N vì hám lợi, vì ích kỷ nên ông đối nhân xử thế bằng bộ mặt thứ hai của mình: bộ mặt giả dối để rồi hàng ngày, ông lại vào phòng làm việc và chôn vùi trong sự đau khổ cắn xé lương tâm khủng khiếp. Kết thúc bi kịch giằng xé giữa cách sống chân thực và giả dối của N là cái chết đầy bất ngờ của vợ chồng N. Tự sát chính là quá trình sám hối toàn tâm và là cách để Tiến sĩ N trở về sự thuần khiết của tâm hồn. Có thể nói, trong những tác phẩm của Tạ Duy Anh, nhân vật sám hối được nhà văn thể hiện ngày càng sâu sắc và đậm nét qua các tác phẩm Lão Khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối. Trước tiên trong tiểu thuyết Lão Khổ thì kiểu nhân vật này mới được phác họa sơ lược, đến tiểu thuyết Đi tìm nhân vật, kiểu nhân vật sám hối bước đầu có những nét đặc trưng và đến tiểu thuyết Thiên thần sám hối thì nhân vật sám hối mới thực sự trở thành nhân vật trung tâm. Đây là một tiểu thuyết dài gần gần 100 trang nhưng tuyệt nhiên chúng ta không hề thấy xuất hiện một tiếng cười mà hoàn toàn là những chuyện thương tâm, tàn nhẫn xảy ra. Qua những tội ác của con người được kể ra, người đọc lần lượt được chứng kiến những nhân vật thể hiện sự sám hối của mình. Đó là cuộc xưng tội của một cô gái có chồng làm ở cục thuế có thai 3 lần đều bị sảy do những ám ảnh về tội lỗi mà chồng chị gây ra cho người khác (giết chết ả cave khi ả đang có mang với tên đội trưởng để làm trong sạch lí lịch của hắn). Vì sợ hãi phải vào tù mà chồng chị không dám ra đầu thú nên cả hai vợ chồng đều phải sống trong sợ hãi của tội lỗi. Từ khi chồng chị giết ả ca ve thì cũng là lúc vợ chồng chị sống không có hạnh phúc, chồng chị luôn sống trong hoảng loạn, những ân ái vợ chồng trở thành cực hình, những đứa con bị giết ngay khi chúng còn đang ở trong bụng mẹ: “Đêm nào anh ấy cũng ướt sũng rượu, lầm lì như đá, tránh xa bất cứ chỗ nào có đông người. Khi ngủ anh thường ôm ghì lấy em như không chịu phải đối mặt với bóng tối. Tỉnh dậy, anh ấy luôn luôn thảng thốt hỏi: “Tôi đang ở đâu?” rồi thở trút ra. Có hôm anh ấy rên ư ử như người bị trói, bị hành hạ rồi bất ngờ gào hú…Em có thai được ba tháng thì cơn ác mộng lại đến. Mọi việc diễn ra y như lần trước. Lần này ả ca ve cứ nhìn em chòng chọc. Ả thè lưỡi liếm vết thương đỏ máu…Em sờ tay vào bụng muốn che chở cho con em. Nhưng bàn tay của ả cave vấn khua khoắng, nạo vét khiến em lên cơn co thắt” [2,23]. Ba lần sảy thai của chị là ba lần truy đuổi ráo riết để trả thù của ả cave đã làm chị thật sự hoảng loạn. Chị mong rằng sự sám hối của chị dù có muộn màng, dù không thể cứu vãn được đứa con nhưng chị sẽ trút bỏ được gánh nặng tội lỗi của vợ chồng chị đã gây ra cho người khác.  Đó là sự sám hối của một cô sinh viên có người yêu đang là thực tập sinh ở Úc đã giết đứa con trong bụng của  mình để chạy theo tình yêu giả tạo của gã thanh niên xấu bụng là bạn của người yêu mình. Khi biết được sự thật về người thanh niên điển trai đồng thời với hình phạt mà cô phải nhận: vô sinh thì cô đã gửi lại bức thư - lời sám hối của cô và tự sát. Tự sát chính là sự sám hối của cô đối với tội ác mà cô đã làm. Cô nhà báo từng trao thân cho ông tổng biên tập một tờ báo để đổi lấy một công việc, đến lúc mang thai, cô hoang mang không biết đó là con của chồng hay của lão kia, sự ám ảnh nặng nề về tội lỗi của mình đã khiến cô đi đến hành động tội lỗi: giết đứa con trong bụng bằng cách ăn lá độc. Từ đó, cứ mỗi lần cô mang thai thì cứ đúng bẳng tuổi cái thai đầu tiên mà cô đã chối bỏ thì thai lại bị xảo ra. Điều đó tạo cho cô ý nghĩ rằng mình bị trừng phạt: “Em không sợ sự thật nữa cho dù nó tàn khốc. Bởi vì bất cứ hậu quả tồi tệ nào xảy ra với em, vẫn chưa phải là hình phạt nặng nhất mà em đáng phải nhận. Khi mục đích thiêng liêng bị đánh tráo, bị đem ra ngã giá thì biến thành con đường của tội ác chị ạ. Đã bao giờ chị tự hỏi lũ trẻ ăn sung mặc sướng, được nhồi nhét đủ thứ kiến thức, đủ thứ lí tưởng mà vẫn cứ phạm tội một cách dễ dàng không? Em tin rằng đó là những đứa trẻ ra đời do bố hoặc mẹ nó vụ lợi. Nó đã bị ruồng rẫy từ khi nó chưa thành người vì thế nó tìm thấy ở hành vi phạm tội như cái cách để báo thù” [2,72]. Trong Thiên thần sám hối, nhân vật người mẹ là người nghe tất cả những câu chuyện mà người khác kể lại. Từ đầu đến cuối truyện, chị đóng vai trò của một người luôn lắng nghe, chia sẻ tâm sự của từng người một. Trong phần lớn cốt truyện, chúng ta hình dung được đây là một người phụ nữ nhân từ và hiền hậu. Phải đến cuối truyện, qua dòng độc thoại nội tâm, chúng ta mới thực sự hiểu được những diễn biến tâm lí, quá trình tự đấu tranh với bản thân để vượt lên những khó khăn trong cuộc sống của chị: “Mình không có cơ hội nào nữa - cô ta nói đúng. Chưa mất hy vọng tức là chưa mất gì cả. Chả lẽ sự sống của mình, của chồng mình lại không được tiếp tục. Không, không bao giờ mình chấp nhận sự phán quyết bất công như vậy. Phải tranh đấu đến cùng - cuộc sống không thể dừng lại. Nó phải được tiếp tục mạnh mẽ, tươi đẹp, đầy ý nghĩa, ngay cả khi mình không còn trên thế gian này. Con ơi hãy cho mẹ cơ hội để sám hối về một lần mẹ đã chối bỏ con” [3,89]. Qua những dòng tâm lý độc thoại nội tâm, ta thấy chị là một người mạnh mẽ, có niềm tin và hy vọng vào cuộc sống. Mặc dù đã từng mắc phải sai lầm nhưng chị vẫn vững tin và hy vọng con chị sẽ cho chị cơ hội sám hối, cơ hội chuộc lại lỗi lầm của mình. Đây thực sự là tia lửa ấm áp, sáng soi trong toàn bộ câu chuyện đầy rẫy những tội ác, những lỗi lầm của con người. Trong suốt tiểu thuyết Thiên thần sám hối, Tạ Duy Anh đã đề cập tới những tội ác của con người. Quan niệm của Tạ Duy Anh coi tội ác lớn nhất của con người là giết chết mầm mống của sự sống, giết chết cả con đẻ của mình khi chúng mới chỉ là bào thai. Suốt cả cuốn tiểu thuyết, những câu chuyện khủng khiếp về cái ác, về tội lỗi của con người được viết ra, nhưng anh không dẫn câu chuyện đến ngõ cụt mà mở ra hướng đi nhân đạo, làm giảm bớt sự căng thẳng và cái nhìn bi quan về cuộc sống. Trong sáng tác của Hồ Anh Thái, ta thấy sự sám hối, sự hướng thiện trong bản thân con người thường đồng hành cùng việc đi tìm căn nguyên của cái ác. Trong tác phẩm Cõi người rung chuông tận thế, nhân vật Đông xưng Tôi là một người sống buông thả, chơi bời, trác táng, luôn nhìn đời bằng cái nhìn ghẻ lạnh và thù ghét. Tuy nhiên, sau khi chứng kiến ba cái chết thê thảm của ba gã trai trẻ Cốc, Bóp, Phũ, là ba người cháu thân thiết của mình, Đông đã nuôi ý định trả thù và lên đường đi tìm kiếm kẻ đã gây ra ba cái chết oan nghiệt đó. Ban đầu nhân vật Tôi cũng đồng lõa với cái ác, quyết tâm tìm cô gái trẻ Mai Trừng để trả thù cho ba anh chàng Cốc, Bóp, Phũ. Song, trên con đường tìm kiếm Mai Trừng đầy khó khăn, vất vả, Đông đã ngộ ra rằng mình đang đứng ở ranh giới giữa cái thiện và cái ác. Đông đã từng nghĩ “Cái chết đòi trả bằng cái chết” [38,102] nhưng đứng trên bờ vực của cái chết, Đông mới thấy quý mạng sống của mình và mới thấy thèm sống hơn bao giờ hết. Anh nhận ra bản chất, căn nguyên của cái ác chính là lòng thù hận. Sau những trăn trở nội tâm, Đông đã dẹp bỏ được ý định trả thù và quyết tâm hướng thiện. Trăn trở trong cuộc tìm kiếm nhọc nhằn, Đông bắt đầu ngộ nhận nhiều điều, trong đó anh nhận ra rằng cái ác có thể tung hoành trong cõi nhân gian chỉ khi con người còn chất chứa cái xấu xa, hận thù trong bản thân mình và ngộ ra một điều sâu xa rằng chỉ có tình yêu thương và sự bao dung mới có thể hoá giải mọi hận thù, mọi đau khổ và đem lại cho con người cuộc sống thanh thản. Không ngờ, quá trình tìm kiếm ấy lại là một quá trình hướng thiện. Anh ta nhận thức được cái ác, thấu hiểu giá trị của cuộc sống và nỗi đau của con người, sẻ chia với Mai Trừng cái sứ mệnh thiêng liêng đi trừng trị cái ác trong cõi đời này. Và có lẽ chỉ có tình yêu thương con người và sự thức tỉnh của con người mới có thể hóa giải, diệt trừ tận gốc cái ác, xây dựng cái thiện. Tác phẩm Người và xe chạy dưới ánh trăng của Hồ Anh Thái xây dựng thành công hình tượng nhân vật Khuynh là đại diện cho lớp người có lối sống vị kỷ, tham lam. Trải qua những mất mất của cuộc sống, Khuynh ấm ức, hận đời và tìm cách báo thù đời. Mất sự nghiệp, bị vợ con hành hạ, Khuynh càng trở nên lạnh lùng tàn nhẫn đáng sợ. Khuynh hoang mang và muốn huỷ diệt những mầm mống gây ra nỗi đau cho cuộc sống của mình. Khuynh đã bắn chết con chim sáo của cu Đức trong khi tưởng tượng đến người vợ ghê gớm của mình là một hành động mất tính người. Thế nhưng, “báo thù được rồi, bắn được chim sáo rồi, Khuynh không cảm thấy nhẹ nhõm chút nào. Có điều gì nhầm lẫn ở đây chăng? Bao nhiêu năm Khuynh đã bắn nhầm mục tiêu, đã giết oan những sinh vật vô tội. Oan hồn của chúng đã trả thù Khuynh. Còn cái ác, cái bất hạnh vẫn lẩn quất quanh đây, thậm chí còn sưng tấy ngay trong lòng Khuynh như một khối u ác tính. Hơn lúc nào hết, Khuynh biết mình đã phạm một sai lầm lớn và sai lầm dai dẳng. Thành ra Khuynh đã gây nên tội, mà chẳng đạt tới kết cục gì” [34,356]. Đối diện với nỗi thất thế trong cuộc đời, khi hiểu ra kết cục cuộc đời, hiểu ra lẽ sống nhưng đã quá muộn, Khuynh như bị phát điên “Ở dưới kia, Khuynh đang chạy roàm roạp trên con đường ngập quá gối. Rõ dở hơi cái nhà ông kia. Quần áo sang trọng, com lê chỉnh tề, thế mà chạy trong nước ngập như một con trâu lồng, không thèm xắn quần lên cho khỏi ướt. Giờ đây, Khuynh cần gì giữ gìn tư thế. Chức vụ, phẩm hàm, tư cách tước bỏ hết cả rồi. Trước mắt Khuynh chỉ có người đàn bà bị rạch mặt và căn nhà có phòng tắm nước nóng kia. [34,360]. 2.2.2. “Thiên sứ” dẫn dắt con người từ bóng tối ra ánh sáng Trong hệ thống nhân vật của Tạ Duy Anh và Hồ Anh Thái thường xuất hiện kiểu nhân vật như một loại “thiên sứ”, đó là những nhân vật đại diện cho cái thiện, cái cao đẹp để soi chiếu ánh sáng, niềm tin vào những tâm hồn u tối, mong cứu vớt những con người xấu ra khỏi vũng bùn của tội ác. Đó là nhân vật Hai Duy và Tâm trong Lão Khổ của Tạ Duy Anh là những nhân vật được đầu thai xuống cõi trần để dẫn dắt con người ngu tối thoát khỏi vòng vây của thù hận. Đó là Thảo Miên, cô gái điếm có đôi mắt buồn và tâm hồn thánh thiện trong Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh đã dẫn đường cho Chu Quý tìm lại chính mình và sám hối để hướng thiện tìm thấy niềm tin vào cuộc sống. Nhân vật hướng thiện trong Thiên thần sám hối đã giúp cho người mẹ của nhân vật “tôi” có niềm tin vào sức mạnh của tình yêu và sự tự do, tình yêu thương chân thành giúp bà có được điều mình mong muốn đó là một đứa trẻ. Lòng tốt luôn luôn có sức mạnh cảm hóa con người. Những con người tốt bụng, họ không phải là thiên sứ nhưng bằng tình yêu thương con người nồng hậu, họ đã dẫn dắt con người bước qua những bóng đen của cuộc đời, bước qua những lầm lỗi. Người và xe chạy dưới ánh trăng, Cõi người rung chuông tận thế là những sáng tác chủ yếu của Hồ Anh Thái viết về sự gắn bó của con người với con người, về tình yêu thương làm nên cuộc sống tốt đẹp của con người. Hồ Anh Thái luôn quan sát cuộc sống xung quanh mình bằng cái nhìn nhạy cảm, tinh tế và sâu sắc. Anh như hiểu thấu đáo mọi ngõ ngách của cuộc sống nơi thành thị. Nơi có nhiều niềm vui, hạnh phúc nhưng cũng không ít lọc lừa, phản trắc... Nhân vật của nhà văn sau những đau khổ mất mát, bất hạnh, cuối cùng họ vẫn tìm được chân lý của cuộc sống. Người và xe chạy dưới ánh trăng phản ánh hiện thực về cuộc sống ở khu tập thể có những con người tốt đẹp như mẹ con Mỵ, bố con Đức, vợ chồng bác Tường. Dù có khó khăn chồng chất và thiếu thốn, nhưng họ vẫn yêu thương nhau, đùm bọc, bỏ qua những sai sót, những nhược điểm và quá khứ lầm lỗi cho nhau. Lòng tốt của những người xung quanh là ánh sáng dẫn dắt những con người như Toàn, Khắc tìm lại niềm tin yêu của cuộc sống. Toàn là người có tài, có tâm nhưng cuộc sống của anh gặp nhiều trắc trở, mất mát. Sự mất mát ấy khiến Toàn sống thu mình và dường như cô lập giữa những người xung quanh. Nhưng cuộc sống vẫn vận hành cùng với Toàn, hàng ngày anh vẫn phải sống với thực tế xung quanh, nơi có cả cái tốt và cái xấu, cái cao thượng và cái thấp hèn, cái hiền lành và độc ác. Đối diện với cuộc sống ấy, Toàn mới thấy hết những phức tạp của cuộc sống con người. Được sống bên cạnh những người bạn tốt như Khắc, Mỵ, được chứng kiến những hành động tốt đẹp những

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuận văn tốt nghiệp- Tính nhân văn trong cảm hứng phê phán của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái.doc
Tài liệu liên quan