MỤC LỤC
Tên các đề mục . . trang
Mục lục i
Danh mục phần phụ lục . iv
Danh mục các chữ viết tắt . v
Lời cam đoan của tác giả: vi
Lời mở đầu . vii
Chương I : GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI . 1
1.1 Vấn đề nghiên cứu . 1
1.2 Ý nghĩa và mục tiêu của đề tài . . 2
1.3 Câu hỏi nghiên cứu 2
1.4 Các giả thuyết nghiên cứu . 2
1.5 Phạm vi nghiên cứu 3
1.6 Bố cục của luận văn . 3
1.7 Kết luận chương I . 4
Chương II: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NGHÈO
2.1. Khái niệm nghèo đói . 5
2.2. Lý thuyết về phát triển kinh tế: . 5
2.3. Lý thuyết tăng trưởng nông nghiệp và sự nghèo đói ở nông thôn . 6
2.4. Lý thuyết về nông nghiệp vớiphát triển kinh tế . 8
2.5. Lý thuyết về thay đổi và chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp. 10
2.6. Phương pháp xác định đối tượng nghèo . 10
2.7.Nguyên nhân nghèo đói . 12
2.8. Nhóm các yếu tố có ảnh hưởng đến tình trạng nghèo ở huyện Tri Tôn 13
2.8.1. Nhóm các yếu tố có liên quan tới hộ gia đình . 13
2.8.1.1. Những hạn chế của người dân tộc Khmer. 13
2.8.1.2. Giới tính của chủ hộ . 15
2.8.1.3. Trình độ học vấncủa chủ hộ. 15
2.8.1.4. Quy mô của hộ gia đình . 16
2.8.1.5. Vấn đề làm nông của hộ gia đình. 17
2.8.1.6. Số năm định cư tại địa phương của hộ gia đình. 18
2.8.1.7. Hộ có người đi làm xa. 18
2.8.2. Nhóm các yếu tố có liên quan tới nguồn lực sản xuất và cơ sở hạ tầng19
2.8.2.1. Vấn đề đất sản xuất . 19
2.8.2.2. Vay ngân hàng . . 20
2.8.2.3. Khoảng cách đến chợ và khả năng tiếp cận với cơ sở hạ tầng . 20
2.9. Kết luận chương II:. 21
Chương III : THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
3.1.Đặc điểm địa bàn nghiên cứu . 23
3.2. Vị trí địa lý của huyện Tri Tôn. 25
3.3. Phương pháp điều tra chọn mẫu . 27
3.4. Công thức đo lường mức độ nghèo. 28
3.5. Xác định chuẩn nghèo . 29
3.6. Mô hình kinh tế lượng . 29
3.7.Phương pháp nghiên cứu. 31
3.8. Kết luận chương III 31
Chương IV : KẾT QUẢ PHÂN TÍCH
4.1. Mô tả dữliệu điều tra ở huyện Tri Tôn. 32
4.2. Nghèo phân theo thành phần dân tộc . 32
4.3. Nghèo và giới tính của chủ hộ . 35
4.4. Trình độ học vấn của chủ hộ trong mẫu điều tra . 36
4.5. Số người phụ thuộc trong hộ gia đình . 38
4.6. Tình trạng làm nông của hộ gia đình. 39
4.7.Đi làm xa. 41
4.8. Sở hữu đất đai và tình trạng của hộ gia đình . 42
4.9.Đường ô tô và khoảng cách của hộ gia đình đến trung tâm chợ. 43
4.10. Vấn đề vốn vay và tình trạng của hộ gia đình. 44
4.11. Kết quả phân tích hồi quy . 46
4.12. Kết luận chương IV 50
Chương V : ĐỀ NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢM NGHÈO Ở HUYỆN TRI TÔN.
5.1. Diện tích đất của hộ gia đình. 52
5.2. Vấn đề đi làm xa . 54
5.3. Vấn đề giáo dục và học vấn. 55
5.4. Vấn đề làm nông của hộ gia đình . 56
5.5. Số tiền vay . 59
5.6. Một vài kiến nghị đối với công tác dân tộc Khmer . 60
5.7. Hệ thống nông hộ và phát triển bền vững . 61
5.8. Những hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứutiếp theo . 63
Kết luận: . 64
Phần phụ lục:
Tài liệu tham khảo
Phiếu phỏng vấn
Các bảng biểu kiểm định mô hình hồi quy
89 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2433 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tình trạng nghèo ở huyện Tri Tôn thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tức 1.447 320 271 18,72
13 Xã Cô Tô 2.905 444 386 13,28
14 Xã Tân Tuyến 1.521 349 312 20,51
15 Xã Ô Lâm 2.865 815 726 25,34
Toàn huyện 30.970 6.521 5.643 18,25
27
Nguồn: Phòng LĐTBXH huyện Tri Tôn (2008)
Huyện Tri Tôn có tổng số hộ nghèo là: 5.643 hộ, chiếm tỉ lệ 18,25% trên tổng
số hộ trong toàn huyện, một tỉ lệ cao nhất tỉnh. Như vậy, tỉ lệ nghèo của huyện Tri Tôn
cao gần gấp 3 lần tỉ lệ nghèo của toàn tỉnh. Theo Kế hoạch phát triển Kinh tế xã hội
huyện Tri Tôn năm 2009, trong những năm tới, phấn đấu giảm tỉ lệ hộ nghèo 4,5% /
năm.
3.3. Phương pháp điều tra chọn mẫu:
Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu theo hệ thống (systematic sampling).
Đầu tiên, chúng tôi xác định quy mô mẫu cần phải chọn, theo các nghiên cứu
trước đây, chúng tôi chọn quy mô mẫu là 182 mẫu, gồm có: xã Ô Lâm: 60 mẫu; thị trấn
Tri Tôn: 60 mẫu và xã Tà Đảnh: 62 mẫu. Cụ thể cách chọn mẫu hệ thống như sau:
- Đầu tiên: chia đám đông theo quy mô mẫu mong muốn để có bước nhảy, ví dụ:
xã Ô Lâm có tổng cộng 2.508 hộ, quy mô mẫu cần chọn là 60 mẫu, bước nhảy sẽ là:
42.
- Chọn điểm xuất phát: chọn một hộ ngẫu nhiên trong danh sách các hộ dân
trong xã làm hộ thứ nhất, hộ tiếp theo sẽ là hộ thứ nhất cộng thêm 42 hộ. Quá trình lần
lượt như vậy cho đến khi hoàn tất danh sách các hộ trong xã.
- Đối với thị trấn Tri Tôn và xã Tà Đảnh, chúng tôi cũng lần lượt thực hiện theo
phương pháp chọn mẫu theo hệ thống như trên.
Sở dĩ chúng tôi chọn các địa phương dưới đây để thu thập thông tin là do:
- Xã Ô Lâm có nhiều người Khmer sinh sống, người Khmer chiếm tỷ lệ 98%
dân số toàn xã, tỷ lệ hộ nghèo của xã là 25,34%, điều kiện đất đai của xã rất đa dạng
như: núi, ruộng cao, ruộng thấp.
- Thị trấn Tri Tôn: là trung tâm huyện lỵ, với hầu hết các ngành nghề trong cơ
cấu kinh tế như: nông lâm nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng, khách sạn nhà
hàng, khai thác đá… Tỷ lệ người Khmer trong thị trấn là: 21,5%; người Kinh và Hoa
là: 78,5%. Tỷ lệ hộ nghèo là của thị trấn là: 14,47%.
28
- Xã Tà Đảnh hoàn toàn là đồng bằng, toàn bộ dân số trong xã là người Kinh và
Hoa, cơ cấu kinh tế tương đối đa dạng ngoài nông nghiệp còn có nghề nuôi trồng thủy
sản, cơ khí nông nghiệp, xây dựng, thương mại dịch vụ. Tỷ lệ nghèo của xã là: 11,27%.
3.4. Công thức đo lường mức độ nghèo:
Phần tiếp theo chúng ta khảo sát một số tiêu chí diễn tả quy mô, mức độ và tính
nghiêm trọng của đói nghèo.
Theo Foster, Green và Thorbecke (1984) đã đưa ra công thức sau:
Trong đó:
Yi là đại lượng xác định phúc lợi (chi tiêu, thu nhập hay tài sản) cho người thứ i.
Z là ngưỡng nghèo.
N là số người có trong mẫu dân cư.
M là số người nghèo.
là đại lượng đo mức độ quan tâm đến sự bất bình đẳng giữa người nghèo.
Khi = 0, đẳng thức trên tương đương M/N, tức bằng số người nghèo chia cho
tổng số người trong mẫu. Thước đo nầy gọi là tỷ số đếm trên đầu người hay chỉ số đếm
đầu. Chỉ số nầy tuy phổ biến nhất nhưng cũng có nhược điểm, nó không cho thấy mức
độ nghiêm trọng từ chi tiêu của người nghèo so với ngưỡng nghèo. Chính vì vậy mà chỉ
số trên cũng không cho thấy sự thay đổi nếu người nghèo trở nên nghèo hơn.
Khi = 1, ta có chỉ số khoảng cách nghèo đói. Chỉ số nầy cho biết sự thiếu hụt
trung bình trong chi tiêu (thu nhập) của các hộ nghèo so với chi tiêu ở ngưỡng nghèo
và nó biểu hiện như mức phúc lợi trung bình trong tổng thể. Ta có thể xem đây như là
M
i
i
z
yz
N
P
1
1
29
mức chi phí tối thiểu để xóa bỏ nghèo đói (hỗ trợ người nghèo tùy theo khoảng cách
đến ngưỡng nghèo) với giả định mọi khoản chi chuyển nhượng đều đến đúng đối
tượng.
Khi =2, ta có chỉ số khoảng cách đói nghèo bình phương hay chỉ số nhạy cảm
nghèo, thể hiện mức độ nghiêm trọng hay cường độ của nghèo đói và làm tăng thêm
trọng số cho nhóm người nghèo nhất trong số những người nghèo. Điều nầy giải quyết
được nhược điểm của hai chỉ số trên là không phản ánh được sự khác biệt giữa các
người nghèo.
3.5. Xác định chuẩn nghèo:
Trong nghiên cứu của luận văn, tác giả chọn chi tiêu bình quân của mỗi người
trong hộ gia đình để làm tiêu chí xét hộ có là diện nghèo hay không. Căn cứ trên đề
xuất của Bộ LĐTBXH, theo đó, khi chi tiêu bình quân của mỗi người trong hộ nếu nhỏ
hơn 300.000 đồng / tháng thì hộ xem như diện nghèo.
3.6. Mô hình kinh tế lượng:
Như phân tích ở trên, tình trạng nghèo của hộ gia đình xuất phát từ những
nguyên nhân khác nhau. Điều đó có nghĩa là khả năng nghèo của hộ gia đình sẽ là một
hàm phụ thuộc vào những yếu tố ảnh hưởng đến nó. Để xác định một số biến số có khả
năng tác động đến xác suất nghèo của hộ, chúng tôi thiết lập mô hình hồi quy logistic
mà biến phụ thuộc có giá trị bằng 1 nếu hộ là nghèo và có giá trị bằng 0 nếu hộ không
nghèo.
Mô hình có dạng như sau:
Pr = f(dientich, dilamxa, hocvan, lamnong, sotienvay, dantoc, duongoto, gioitinhchu,
khoangcach , phuthuoc, sonam)
Trong đó:
30
Biến phụ thuộc:
Dạng hộ: là biến dummy, nhận giá trị 1 nếu hộ thuộc diện nghèo và nhận giá trị
0 nếu hộ không thuộc diện nghèo.
Biến độc lập:
1. Dientich: Là biến thể hiện diện tích đất của hộ gia đình (1.000 m2), kỳ vọng mang
dấu (-).
2. Dilamxa: là biến dummy, nhận giá trị 1 nếu hộ có người đi làm xa và nhận giá trị 0
nếu hộ không có người đi làm xa, kỳ vọng mang dấu (-).
3. Hocvan: là biến thể hiện số năm đi học của chủ hộ, kỳ vọng mang dấu (-)
4. Lamnong: là biến dummy, nhận giá trị 1 nếu chủ hộ làm việc liên quan tới nghề
nông và nhận giá trị 0 nếu chủ hộ làm việc trong các ngành phi nông nghiệp, kỳ vọng
mang dấu (+)
5.Sotienvay: là biến cho biết giá trị số tiền của hộ gia đình vay từ các tổ chức tín dụng
chính thức (triệu đồng), kỳ vọng mang dấu (-)
6. Dantoc: là biến dummy, nhận giá trị 1 nếu hộ là người Khmer và nhận giá trị 0 nếu
hộ là người Kinh – Hoa, kỳ vọng mang dấu (+)
7. Duongoto: là biến dummy, nhận giá trị 1 nếu hộ có đường ô tô đến tận nhà và nhận
giá trị 0 nếu hộ không có đường ô tô đến nhà, kỳ vọng mang dấu (-).
8. Gioitinh: là biến dummy, nhận giá trị 1 nếu chủ hộ là nam giới và nhận giá trị 0 nếu
chủ hộ thuộc nữ giới, kỳ vọng mang dấu (-)
9. Khoangcach: là biến thể hiện số Km từ hộ gia đình đến chợ, kỳ vọng mang dấu (+)
10. Phuthuoc: là biến thể hiện tổng số người sống phụ thuộc trong hộ gia đình, kỳ
vọng mang dấu (+).
11. Sonam: là biến chỉ số năm mà hộ gia đình đã sinh sống tại địa phương, kỳ vọng
mang dấu (-)
e. là sai số ngẫu nhiên.
31
3.7. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phần mềm phân tích thống kê SPSS (Statistical Package for
Social Sciences) để mô tả sự tác động qua lại giữa các nhóm yếu tố và áp dụng mô hình
logistic để phân tích sự tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến xác suất nghèo của hộ
gia đình. Ngoài ra, chúng tôi ứng dụng phần mềm Eview 4.1 để chạy mô hình hồi quy
và thực hiện các kiểm định.
Với các kết quả phân tích, tác giả lựa chọn và đề xuất các chính sách nhằm thực
hiện công cuộc giảm nghèo ở huyện Tri Tôn.
3.8. Kết luận chương III:
Sau khi xác định được phương pháp để tìm hiểu vấn đề cần nghiên cứu, chúng
tôi cố gắng xác định những yếu tố có thể ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng nghèo của
hộ gia đình ở huyện Tri Tôn. Khi tiến hành cho các yếu tố nầy biến động theo chiều
hướng khác nhau thì xác suất nghèo của hộ gia đình sẽ thay đổi như thế nào.
Giảm nghèo không chỉ là một trong những chính sách xã hội cơ bản được Nhà
nước Việt Nam đặc biệt quan tâm, mà còn là một bộ phận quan trọng của mục tiêu phát
triển kinh tế của đất nước. Mặc dù, chúng ta đã đạt được thành tựu rất to lớn trong thời
gian qua, song những thách thức sắp tới đối với công cuộc giảm nghèo sẽ luôn là vấn
đề cần được các cấp, các ngành tiếp tục nghiên cứu và phải có những giải pháp hữu
hiệu, đồng bộ để công tác xóa đói, giảm nghèo của chúng ta tiếp tục thu được những
thành tựu mới.
32
CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH
4 .1. Mô tả dữ liệu điều tra ở huyện Tri Tôn:
Đề tài tiến hành thu nhập thông tin từ 182 mẫu được lấy ngẫu nhiên ở huyện Tri
Tôn, trong đó, thị trấn Tri Tôn 60 mẫu, xã Ô Lâm 60 mẫu và xã Tà Đảnh 62 mẫu.
Số lượng hộ nghèo trong mẫu quan sát là 54 hộ, chiếm tỷ lệ 29,67%, tỷ lệ nầy
cao hơn tỷ lệ nghèo của huyện Tri Tôn công bố vào đầu năm 2008 là: 21,97%. Vì thời
điểm hiện nay, huyện vẫn dùng chuẩn nghèo căn cứ theo quyết định số: 170/2005/QĐ-
TTg ngày 8/7/2005: Thu nhập từ 200.000 đồng người / tháng ở khu vực nông thôn và
260.000 đồng người / tháng ở khu vực thành thị. Trong luận văn, xét tình hình thực tế
tại địa phương, chúng tôi xét hộ nghèo theo đề nghị của Bộ LĐTBXH và lấy ngưỡng
nghèo là thu nhập 300.000 đồng người / tháng ở khu vực nông thôn, do vậy, tỷ lệ nghèo
trong mẫu điều tra có tăng hơn số liệu của huyện Tri Tôn công bố.
Theo PPA An Giang (2008), cho thấy chuẩn nghèo theo quyết định trên là
không phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương, một nông dân đã phát biểu: “Với
ngưỡng 200.000 đồng / người / tháng, thì ở An Giang không có hộ nghèo. Không ai có
thể sống được với mức 200.000 đồng / tháng”.
Cũng theo số liệu điều tra, tỷ lệ hộ nghèo tại xã Ô Lâm cao nhất 41,67%; kế đó
là xã Tà Đảnh 24,19% và cuối cùng là thị trấn Tri Tôn 23,33%. Với một tỷ lệ hộ nghèo
trong toàn mẫu là: 29,67%, cao nhất tỉnh, dù rằng, Tri Tôn có nhiều tiềm năng về đất
đai, khoáng sản, đa dạng về cảnh quan và phong phú về di tích lịch sử. Chúng ta hãy
cùng nhau phân tích và tìm ra giải pháp để cải thiện tình trạng trên.
4.2. Nghèo đói phân theo thành phần dân tộc:
Đồng bào dân tộc ở Tri Tôn chủ yếu là người Khmer, sống ở các xã: Châu Lăng,
Lương Phi, An Tức và Ô Lâm. Như đã phân tích ở trên, do phong tục tập quán nghìn
33
đời nên người khmer sống quanh quẩn trong phum, sóc, gần chùa và xa đường lộ, nghề
nghiệp chủ yếu là làm nông, chăn nuôi và tiểu thủ công nghiệp nhỏ lẻ.
Thực tế điều tra cho thấy, bà con dân tộc chưa tiếp cận được với những tiện nghi
tối thiểu: còn 84,29% hộ chưa có nhà vệ sinh, 55,71% nhà vẫn còn nền đất, 31,43% hộ
dân tộc chưa có điện và 72,86% hộ dân chưa được sử dụng nước máy. Theo thống kê
năm 2007, toàn huyện đã có mạng lưới điện, thế nhưng từ đường dây hạ thế vào tới nhà
dân còn lắm khó khăn, nhất là đối với người nghèo. Tiếp cận được với những tiện nghi
sẽ giúp cho chất lượng cuộc sống của bà con được nâng lên và từng bước đẩy lùi
những hủ tục vẫn còn sót lại đâu đó trong cộng đồng.
Hình 4.2.1 Tỷ lệ hộ nghèo theo thành phần dân tộc
51,43%
82,14%
48,57%
17,86%
Khmer
Kinh
Nghèo
Không nghèo
Theo hình 4.2.1 cho thấy tỷ lệ nghèo của đồng bào Khmer là 48,57% và tỷ lệ hộ
nghèo của người Kinh – Hoa là 17,86%. Qua thực tế cho thấy, do bất đồng ngôn ngữ,
cách biệt về văn hóa và trình độ chuyên môn hạn chế nên người Khmer rất khó tìm việc
làm trong các nhà máy xí nghiệp để tạo thu nhập ổn định, điều nầy cũng khiến cho tỷ lệ
hộ nghèo của họ cao hơn so với người Kinh – Hoa.
Cũng theo mẫu điều tra, tỷ lệ hộ nghèo người Khmer cao hơn tỷ lệ hộ nghèo
của người Kinh – Hoa là 2,7 lần, thế nhưng, chi tiêu bình quân đầu người của người
Khmer cho ma chay, cưới hỏi, cúng chùa bằng 75% so với người Kinh – Hoa. Các
truyền thống xã hội luôn đặt người Khmer vào một tình huống “lựa chọn tự nguyện
34
mang tính bắt buộc” bởi lẽ đó là lề lối và tập quán của cộng đồng. Cũng theo ý kiến của
các cán bộ địa phương, việc lạm chi cho đình đám, cưới xin, cúng bái … đã phần nào
đẩy những hộ người dân tộc lâm vào hoàn cảnh mất đất, nợ nần.
Hình 4.2.2 Trình độ học vấn theo thành phần dân tộc.
24,11%
34,82%
25,00%
16,07%
67,14%
22,86%
7,14%
2,86%
Không học
Tiểu học
Trung học cơ sở
Trung học phổ
thông
Kinh
Khmer
Qua hình 4.2.2, có đến 67,14% đồng bào người Khmer không biết đọc biết viết
chữ Việt (nhưng có thể họ không mù chữ Khmer, trong mẫu điều tra, có những người
không biết tiếng Việt nhưng ký tên bằng chữ Khmer) số mù chữ của người Kinh – Hoa
là 24,11% vẫn là khá cao trong tỉnh và khu vực. Ngoài ra, chỉ có 2,86% người Khmer
học lên đến trung học phổ thông, con số nầy ở người Kinh là 16,07 %
Ở huyện Tri Tôn, ngoài trường Dân tộc nội trú thì chỉ có các vị sư sãi dạy tiếng
dân tộc cho các tu sỹ trong chùa. Một gia đình muốn có con vào chùa tu cần phải làm
“đám phước” mà vào thời điểm hiện nay tốn kém khoảng 4 triệu đồng. Sự lựa chọn của
người Khmer trong vấn đề cho con vào chùa còn phản ảnh mâu thuẩn giữa bảo tồn và
phát triển: Giữ con ở nhà thì được thêm một lao động, đỡ tốn kém nhưng như vậy thì
con cái lại không biết chữ nghĩa của tổ tiên. Đôi khi, sự lựa chọn mang tính truyền
thống đã đẩy người dân tộc vào cảnh nghèo.
35
Hình 4.2.3 Làm nông và thành phần dân tộc của chủ hộ
37,14%
60,71%
62,86%
39,29%
Khmer
Kinh
Làm nông
Nghề khác
Tỷ lệ làm nông của đồng bào dân tộc là 62,86% và đối với người Kinh – Hoa là
39,29%. (hình 4.2.3) Theo thực tế điều tra cho thấy, do tập quán định cư nơi vùng đất
gò, đồi ven theo chân núi, đất đai ít màu mỡ, nên vào mùa hạn, bà con dân tộc gặp khó
khăn trong việc tưới tiêu. Mặc khác, do thói quen canh tác theo truyền thống, nhìn
chung người Khmer ngại việc ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Điều nầy
cũng là một bất lợi so với những người Kinh – Hoa cùng làm nông nghiệp.
4.3 Nghèo và giới tính của chủ hộ:
Hình 4.3.1 Trình độ học vấn và giới tính của chủ hộ.
35,04%
32,12%
21,17%
11,68%
57,78%
24,44%
8,89%
8,89%
Không học
Tiểu học
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Nam
Nữ
Hình 4.3.1 cho thấy có đến 57,78% số chủ hộ là nữ không được đi học, con số
đó của chủ hộ nam là 35,04%. Trình độ học vấn thấp cũng là một rào cản đáng kể đối
36
với người nghèo trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật trong làm nông hoặc có thể tìm
một việc làm trong khu vực phi nông nghiệp để có cơ may thoát nghèo.
Hình 4.3.2 Tỷ lệ hộ nghèo phân theo giới tính chủ hộ
28,89%
71,11%
29,93%
70,07%
Nghèo
Không nghèo
Nam
Nữ
Tỷ lệ hộ nghèo và không nghèo giữa chủ hộ nam và nữ gần như ngang bằng
nhau trong mẫu điều tra (hình 4.3.2). Trường hợp nầy ta có thể lý giải là chính sách
bình đẳng giới đã phát huy tác dụng hoặc lượng mẫu điều tra chưa đủ lớn để tránh sai
lệch.
4.4. Trình độ học vấn của chủ hộ trong mẫu điều tra:
Hình 4.4.1. Tỷ lệ học vấn của chủ hộ trong mẫu điều tra
40,66%
30,22%
18,13%
10,99%
Không đi học
Tiểu học
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Số liệu thống kê của mẫu điều tra khiến chúng ta không khỏi e ngại (hình 4.4.1),
có đến 40,66% chủ hộ không được đi học, dù rằng, theo PPA An Giang (2008), tỉnh An
37
Giang đã được công nhận là chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập tiểu học.
Chương trình phân tích hiện trạng đói nghèo tại vùng ĐBSCL (2003) do AusAID tài
trợ thì tỷ lệ lao động không biết chữ ở An Giang là 9,98%. Qua số liệu thống kê cho
thấy chương trình phổ cập giáo dục vẫn chưa hoạt động hiệu quả.
Hình 4.4.2 Số con và trình độ học vấn của chủ hộ
41,44%
30,63%
17,12%
10,81%
40,00%
28,33%
18,33%
13,33%
36,36%
36,36%
27,27%
0,00%
Không đi học
Tiểu học
Trung học Cơ sở
Trung học Phổ
thông
Từ 1 đến 2 con
Từ 3 đến 4 con
Trên 5 con
Hình 4.4.2 cho thấy, đối với chủ hộ không được đi học, số hộ có trên 5 con là
36,36%, từ 3 đến 4 con là 40%, từ 1 đến 2 con là 41,44%. Với chủ hộ có trình độ trung
học phổ thông trở lên, không có hộ sinh con thứ 5, từ 3 đến 4 con là 13,33% và từ 1
đến 2 con là 10,81%. Theo vòng lẩn quẩn của nghèo đói thì: sinh sản nhiều, đông con,
thiếu dinh dưỡng, bệnh tật, thất học, nghèo đói …Mặc dù, trong nông thôn, theo cách
thức canh tác cũ, đông con, có thể là một lợi thế, nhưng với đà cơ giới hóa trong nông
nghiệp hiện nay, đông con dễ đẩy hộ gia đình vào hoàn cảnh nghèo khó.
38
4.5. Số người phụ thuộc trong hộ gia đình:
Hình: 4.5.1 Số người phụ thuộc và tình trạng của hộ gia
đình
74,22%
25,00%
0,78%
77,78%
20,37%
1,85%
Từ 0 đến 1
Từ 1 đến 3
Lớn hơn 3
Nghèo
Không nghèo
Hình (4.5.1) cho thấy, không có sự khác biệt lắm giữa tỷ lệ phụ thuộc và tình
trạng nghèo của hộ gia đình. Tỷ lệ hộ nghèo có người sống phụ thuộc từ 1 đến 3 là
20,37%; lớn hơn 3 là 1,85%, con số nầy đối với hộ không nghèo là 25% và 0,78%. Với
xu hướng hiện nay, khi con cái trưởng thành, lập gia đình thì “ra riêng”, hơn nữa, cũng
theo mẫu điều tra, quy mô bình quân của hộ gia đình ở huyện Tri Tôn là: 4,46 người và
số con trung bình của hộ là: 2,19 cũng không cao so với tỷ lệ trung bình của nước ta:
2,1 con / hộ gia đình.
Hình 4.5.2. Số người phụ thuộc và thành phần dân tộc.
81,43%
17,14%
1,43%
71,43%
27,68%
0,89%
Từ 0 đến 1
Từ 1 đến 3
Lớn hơn 3
Kinh
Khmer
39
Theo mẫu điều tra (hình 4.5.2) cũng cho thấy, không có sự chênh lệch lớn giữa
số người sống phụ thuộc và thành phần dân tộc. Số người phụ thuộc lớn hơn 3 trong
các hộ người Kinh – Hoa là 0,89%, đối với hộ người Khmer con số nầy là 1,43%.
Hình 4.5.3.Số con và tình trạng của hộ gia đình
60,16%
35,94%
3,91%
62,96%
25,93%
11,11%
Từ 1 đến 2 con
Từ 3 đến 4 con
Trên 5 con
Nghèo
Không nghèo
Theo hình 4.5.3, có đến 11,11% số hộ nghèo có trên 5 con, đối với hộ không
nghèo là 3,91%. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra chủ hộ có trình độ trung học phổ thông
đều không có con thứ năm. Vậy xu hướng là càng có trình độ học vấn cao, người ta
càng không sinh nhiều con.
Theo số liệu điều tra, có 30% số hộ làm thuê trong nông nghiệp có từ 3 con trở
lên. Hộ làm thuê trong nông nghiệp là làm cỏ, xịt thuốc, cắt lúa … các công việc nầy
thường theo mùa vụ, thu nhập không thường xuyên, trong khi đó, đông con lại là gánh
nặng, hộ gia đình dễ rơi vào vòng lẩn quẩn: thu nhập thấp, đông con, thất học, nghèo.
4.6. Tình trạng làm nông của hộ gia đình:
Hình: 4.6.1 Làm nông và tình trạng của hộ gia đình
78,72%
61,36%
21,28%
38,64%
Nghề khác
Làm nông
Nghèo
Không nghèo
40
Theo mẫu điều tra tại huyện Tri tôn (hình 4.6.1), có 38,64% hộ gia đình làm
nông lâm vào cảnh nghèo, hộ nghèo sinh sống bằng những nghề phi nông nghiệp là
21,28,%. Trong thời gian qua, giá vật tư nông nghệp biến động và giá nông sản bán ra
tăng giảm bất thường cộng với thiên tai, dịch bệnh cũng khiến cho nông dân lâm vào
cảnh nghèo túng. Cũng qua phiếu điều tra: 43,18% số hộ làm nông không được sự hỗ
trợ từ các tổ chức khuyến nông ở địa phương. Trong thời buổi hiện nay, khi mà sản
xuất nông nghiệp không còn là của trời cho như trồng lúa mùa khi xưa, cứ chờ trời gần
mưa, cày sơ rồi xạ lúa giống và chờ thu hoạch. Hộ nghèo với diện tích đất không nhiều,
nếu không biết ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất thì rất dễ bị thua lỗ.
Hình 4.6.2 Số con và việc làm của chủ hộ
33,33%
33,33%
33,33%
67,02%
30,85%
2,13%
Từ 1 đến 2 con
Từ 3 đến 4 con
Trên 5 con
Làm nông
Nghề khác
Theo hình 4.6.2, có đến 33,33% hộ có trên năm con làm nghề nông, con số nầy
đối với nghề khác là 2,13%. Từ trước đến giờ, nghề nông vốn cần nhiều nhân lực trong
lao động. Trong tương lai, vấn đề sẽ khác đi do cơ giới hóa, tự động hóa trên đồng
ruộng, nhưng hiện nay, lực lượng lao động chân tay vẫn giữ vai trò quan trọng trong
công việc đồng áng.
41
4.7. Đi làm xa:
Hình 4.7.1 Đi làm xa và tình trạng của hộ gia đình
71,09%
28,91%
85,19%
14,81%
Không đi làm xa
Có đi làm xa
Nghèo
Không nghèo
Kết quả nghiên cứu cho thấy (hình 4.7.1), 28,91% hộ không nghèo có người đi
làm xa và đối với hộ nghèo, con số đó là 14,81%. Khi mà dân số ngày càng tăng, sự
thay đổi giá trị hợp thành của các sản phẩm nông nghiệp đang dần chuyển sang công
nghệ và vốn thì lực lượng lao động ở nông thôn sẽ trở nên dư thừa. Giải pháp dịch
chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị để tìm công ăn việc làm sẽ là một nhu cầu tất
yếu của sự phát triển. Đối với các hộ nghèo và cận nghèo, đi làm ăn ngoài tỉnh sẽ là
một cách để thoát nghèo.
Hình 4.7.2 Số hộ đi làm xa theo địa phương
71,67%
76,67%
77,42%
28,33%
23,33%
22,58%
Thị trấn Tri Tôn
Xã ô lâm
Xã Tà Đảnh
Có đi làm xa
Không đi làm xa
Theo số liệu điều tra (hình 4.7.2), tỷ lệ phần trăm của hộ có người đi làm xa ở tại
thị trấn Tri Tôn là cao nhất, chiếm 28,33%. Điều nầy cũng dễ hiểu vì Tri Tôn là nơi thị
tứ, người dân có rất nhiều cơ hội tiếp cận với thông tin và các chương trình giới thiệu
việc làm ở trong và ngoài tỉnh. Tỷ lệ hộ dân có người đi làm xa tại xã Ô Lâm và Tà
42
Đảnh gần bằng nhau khoảng 23%. Xã Tà Đảnh là xã thuộc khu vực đã có cơ cấu ngành
nghề rất đa dạng do vậy việc đi làm xa cũng dễ dàng, nhưng riêng xã Ô Lâm, hầu hết là
người Khmer với tỷ lệ hộ đi làm xa là 23,33% thì đây là một tín hiệu đáng mừng.
Hình 4.7.3 Thành phần dân tộc và vấn đề đi làm xa.
78,57%
73,21%
21,43%
26,79%
Khmer
Kinh
Có đi làm xa
Không đi làm xa
Qua mẫu điều tra (hình 4.7.3) ta nhận thấy: số hộ người Kinh – Hoa có người đi
làm xa là 26,79%, tỷ lệ nầy cũng không cao lắm nếu so với người Khmer là 21,43%.
Như vậy, cơ hội đi làm xa được chia đều cho cả hai cộng đồng dân tộc. Đi làm xa
không những là giải pháp để góp phần giảm nghèo mà còn là sự đáp ứng cho vấn đề
cầu lao động đang ngày càng tăng cao tại thành thị và các khu công nghiệp.
4.8. Sở hữu đất đai và tình trạng của hộ gia đình:
Hình 4.8.1 Tình trạng hộ gia đình và sở hữu đất
72,22%
47,66%
27,78%
52,34%
Nghèo
Không nghèo
Có đất
Không có đất
Theo hình 4.8.1 hộ nghèo không có đất chiếm tỷ lệ 72,22%, con số đó của hộ
không nghèo là 47,66%. Kết quả thống kê cũng cho thấy số diện tích đất bình quân trên
đầu người của hộ nghèo là 262 m2, một diện tích quá khiêm tốn để có thể sinh sống từ
43
huê lợi thu được. Thêm vào đó, giá cả vật tư sản xuất luôn biến động, sâu rầy, chuột bọ
phá hại mùa màng… đối với những hộ làm nông nhưng khá giả có thể chịu đựng những
cú “sốc” về giá cả của các yếu tố sản xuất đầu vào, nhưng hộ nghèo dễ rơi vào tình
cảnh phá sản và nợ nần.
4.9. Đường ô tô và khoảng cách của hộ gia đình đến trung tâm chợ:
Hình 4.9.1 Tình trạng hộ gia đình và có đường ô tô
12,31%
39,32%
87,69%
60,68%
Không nghèo
Nghèo
Có đường ô tô
Không có đường ô tô
Theo hình 4.9.1, có đến 39,32% hộ nghèo không có đường ô tô tới tận nhà, con
số đó đối với hộ không nghèo là 12,31%. Thật vậy, nhà của hộ nghèo ít khi có “mặt
tiền” để có thể làm ăn, buôn bán hoặc cho thuê mặt bằng để làm phương tiện sinh sống.
Cơ sở hạ tầng nói chung hay đường ô tô nói riêng là những điều kiện tiên quyết để cải
thiện và nâng cao chất lượng sống của người dân thông qua việc thuận lợi trong trao
đổi hàng hóa.
Hình 4.9.2 Đường ô tô và thành phần dân tộc của chủ hộ
87,14%
50,00%
12,86%
50,00%
Khmer
Kinh
Có đường ô tô
Không có đường ô tô
44
Theo mẫu điều tra (hình 4.9.2), có đến 87,14% hộ gia đình người Khmer không
có đường ô tô đến tận nhà. Người dân tộc, do phong tục sống trong cộng đồng phum,
sóc, họ không thích ở kề cận đường giao thông như người Kinh – Hoa, nhưng thời gian
qua, với chương trình 135, phát triển cơ sở hạ tầng ở vùng sâu vùng xa và vùng đồng
bào dân tộc, hiện trạng đường giao thông đã cải thiện đáng kể. Đường nội huyện Tri
Tôn khá tốt, đường ô tô có thể về tới tận chợ khóm, ấp.
Hình 4.9.3 Nhóm khoảng cách và tình trạng của hộ
70,95%
55,56%
81,25%
29,05%
44,44%
18,75%
Từ 1 đến 2 km
Từ 3 đến 4 km
Trên 4 km
Nghèo
Không nghèo
Cũng theo mẫu điều tra (hình 4.9.3) khoảng cách từ hộ gia đình đến trung tâm
chợ xã: Số hộ nghèo ở cách xa chợ từ 1 đến 2 km là 29,05%, từ 3 đến 4 km là 44,44%
và xa hơn 4 km là 18,75%, đối với hộ không nghèo, các số đó là: 70,95%; 55,56% và
81,25%. Như vậy qua thống kê ta nhận thấy, khoảng cách của hộ gia đình tới chợ
không phải là lý do quyết định tới mức thu chi của hộ. Và thực tế cũng cho thấy, hệ
thống đường giao thông nội huyện tại Tri Tôn khá tốt, hầu hết các chợ tại thôn, ấp đều
có đường ô tô tới tận nơi, giúp cho việc lưu thông hàng hóa dễ dàng.
4.10. Vấn đề vốn vay và tình trạng của hộ gia đình:
45
Hình 4.10.1 Vốn vay và tình trạng của hộ gia đình
53,13%
46,88%
81,48%
18,52%
Không vay
Có vay
Nghèo
Không nghèo
Theo mẫu điều tra (hình 4.10.1) số hộ nghèo không được vay vốn từ các nguồn
tín dụng chính thức là 81,48%, trong khi đó số hộ không nghèo được vay là 46,88%.
Muốn làm ăn, kinh doanh mua bán đều phải cần tiền. Vốn vay từ các ngân hàng, đặc
biệt là những ngân hàng chính thức là một kênh quan trọng để giúp hộ gia đình vươn
lên thoát nghèo. Tuy nhiên, các ngân hàng, dù rằng là ngân hàng chính sách đi nữa
cũng vẫn là tổ chức kinh doanh tiền tệ, cho nên họ vẫn hướng tới vấn đề hiệu quả trong
kinh doanh. “Có thóc mới cho mượn gạo”, đối với người nghèo, khi họ không có gì
đáng giá để thế chấp thì chuyện vay vốn sẽ gặp khó khăn.
Hình 4.10.2 Thủ tục vay vốn và tình trạng hộ gia đình
20,37%
40,74%
29,63%
9,26%
54,69%
23,44%
6,25%
15,63%
Dễ dàng
Không khó lắm
Rất khó
Không biết thông
tin
Nghèo
Không nghèo
Đối với các hộ nghèo, do không có gì để thế chấp và do trình độ hạn chế nên
người nghèo có tâm lý tự ti, hơn nữa, việc tính toán các phương án làm ăn theo yêu cầu
của ngân hàng đôi khi quá tầm của họ. Trong mẫu điều tra (hình 4.10.2) cho thấy có
46
29,63% hộ nghèo cho là
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tinh_trang_ngheo_o_huyen_tri_ton__thuc_trang_va_giai_phap.pdf