Luận văn Tổ chức kiểm toán báo cáo tài chính các doanh nghiệp vừa và nhỏ do Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán thực hiện

Ngày nay, nền kinh tế đất nước đang trong quá trình hội nhập, việc ra nhập các tổ chức thương mại quốc tế đang mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam cũng như đặt ra những thách thức đặc biệt là đối với các DNVVN. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp phải tự nâng cao sức cạnh tranh bằng nội lực của chính mình, vấn đề nâng cao chất lượng tài chính kế toán đang ngày càng được quan tâm. Trong bối cảnh đó, nhu cầu kiểm toán đối với các DNVVN đang ngày càng được nâng cao. Công ty Dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán (AASC) cũng đã thực hiện nhiều cuộc kiểm toán các DNVVN và cũng rất chú trọng tới chính sách mở rộng đối tượng khách hàng này.

Cũng như các loại hình dịch vụ khác, việc cung cấp dịch vụ kiểm toán phải dược thực hiện theo đúng cam kết nhằm bảo vệ quyền lợi mỗi bên. Đối với AASC, các cam kết này là hợp đồng kiểm toán . Hợp đồng kiểm toán được lập theo Quy chế kiểm toán độc lập do Chính phủ ban hành trong Nghị định 07/CP ngày 29/3/1994. Hợp đồng kiểm toán dược lập theo đúng pháp lệnh về hợp đồng kinh tế, dựa trên thoả thuận của các bên.

 

 

doc86 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1566 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức kiểm toán báo cáo tài chính các doanh nghiệp vừa và nhỏ do Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bên ngoài thì họ thường phó thác công việc hoàn toàn cho tổ chức cung cấp dịch vụ mặc dù vẫn là người nắm quyền khởi xướng và giữ trách nhiệm về các hoạt động phát sinh. Do đó, trong quá trình kiểm toán đối tượng khách hàng này, kiểm toán viên cũng phải cân nhắc tới việc thu thập thu thập thêm thông tin cần thiết về tổ chức cung cấp dịch vụ cũng như tính chất ảnh hưởng của các dịch vụ trong quá trình kiểm toán. ) Các thủ tục kiểm soát: Các thủ tục kiểm soát là những chế độ và thể thức, ngoài các nguyên lý phụ về môi trường kiểm soát và các đặc điểm của hệ thống kế toán, đã được ban quản trị xây dựng để thoả mãn các mục tiêu của họ Các thủ tục kiểm soát thường được đánh giá qua các hoạt động: ở Sự cách ly thích hợp về trách nhiệm- nguyên tắc phân công nhiệm vụ rõ ràng: 3 Cách ly việc bảo quản tài sảnvới kế toán 3 Cách ly quyền phê chuẩn các nghiệp vụ kinh tế với việc bảo quản tài sản liên quan. 3 Cách ly trách nhiệm điều hành với trách nhiệm ghi sổ Đối với các DNVVN, sự cách ly về trách nhiệm trong bộ máy thường không được triển khai hợp lý và thường không bảo đảm nguyên tắc phân công phân nhiệm. Đây cũng là hạn chế cố hữu của doanh nghiệp do quy mô kinh doanh nhỏ, tổ chức tập trung quyền lực và số lượng nhân viên hạn chế. ở Các thể thức phê chuẩn đúng đắn: Tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh phải được phê chuẩn đúng đắn. Đây là một yêu cầu quan trọng của quá trình kiểm soát. Tuy nhiên, trong các DNVVN, nguyên tắc phê chuẩn thường bị vi phạm bởi người điều hành không có khả năng giám sát được toàn bộ hoạt động hoặc do nhân viên nghiệp vụ thiếu ý thức. ở Chứng từ sổ sách: Đây là cơ sở phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong doanh nghiệp. Chứng từ thực hiện chức năng chuyển giao thông tin trọng toàn tổ chức của công ty khách hàng và giữa các tổ chức với nhau. Tuy nhiên việc quản lý chứng từ sổ sách lại là khâu yếu trong các DNVVN. Nguyên nhân trước hết là do những yếu kém của hệ thống kế toán và hạn chế về nhân lực trong đơn vị. ở Kiểm soát vật chất đối với tài sản: Biện pháp bảo vệ quan trọng nhất để bảo vệ tài sản và sổ sách chứng từ là sử dụng những biện pháp đề phòng vật chất. Để đảm bảo cho hoạt động của mình, các doanh nghiệp phải chú ý đến hình thức bảo vệ vật chất cho tài sản. Trên thực tế, tại các DNVVN, biện pháp kiểm soát vật chất lỏng lẻo bởi có những doanh nghiệp không có kho bãi để bảo quản tài sản, không có phương tiện hoặc không coi trọng việc lưu trữ chứng từ sổ sách, đây cũng là điểm cần chú ý đối với kiểm toán viên trong quá trình kiểm tra vật chất. ở Quy mô của các doanh nghiệp và các quy trình kiểm soát: Quy mô của công ty có ảnh hưởng quan trọng đến bản chất của cơ cấu kiểm soát nội bộ và các quá trình kiểm soát cụ thể. Quá trình kiểm soát chủ yếu sẵn có ở một công ty nhỏ là kiến thức và sự quan tâm của nhà điều hành cao cấp, thường là chủ sở hữu ) Kiểm toán nội bộ: Kiểm toán nội bộ được xây dựng của một tổ chức theo dõi tính hiệu quả của các thể thức và chính sách liên quan đến kiểm soát nội bộ. Đội ngũ nhân viên kiểm toán nội bộ phải độc lập với phòng kế toán và với các phòng ban chức năng khác. Tuy nhiên, thực tế là với một DNVVN, không có sự tồn tại của kiểm toán nội bộ, bởi vì chi phí xây dựng kiểm toán nội bộ có thể lớn hơn nhiều so với hiệu quả mà nó mang lại. 2.4. Tổ chức kiểm toán báo cáo tài chính các DNVVN: Qua các đặc thù của các DNVVN có thể thấy do những hạn chế cố hữu về quy mô, ngành nghề kinh doanh, chính sách nhân sự, tổ chức bộ máy…nên rủi ro tiềm tàng được đánh giá ở mức độ cao, thêm vào đó hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động kém hiệu quả kéo theo sự tồn tại rủi ro kiểm soát cao. Trên thực tế, một số quốc gia đã có những quy định về những doanh nghiệp hoạt động với quy mô nào cần phải được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán độc lập và đặt ra những chính sách, chế độ cụ thể trong tổ chức thực hiện kiểm toán. Còn ở Việt Nam hiện nay chưa có những quy định cụ thể về hoạt động kiểm toán các DNVVN, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam vừa ban hành chỉ bao quát các yếu tố của một cuộc kiểm toán nói chung. Vì vậy, để thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính của các DNVVN, kiểm toán viên dựa trên các đặc thù của các DNVVN từ đó vận dụng linh hoạt các chế độ, chuẩn mực kiểm toán vào quá trình thực hiện. Bên cạnh đó, do chưa có quy định cụ thể về quy mô và phạm vi hoạt động nào cần kiểm toán nên việc kiểm toán các DNVVN chủ yếu dựa trên nhu cầu tự nguyện của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thi trường, các DNVVN phải vận động và phát triển không ngừngvà tự khẳng định mình. Với nhu cầu thực hiện kiểm toán để nâng cao chất lượng hoạt động, công tác kiểm toán các DNVVN hướng tới các mục tiêu kiểm tra: ỳ Số liệu được trình bày có đúng không. ỳ Sổ sách ghi chép có đầy đủ không. ỳ Công tác kiểm soát có hiệu lực, hiệu quả không... Chính vì vậy, để đảm bảo giảm thiểu rủi ro kiểm toán ở mức cho phép, kiểm toán viên phải thiết kế và triển khai phương pháp kiểm toán theo hướng tăng cường kiểm tra chi tiết, bỏ qua các thử nghiệm kiểm soát và phải thu thập lượng bằng chứng kiểm toán nhiều hơn làm căn cứ đưa ra kết luận kiểm toán chính xác. Mặt khác, để giúp các DNVVN khắc phục những điểm yếu của mình để trưởng thành và phát triển, trong giai đoạn hoàn thành kiểm toán, Công ty kiểm toán rất chú trọng tăng cường thư quản lý song song với việc phát hành báo cáo kiểm toán. Phần II Thực trạng kiểm toán báo cáo tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ do AASC thực hiện Mục tiêu: Dựa trên cơ sở lý luận và quá trình nghiên cứu các file kiểm toán, phần hai hướng tới việc trình bày thực trạng về công tác tổ chức kiểm toán các DNVVN do AASC thực hiện. Nội dung: Phần II của Luận văn hướng tới các nội dung chính: - Giới thiệu tổng quan về Công ty - Chỉ ra tầm quan trọng của công tác kiểm toán đối với các DNVVN - Trình bày các bước lập kế hoạch dự toán - Mô tả quá trình thực hiện kiểm toán. - Các bước công việc kết thúc kiểm toán tổng quan về công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán : Lịch sử hình thành và phát triển Công ty: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI là mốc lịch sử quan trọng, đánh dấu bước chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, làm thay đổi bộ mặt nền kinh tế quốc dân. Cùng với sự chuyển biến này, nền kinh tế mở cũng đặt ra những yêu cầu mới, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng nhiều, các thành phần kinh tế có điều kiện phát triển…đòi hỏi phải có các tổ chức độc lập về kế toán, kiểm toán nhằm giúp các cá nhân, tổ chức nắm rõ kiến thức, tăng cường hiểu biết về tài chính, kế toán trong bối cảnh mới. Để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường và đưa đất nước đi lên hoà nhập với nền kinh tế thế giới, ngày 1-4-1991, Thủ tướng chính phủ đã ra thông báo số 957/TTP đồng ý cho Bộ Tài Chính thành lập tổ chức chuyên ngành Kế toán đầu tiên ở Việt Nam. Thực hiện thông báo của Thủ tướng chính phủ, ngày 13-5 1991, Bộ trưởng Bộ Tài Chính đã ra quyết định số 164/TC/QĐ/TCCB thành lập nên “ Công ty Dịch vụ Kế toán” với chức năng cung cấp dịch vụ về kế toán cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có nhu cầu. Cùng với thời gian, nhu cầu về kiểm toán phát triển ngày càng cao, mặt khác qua một thời gian ngắn hoạt động, “Công ty Dịch vụ Kế toán” đã ngày càng lớn mạnh về năng lực hoạt động nghiệp vụ và quan niệm về tính bất đồng giữa việc cung cấp dịch vụ kế toán và kiểm toán của cùng một chủ thể đã thay đổi, Vì vậy đến năm 1993, Bộ trưởng Bộ Tài Chính đã ra Quyết định số 639/TC/TCCB đổi tên Công ty thành “Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán”. Công ty có tên giao dịch quốc tế là: Auditing, Accounting Financial & Consultance Service Company-AASC. Cũng từ đây, chức năng hoạt động của Công ty được mở rộng thêm sang lĩnh vực kiểm toán và các dịch vụ tư vấn tài chính, mở rộng hoạt động khẳng định vị thế vững chắc của mình và đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của thị trường. 2. Đặc điểm tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty: Mục tiêu hoạt động mà Công ty đặt ra là cung cấp các dịch vụ chuyên ngành tốt nhất, cung cấp thông tin với độ tin cậy cao cho công tác quản lý kinh tế tài chính và điều hành dịch vụ sản xuất kinh doanh của khách hàng với độ tin cậy cao nhất. Vì vậy, với kinh nghiệm thực tiễn về chuyên ngành, gần gũi với khách hàng, tận tình thông thạo nghiệp vụ và am hiểu các yêu cầu trong kinh doanh, chất lượng dịch vụ của công ty ngày càng được nâng cao. Các loại hình dịch vụ hiện nay Công ty đang cung cấp rất đa dạng với chất lượng cao, các dịch vụ chính của công ty gồm có: M Dịch vụ về kiểm toán : để đáp ứng tốt mọi nhu cầu của khách hàng, dịch vụ kiểm toán của công ty ngày càng đa dạng: 3Kiểm toán báo cáo tài chính. 3Kiểm toán hoạt động các dự án. 3Kiểm toán báo cáo quyết toán các công trình xây dựng cơ bản. 3Kiểm toán xác định vốn góp liên doanh. 3Kiểm toán về báo cáo quyết toán hàng nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa hoá. 3Giám định tài liệu kế toán tài chính… O Dịch vụ kế toán: là dịch vụ truyền thống có thế mạnh của công ty, dịch vụ kế toán được cung cấp đa dạng: 3Hướng dẫn áp dụng chế độ kế toán tài chính. 3Xây dựng các mô hình tổ chức bộ máy, tổ chức công tác kế toán. 3Mở, ghi sổ và lập các báo cáo tài chính, lập hồ sơ đăng kí chế độ kế toán… O Dịch vụ tư vấn: 3 Tư vấn thuế. 3 Hướng dẫn thủ tục đăng ký kinh doanh. 3 Tư vấn về giá tài sản, soạn thảo các phương án đầu tư, tư vấn cổ phần hoá, sát nhập, giải thể doanh nghiệp… O Đào tạo cán bộ, tổ chức các khoá học bồi dưỡng kế toán trưởng, bồi dưỡng nghiệp vụ kế toán, kiểm toán nội bộ, quản trị doanh nghiệp… O Dịch vụ tin học, phát triển các phần mềm kế toán: với sự phát triển ngày càng cao của công nghệ thông tin, việc ứng dụng trong công tác kế toán mang lại nhiều lợi ích lớn lao cho người sử dung, vì vậy công ty đã sớm nhận thức rõ vai trò quan trọng của công nghệ thông tin và tích cực nghiên cứu, phát triển để cung cấp cho khách hàng những phần mềm kế toán với chất lượng cao. Cùng với sự thay đổi nhu cầu của khách hàng, tỷ trọng các loại dịch vụ công ty cung cấp cũng thay đổi theo thời gian, ban đầu, khi mới thành lập, công ty chỉ cung cấp hoàn toàn dịch vụ kế toán, sau đó các loại hình dịch vụ ngày càng được mở rộng, sang năm 2001, công ty cung cấp cho khách hàng phần lớn là dịch vụ kiểm toán (70-75% theo doanh thu), dịch vụ tư vấn chiếm khoảng từ 10-15% còn lại là các loại hình dịch vụ khác. 2. Khách hàng của AASC: Uy tín của Công ty trong lĩnh vực tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán dã được chính phủ, Bộ Tài chính, các bộ ngành và nhiều tổ chức tài chính tín dụng quốc tế cũng như các khách hàng đánh giá cao. Mạng lưới khách hành của công ty ngày càng được mở rộng, công ty đã duy trì được trên 500 khách hàng thường xuyên. Từ chỗ hoạt động của công ty chỉ giới hạn ở Hà Nôị và thành phố Hồ Chí Minh, đến nay hoạt động của công ty đã được phát triển trong cả nước và thâm nhập vào mọi thành phần kinh tế ( bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước, công ty liên doanh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn…) và trong tất cả các ngành nghề kinh doanh ( sản xuất vật chất, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm…). Với kinh nghiệm chuyên môn cao của các kiểm toán viên, Công ty luôn đảm bảo khả năng hoàn thành các dịch vụ kiểm toán và tư vấn tài chính kế toán theo nhu cầu của khách hàng theo đúng quy định của Chính phủ Việt Nam và các thông lệ quốc tế, góp phần giúp khách hàng nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính và sử dụng nguồn vốn kinh doanh. Nhờ đó công ty không chỉ duy trì được nhiều khách hàng lớn, thường xuyên mà còn thu hút được thêm nhiều khách hàng mới hàng năm trong nhiều lĩnh vực kinh doanh: Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Trong lĩnh vực kiểm toán và tư vấn tài chính kế toán cho các dự án sử dụng vốn tài trợ quốc tế Các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhất trong mạng lưới khách hàng của Công ty Hoạt động kiểm toán các công trình xây dựng cơ bản Theo đánh giá năm 2001 của Công ty, lượng khách là doanh nghiệp nhà nước chiếm số lượng lớn (khoảng 30% thị phần ), các dự án đầu tư khoảng 20-25%, các đơn vị hành chính sự nghiệp khoảng 10%, các công trình xây dựng cơ bản chiếm 20% thị phần, còn lại là các lĩnh vực khác. Chính sách phát triển các DNVVN của Công ty: Ngày nay, các DNVVN đang ngày một phát huy vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, Đăc biệt, với xu thế hội nhập thế giới vừa tạo ra cơ hội vừa đặt ra nhiều thách thức không nhỏ với các DNVVN. Do đó, bản thân doanh nghiệp phải tự đánh giá, nâng cao sức cạnh tranh bằng sự vươn lên của chính mình. Mặt khác, công tác tài chính kế toán trong các DNVVN còn tồn tại nhiều yếu kém, gây cản trở tới sự phát triển chung của mỗi doanh nghiệp cũng như sự phát triển chung của nền kinh tế.. Chính vì vậy, nhu cầu đặt ra đối với các DNVVN là phải nâng cao chất lượng công tác quản lý, công tác tài chính kế toán qua hoạt động kiểm toán. Trong những năm vừa qua lượng khách hàng là các DNVVN tìm đến dịch vụ kiểm toán đã tăng đáng kể, đối tượng khách hàng này rất được chú trọng tại AASC. Công ty chủ yếu nhận định khách hàng là DNVVN dựa trên quy mô kinh doanh của đơn vị. Nhận thức được đây là đối tượng khách hàng có tiềm năng lớn, AASC đã có nhiều chính sách ưu đãi và chiến lược tập trung để phát triển lâu dài thông qua chính sách chủ yếu về giá phí. Đây là vấn đề được khách hàng rất quan tâm, đặc biệt là đối với các DNVVN. Với mức giá phí kiểm toán tương đối thấp với đối tượng khách hàng này đã giúp cho khách hàng có nhiều điều kiện thực hiện kiểm toán. Mặt khác, công ty kiểm toán còn rất chú trọng tới việc đưa ra ý kiến tư vấn về những hạn chế của khách hàng sau qúa trình kiểm toán, giúp khách hàng khắc phục các yếu điểm còn tồn tại. Kết quả hoạt động kinh doanh: Doanh thu của Công ty tăng từ 820 triệu đồng năm 1993 lên 17,5 tỷ trong năm 2000, đóng góp vào ngân sách 3 tỷ đồng/ năm, mức tích luỹ hàng năm đều đạt từ 26-30% doanh thu, với sự phát triển vững chãi, ổn định, doanh thu hàng năm của Công ty đều tăng. Thu nhập bình quân của cán bộ viên chức đạt trên 2 triệu đồng/tháng. Từ chỗ phải mượn trụ sở của Bộ, bằng nguồn vốn tự tích luỹ, Công ty đã tự xây dựng được trụ sở chính tại số1-Lê Phụng Hiểu-Hoàn Kiếm-Hà Nội và xây dựng trụ sở chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, Công ty đã mua sắm được nhiều trang thiết bị văn phòng, phương tiện đi lại, hệ thống thông tin liên lạc hiện đại… Hiện nay, tổng giá trị tài sản của Công ty ước tính đạt trên 15 tỷ đồng. 3. Đội ngũ nhân viên của AASC: Để có được hoạt động ổn định và liên tục tăng trưởng về doanh thu, ngoài việc đa dạng hoá lọai hình dịch vụ, nâng cao chất lượng công việc, Công ty đặc biệt chú trọng tới vai trò của đội ngũ nhân viên. Ngày mới thành lập, Công ty chỉ có 5 người, đến nay, công ty đã có khoảng 250 viên chức, tất cả đều có trình độ Đại học và trên Đại học, hoạt động tại các văn phòng và các chi nhánh trên cả nước trong đó có khoảng 85% là nhân viên nghiệp vụ. Ngày mới thành lập, Công ty chỉ cung cấp duy nhất dịch vụ về kế toán và chưa có kiểm toán viên nào, cho tới năm 1993, cùng với sự mở rộng loại hình dịch vụ, Bộ tài chính đã cấp chứng chỉ cho một số nhân viên và cho tới nay, công ty đã có trên 60 cán bộ nhân viên đạt chứng chỉ kiểm toán viên. Bằng sự nỗ lực phấn đấu và quyết tâm cao của mọi thành viên trong công ty nên số lượng và chất luượng của đọi ngũ nhân viên Công ty ngày càng được nâng cao, nhờ đó chất lượng dịch vụ cũng được đẩy nhanh. ý thức được yêu cầu ngày càng cao của hoạt động kế toán- kiểm toán , Ban lãnh đạo Công ty luôn chú trọng nâng cao kiến thức cho cán bộ nhân viên, tạo điều kiện cho cán bộ nhân viên tham gia các khoá học để nâng cao trình độ, đào tạo lực lượng trẻ… Đội ngũ nhân viên của Công ty luôn được đánh giá cao về chất lượng, về kinh nghiệm chuyên môn, phẩm chất nghề nghiệp và lòng nhiệt tình trong công việc, am hiểu sâu sắc về kiến thức chuyên ngành nên chất lượng dịch vụ mà công ty cung cấp luôn được bảo đảm, tính bảo mật cho khách hàng được giữ vững, tạo niềm tin cho khách hàng. Bên cạnh đó, công ty còn có đội ngũ cộng tác viên đông đảo gồm các giáo sư, tiến sĩ, cán bộ khoa học nghiệp vụ đang công tác tại các trường đại học, viện nghiên cứu, các cơ quan quản lý nhà nuớc … Công ty đã không ngừng vươn lên đáp ứng tốt hơn dịch vụ cho khách hàng, nhờ đó thế và lực của công ty ngày càng được nâng cao và khẳng định vững chắc. Hoạt động dịch vụ của công ty là kiểm tra và đưa ra ý kiến xác nhận tính khách quan, tính đúng đắn, trung thực, hợp lý của số liệu, tài liệu kế toán và báo cáo quyết toán của đơn vị được kiểm toán , tư vấn và hướng dẫn cho khách hàng thực hiện các quy định của nhà nước về tài chính, kế toán, thuế…để giúp cho các đơn vị được kiểm toán và tư vấn điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu qủa, đúng pháp luật và đáp ứng yêu cầu quản lý của cơ quan nhà nước, của các tổ chức, cá nhân có quan hệ và quan tâm đến hoạt động của đơn vị. Công ty phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực, hợp lý, đúng đắn của nhận xét về tài liệu mà công ty kiểm ta, xác nhận. Vì vậy, hoạt động của công ty phải đảm bảo cả về tính độc lập, trung thực khách quan và bảo mật, cho tới nay công ty luôn duy trì được phương châm hoạt động này nên được khách hàng hết sức tin tưởng. 4. Tổ chức bộ máy của AASC: Công ty tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán AASC chịu sự quản lý của Nhà nước với tư cách là một cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động kiểm toán và tư vấn tài chính kế toán, đồng thời với tư cách là chủ sở hữu theo quy định của luật doanh nghiệp nhà nước. Công ty hoạt động theo nguyên tắc tuân thủ pháp luật, đảm bảo tính trung thực, khách quan và công bằng, tuân thủ các chuẩn mực kế toán và kiểm toán của Việt Nam và các chuẩn mực quốc tế. Mặc dù là cơ quan trực thuộc Bộ tài chính nhưng công ty phải thực hiện hạch toán kinh doanh độc lâp, tự chủ, lấy thu bù chi. Với những đặc điểm như trên, công ty đã xây dựng cho mình bộ máy quản lý phù hợp theo mô hình trực tuyến, đáp ứng mục tiêu và hoạt động kinh doanh dịch vụ của Công ty. Sơ đồ 4: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý tại trụ sở chính: Ban giám đốc Phòng hành chính tổng hợp Phòng kế toán Phòng kiểm toán XDCB Phòng kiểm toán các ngành thươngmại Phòng kiểm toán các dự án Phòng tư vấn và bồi dữơng nghiệp vụ Phòng kinh doanh tiếp thị Ban giám đốc Công ty bao gồm 1 Giám đốc và 3 Phó giám đốc phụ trách chung về hoạt động của Công ty. Phòng hành chính tổng hợp: phụ trách hoạt động hậu cần cho công ty bao gồm việc quản lý công văn đi, đến; quản lý hồ sơ, tổ chức cán bộ, tiền lương, bảo đảm an toàn về tài sản cho công ty, cung cấp các dịch vụ về tin học cho khách hàng, cung cấp thiết bị công nghệ thông tin cho hoạt động của công ty,tổ chức bộ phận phiên dịch, cung cấp các biểu mẫu, sổ sách kế toán cho khách hàng. Các phòng nghiệp vụ: thực hiện chức năng cung cấp các dịch vụ chuyên ngành về kế toán, kiểm toán , tư vấn…cho khách hàng. Về cơ bản, các phòng nghiệp vụ tuy có tên gọi khác nhau nhưng cùng thực hiện các chức năng nhiệm vụ tương tự như nhau. Ngoài ra, các phòng nghiệp vụ cũng thực hiện chuyên sâu một số loại hình dịch vụ đặc trưng: Phòng kiểm toán xây dựng cơ bản (xdcb) chuyên sâu về hoạt động kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư XDCB. Phòng kiểm toán XDCB được thành lập từ năm 1993, công ty đã tuyển chọn và đào tạo được đội ngũ cán bộ, kiểm toán viên XDCB có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn cao. Hàng năm, phòng kiểm toán XDCB thực hiện trên 400 hợp đồng kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư trong đó có nhiều công trình lớn, phức tạp như công trình đường dây tải điện 500KV Bắc Nam, công trình xây dựng nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, Trị An….góp phần thúc đẩy công tác quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản kịp thời. Phòng kiểm toán các ngành thương mại, dịch vụ: được hình thành từ những ngày đầu thành lập Công ty. Tập thể phòng kiểm tóan các ngành thương mại dịch vụ đã tham mưu và tổ chức thực hiện thành công nhiều hợp đồng kiểm toán lớn trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ cũng như các loại hình khác. Phòng kinh doanh tiếp thị với đội ngũ nhân viên có trình độ cao, ngoài chức năng giao dịch với khách hàng, phòng kinh doanh tiếp thị đã thực hiện thành công nhiều hợp đồng kiểm toán lớn, góp phần hoàn thiện hệ thống kế toán, nâng cao chất lượng công tác quản lý và điều hành cho các doanh nghiệp, tạo được uy tín cho khách hàng. Phòng kiểm toán các dự án: Thực hiện nhiều hợp đồng kiểm toán các dự án lớn do nước ngoài tài trợ. Ngoài ra, phòng dự án còn thực hiện nhiều hợp đồng kiểm toán các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các ngân hàng thương mại, công ty bưu chính viễn thông… Phòng tư vấn và bồi dưỡng nghiệp vụ: phòng tư vấn và bồi dưỡng nghiệp vụ có chức năng chuyên sâu về dịch vụ đào tạo cán bộ, tư vấn tài chính kế toán. Ngoài ra, phòng còn thực hiện nhiều hợp đồng dịch vụ cho mọi đối tượng khách hàng. Phòng kế toán: Bộ phận kế toán có nhiệm vụ bổ sung, sửa đổi quy chế tài chính hiện hành trong Công ty, phối hợp với phòng hành chính tổng hợp quyết toán quỹ lương của Công ty. Mặt khác, bộ phận kế toán còn chủ động và phối hợp với các phòng nghiệp vụ đôn đốc khách hàng trong việc thanh toán. Nhìn chung, cách thức tổ chức bộ máy của công ty tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán rất phù hợp với ngành nghề kinh doanh của công ty, đem lại hiệu quả hoạt động cao. Với cách tổ chức này, ban lãnh đạo công ty có khả năng quản lý, theo dõi chặt chẽ và điều phối hoạt động giữa các phòng ban, giữa các phòng ban có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh cao nhất. Công tác tổ chức kiểm toán báo cáo tài chính của các DNVVN tại AASC: 1. Tầm quan trọng của công tác kiểm toán các DNVN Ngày nay, nền kinh tế đất nước đang trong quá trình hội nhập, việc ra nhập các tổ chức thương mại quốc tế đang mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam cũng như đặt ra những thách thức đặc biệt là đối với các DNVVN. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp phải tự nâng cao sức cạnh tranh bằng nội lực của chính mình, vấn đề nâng cao chất lượng tài chính kế toán đang ngày càng được quan tâm. Trong bối cảnh đó, nhu cầu kiểm toán đối với các DNVVN đang ngày càng được nâng cao. Công ty Dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán (AASC) cũng đã thực hiện nhiều cuộc kiểm toán các DNVVN và cũng rất chú trọng tới chính sách mở rộng đối tượng khách hàng này. Cũng như các loại hình dịch vụ khác, việc cung cấp dịch vụ kiểm toán phải dược thực hiện theo đúng cam kết nhằm bảo vệ quyền lợi mỗi bên. Đối với AASC, các cam kết này là hợp đồng kiểm toán . Hợp đồng kiểm toán được lập theo Quy chế kiểm toán độc lập do Chính phủ ban hành trong Nghị định 07/CP ngày 29/3/1994. Hợp đồng kiểm toán dược lập theo đúng pháp lệnh về hợp đồng kinh tế, dựa trên thoả thuận của các bên. Tuân thủ theo hợp đồng ký kết, trong từng bước công việc AASC luôn đi theo đúng hướng những chuẩn mực kiểm toán đã được cụ thể hoá trong quy trình kiểm toán mà công ty xây dựng. Quy trình kiểm toán mà AASC áp dụng hiện nay là quy trình rất tiên tiến, nó kết hợp được quy trình kiểm toán mà Công ty tiếp nhận trong chương trình trợ giúp kỹ thuật, cải cách hệ thống kế toán và kiểm toán được ký kết giữa liên minh Châu Âu và Chính phủ Việt Nam với những kinh nghiệm của kiểm toán viên. Quy trình này được ứng dụng linh hoạt trong từng cuộc kiểm toán , mang tính lý luận cao và phù hợp với điều kiện kinh tế, với những quy định về tài chính, kiểm toán của Việt Nam. Cũng như các cuộc kiểm toán khác, quy trình kiểm toán tài chính các DNVVN cũng bao gồm ba bước: Bước I: Lập kế hoạch kiểm toán Bước II: Thực hiện kiểm toán Bước III: Hoàn thành kiểm toán. Để minh hoạ cho quy trình tổ chức kiểm toán các DNVVN tại AASC, trong luận văn này, tác giả xin lấy dẫn chứng trong hồ sơ của khách hàng là Công ty B, Công ty K và Công ty H. Trong đó, Công ty B và K được đánh giá là DNVVN, Công ty B là doanh nghiệp tư nhân, hoạt động trong lĩnh vực cung cấp thiết bị, tư vấn thiết kế về xây dựng với số vốn là 4,5 tỷ đồng. Công ty K là công ty TNHH, sản xuất và kinh doanh các loại thuốc y học dân tộc với tổng số vốn đầu tư là 4 tỷ đồng. Công ty H là doanh nghiệp nước ngoài và là khách hàng thường niên của AASC ( bắt đầu trở thành khách hàng của AASC từ năm 1999 ), với quy mô vốn trên 2 triệu USD, Công ty H được đánh giá là một doanh nghiệp lớn, thực hiện kiểm toán theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Quy trình thực hiện kiểm toán của AASC được minh hoạ qua sơ đồ 5. Sơ đồ 5: Khái quát phương pháp kiểm toán tại AASC: Xem xét hoạt động kinh doanh và chiến lược kinh doanh Tìm hiểu môi trường hoạt động Thu thập thông tin Lập kế hoạch chi tiết Thảo luận với khách hàng và phân công công việc Rà soát, đánh giá chất lượng hệ thống KSNB kiểm toán báo cáo tài chính Rà soát hệ thống Hoàn thành kiểm toán, thảo luận phát hành báo cáo kiểm toán tài chính và thư quản lý Lập kế hoạch Thực hiện kiểm toán Kết thúc kiểm toán 2. Lập kế hoạch kiểm toán : Đây là giai đoạn khởi đầu cho một cuộc kiểm toán, nó chi phối chất lượng và hiệu quả của toàn bộ cuộc kiểm toán . Kế hoạch kiểm toán được lập một cách thích hợp sẽ giúp kiểm toán viên xác định cá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33902.doc
Tài liệu liên quan