LỜI CAM ĐOAN .iii
LỜI CẢM ƠN . iv
MỤC LỤC . v
DANH MỤC BẢNG BIỂU.viii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ .viii
DANH MỤC TỪ VIẾT TĂT . ix
MỞ ĐẦU . 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀTỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT10
BẦU CỬ Ở NƯỚC TA . 10
1.1.Khái niệm “ bầu cử” và “ pháp luật bầu cử”. 10
1.1.1. Khái niệm “bầu cử”. 10
1.1.2. Khái niệm “pháp luật bầu cử”. 12
1.2.Khái niệm, chủ thể, đặc điểm và các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực
hiện pháp luật về bầu cử ở nước ta. . 13
1.2.1. Khái niệm “tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử” . 13
1.2.2. Các chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử ở nước ta . 15
1.2.3. Đặc điểm về tổ chức pháp luật bầu cử ở nước ta. 16
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện pháp luật bầu cử ở
nước ta . 17
1.3.Các nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử trên địa bàn cấp huyện19
1.3.1. Khái quát các nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử ở nước
ta 19
1.3.2. Các nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử ở cấp huyện,
cấp xã 20
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BẦU CỬ TẠI HUYỆN HOÀI ĐỨC - THÀNH PHỐ HÀ NỘI. 45
2.1. Khái quát về vị trí địa lý, đặc điểm kinh tế, xã hội tác động đến việc tổ
124 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/02/2022 | Lượt xem: 330 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại huyện Hoài Đức thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng và hiệu quả hơn.
Xác nhận tư cách của người trúng cử đại biểu HĐND cấp huyện, đại
biểu HĐND cấp xã
Căn cứ vào kết quả tổng kết bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân, kết quả
giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến người trúng cử đại biểu hội đồng
44
nhân dân, ủy ban bầu cử tiến hành xác nhận tư cách của người trúng cử đại
biểu hội đồng nhân dân cấp mà mình chịu trách nhiệm tổ chức bầu cử, cấp
giấy chứng nhận đại biểu hội đồng nhân dân khóa mới cho người trúng cử và
báo cáo hội đồng nhân dân khóa mới về kết quả xác nhận tư cách đại biểu hội
đồng nhân dân tại kỳ họp đầu tiên.
Tiểu kết chương 1
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND là hình thức dân chủ trực tiếp, là
phương thức thể hiện ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân
trong việc xây dựng nhà nước nói chung và cơ quan đại diện - cơ quan quyền
lực nhà nước từ trung ương đến địa phương ở nước ta nói riêng.
Việc tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử làm cho những quy định mà lập
pháp đã tạo dựng(còn là văn bản trên giấy) vận hành trong đời sống xã hội,
các cơ quan nhà nước có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật một cách có
hiệu lực, hiệu quả nhất.
Trong chương 1 cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện pháp luật bầu cử ở nước
ta, tác giả đề cập, phân tích khái quát các vấn đề liên quan đến công tác tổ
chức bầu cử ở cấp huyện, cấp xã, có sự tham khảo kinh nghiệm tổ chức bầu
cử của một số nước trên thế giới về công tác lập danh sách cử tri, công tác
đảm bảo quyền ứng cử, công tác tổ chức vận động bầu cử, công tác tổ chức
bỏ phiếu.., làm tiền đề cơ sở cho việc đánh giá thực trạng và đề xuất phương
hướng, giải pháp bảo đảm hiệu quả công tác tổ chức bầu cử tại cấp huyện, cấp
xã nói chung và trên địa bàn huyện Hoài Đức nói riêng được đưa ra ở chương
2 và chương 3 của luận văn.
45
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ
TẠI HUYỆN HOÀI ĐỨC - THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát về vị trí địa lý, đặc điểm kinh tế, xã hội tác động đến việc
tổ chức thực hiện pháp luật bầu cử tại huyện Hoài Đức
Hoài Đức là huyện nằm ở phía tây thành phố Hà Nội, cách trung tâm thủ đô
Hà Nội 16 km, là huyện có vị trí địa lý liền kề với các quận nội thành; diện
tích đất tự nhiên là 8.246 ha, chia ra vùng đồng bằng và vùng bãi, không có
địa hình đồi núi. Hoài Đức có nhiều tuyến giao thông huyết mạch quan trọng
đi qua như đại lộ Thăng Long, quốc lộ 32, các trục tỉnh lộ 442, 423 và nhiều
dự án như đường vành đai 4 với các khu đô thị hiện đại tạo điều kiện thuận lợi
cho việc giao thương phát triển kinh tế, thương mại, dịch vụ, phát triển nông
nghiệp hàng hóa, tiểu thủ công nghiệp, đây là điều kiện thuận lợi cho thực
hiện chế độ thông tin báo cáo giữa cấp thành phố với cấp huyện, cấp xã trong
chỉ đạo, triển khai và kiểm tra các hoạt động quản lý nhà nước nói chung và
công tác tổ chức bầu cử nói riêng.
Dân số cơ học của huyện tăng nhanh trong quá trình đô thị hóa do nhu cầu
lớnvề lao động làng nghề và nhu cầu về nơi ở của người dân từ địa phương
khác chuyển đến. Hiện nay, dân số của huyện khoảng 23 vạn người, điều này
cũng gây sức ép khá lớn đối với công tác quản lý của chính quyền huyện và
các xã.Cơ cấu hành chính của huyện Hoài Đức bao gồm 19 xã, 1 thị trấn: An
Khánh, An Thượng, Cát Quế, Di Trạch, Dương Liễu, Đắc Sở, Đông La, Đức
Giang, Đức Thượng, Kim Chung, La Phù, Lại Yên, Minh Khai, Sơn Đồng,
Song Phương, Tiền Yên, Vân Canh, Vân Côn, Yên Sở và thị trấn Trạm Trôi,
trong đó phân loại có 4 xã loại I, 13 xã loại II và 3 xã loại III.
Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hoài Đức luôn đạt
46
khá (trung bình: 12,1%/năm), là huyện có tốc độ đô thị hóa cao, an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội tương đối ổn định, trình độ dân trí ngày càng được
nâng cao, đây là điều kiện nhiều thuận lợi, song cũng đặt ra không ít thách
thức cho công tác tổ chức bầu cử của huyện. Từ việc nhìn nhận rõ đặc điểm
tình hình,đánh giá những lợi thế, khó khăn là cơ sở để phân tích thực trạng tổ
chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại huyện Hoài Đức một cách khách quan.
Trong những năm gần đây, trên địa bàn huyện Hoài Đức, quá trình đô
thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ, huyện đã có những cố gắng lớn và đạt được
những thành tựu đáng kể trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ
tầng xã hội, chỉnh trang, phát triển thêm các khu đô thị, khu công nghiệp, khu
dân cư mới, có những tiến bộ đáng ghi nhận trong công tác quản lý nhà nước.
Tuy nhiên, trước mục tiêu xây dựng huyện Hoài Đức lên thành Quận
trong năm 2020, hàng loạt các vấn đề liên quan đến phát triển và hoàn thiện
các tiêu chí lên phường, quận đang đặt ra nhiều thách thức. Nhu cầu phát triển
nhanh, mạnh, bền vững về kinh tế, nhu cầu cải thiện đời sống, nâng cao mức
sống của nhân dân đang đối mặt với sự không cân đối về cơ sở hạ tầng, sự gia
tăng chóng mặt về dân số, sự ô nhiễm về môi trường ngày càng nặng nề;
trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ, công chức, của bộ máy quản lý chưa
tương xứng và chưa đáp ứng yêu cầu trong điều kiện và hoàn cảnh
mới...chính sự bất cập đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ, chất lượng
phát triển của huyện.
Tính chất và đặc điểm của đô thị đòi hỏi phải có cơ chế quản lý phù
hợp, không thể áp dụng khuôn khổ như nông thôn trước đây, từ đó đặt ra yêu
cầu cần phải định hướng xây dựng một mô hình chính quyền đô thị vững
mạnh ngay từ bước lựa chọn các đại diện dân cử thông qua bầu cử cho chính
quyền nhân dân các cấp.
47
Đô thị nói chung có những đặc điểm như: mật độ dân số cao, sơ sở hạ
tầng mang tính thống nhất, đồng bộ, trình độ dân trí cao, đồng đều hơn nông
thôn, xã hội đô thị là “xã hội mở”, là một môi trường đa văn hóa, đa dân tộc...
Đây là một đặc điểm cực kỳ quan trọng để xem xét, quyết định về tính đại
diện khi chia đơn vị bầu cử HĐND cấp huyện và đơn vị bầu cử HĐND cấp
xã.
Trước định hướng lên Quận vào năm 2020, bộ máy chính quyền Hoài
Đức phải là những người có tâm, có tầm, nắm vững pháp luật, thạo việc, công
tâm, hết lòng phục vụ nhân dân. Phải coi đó là vấn đề then chốt để nhân dân
tin tưởng, ủng hộ và bảo vệ chính quyền. Muốn vậy, công tác cán bộ cần đổi
mới theo hướng phải mở rộng dân chủ trực tiếp, nhân dân phải là người có
tiếng nói quyết định thực sự trong bầu cử. Tổ chức thực hiện pháp luật bầu cử
cần được đảm bảo sự tự do, công bằng, cạnh tranh trong tất cả các công đoạn
bầu cử, từ việc đề cử, giới thiệu ứng cử viên; vận động tranh cử, phương pháp
xác định kết quả bầu cử.
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử tại huyện Hoài
Đức trong thời gian vừa qua
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm
2015 là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức thành công cuộc bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2016- 2021. Mặc dù, các văn bản pháp luật về bầu cử đã có nhiều đóng góp
quan trọng vào kết quả cuộc bầu cử, nhưng qua thực tiễn thi hành pháp luật về
bầu cử vẫn còn những hạn chế, bất cập cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp với Hiến pháp và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động
của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp.
Các quy định về tiêu chuẩn đại biểu trong luật bầu cử còn chung chung,
nhất là các quy định về trình độ, năng lực, phẩm chất, đạo đức,nên trong
48
quá trình hiệp thương gặp khó khăn về tiêu chí lựa chọn, giới thiệu người ứng
cử, thậm chí có nơi phát sinh khiếu nại, tố cáo liên quan đến tiêu chuẩn của
người ứng cử. Cùng với sự phát triển của xã hội, nhận thức, trình độ của
người dân được nâng cao thì đại biểu dân cử cần có tiêu chuẩn cao hơn, cụ thể
hơn để đáp ứng yêu cầu vừa là đại diện cho nhân dân, vừa có đủ năng lực
tham gia hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn to lớn của Quốc
hội, của HĐND mà pháp luật quy định.
Các quy định về lập danh sách cử tri, các trường hợp không có quyền
bầu cử như bị tước quyền bầu cử, bị mắc các bệnh làm mất hoặc hạn chế khả
năng nhận thức,đều chưa được hướng dẫn chi tiết thi hành, gây lúng túng
trong quá trình lập danh sách cử tri.
Các quy định về công tác hiệp thương trong quá trình thực hiện cho
thấy còn có bất cập, hạn chế, thời gian chuẩn bị cho công tác hiệp thương còn
ngắn nhất là thời gian cho bước lấy ý kiến tín nhiệm của cử tri nơi cư trú. Quy
định về về biểu quyết bằng hình thức giơ tay hoặc bỏ phiếu kín trong các hội
nghị không thống nhất, chưa phát huy được tính dân chủ, chưa tạo điều kiện
cho các đại biểu tham dự có khả năng thể hiện đúng chính kiến của mình.
Các quy định về vận động bầu cử còn chung chung, nhất là về cách
thức, trách nhiệm, số lượng các cuộc tiếp xúc, chưa có cơ chế phát hiện những
trường hợp vận động bầu cử vi phạm pháp luật, chưa có tiêu chí đánh giá sự
công bằng giữa các ứng cử viên và các chế tài xử lý vi phạm.
Thực tiễn cho thấy, sau khi tổng kết cuộc bầu cử, việc thi đua, khen
thưởng đã được tiến hành để ghi nhận và khuyến khích những tập thể, cá nhân
đã có thành tích triển khai tổ chức bầu cử. Tuy nhiên, trong luật bầu cử chưa
quy định cụ thể về vấn đề này.
49
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm
2015 (sau đây gọi tắt là Luật bầu cử 2015) thay thế Luật bầu cử đại biểu Quốc
hội năm 1997(sửa đổi bổ sung năm 2001); Luật bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân năm 2003; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại
biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2010. Trên cơ
sở kế thừa, phát triển quy định của các luật bầu cử trước đây, Luật bầu cử
2015 đã bổ sung nhiều điểm mới quan trọng liên quan đến công tác tổ chức
bầu cử, từ thực tiễn tổ chức bầu cử tại huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội,
luận văn đề cập và so sánh, đánh giá về công tác tổ chức bầu cử nhiệm kỳ
trước và sau khi Luật bầu cử 2015 có hiệu lực, cụ thể như sau:
2.2.1. Thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử, chia đơn vị bầu cử đại biểu
HĐND cấp huyện và đơn vị bầu cử đại biểu HĐND cấp xã; xác định
khu vực bỏ phiếu ở các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Hoài Đức
Sau hội nghị triển khai công tác bầu cử ở huyện và các xã, thị trấn, việc
thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử trên địa bàn huyện và các xã, thị trấn
được tiến hành theo đúng trình tự và thời hạn pháp luật quy định.
So với cuộc bầu cử năm 2011, cuộc bầu cử năm 2016 trên địa bàn huyện vẫn
giữ nguyên 168 khu vực bỏ phiếu (Bảng 2.1), vẫn chia 13 đơn vị bầu cử đại
biểu HĐND huyện, riêng về bầu cử đại biểu HĐNDxã, thị trấn tăng từ 152
đơn vị lên 161 đơn vị bầu cử đại biểu HĐND xã, thị trấn.
Trong quá trình tổ chức cuộc bầu cử, huyện ủy đã quyết định thành lập
04 đoàn kiểm tra do các đồng chí thường trực huyện ủy trực tiếp làm trưởng
đoàn để kiểm tra, giám sát công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác bầu
cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 đối với
Đảng ủy, UBBC các xã, thị trấn trên địa bàn huyện.
UBND huyện đã ban hành 13 quyết định thành lập 13 ban bầu cử đại
biểu HĐND huyện; 20 quyết định phê chuẩn 168 tổ bầu cử ở 20 xã, thị trấn;
50
01 quyết định thành lập tổ công tác trực tiếp nhận, giúp việc giải quyết đơn
thư liên quan đến bầu cử; 05 văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các xã, thị trấn, các
ngành thực hiện nhiệm vụ liên quan đến công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và
đại biểu HĐND các cấp trên địa bàn huyện.
UBBC huyện đã ban hành 01 kế hoạch; 11 quyết định trong đó có 06
quyết định thành lập 6 tiểu ban giúp việc gồm: tiểu ban tuyên truyền, tiểu ban
hồ sơ, tiểu ban giải quyết đơn thư, tiểu ban an ninh trật tự, tiểu ban tổng hợp
kết quả bầu cử và tiểu ban cơ sở vật chất; và ban hành quyết định trưng tập 22
đồng chí là lãnh đạo các phòng, ban, ngành của huyện trực tiếp chỉ đạo, theo
dõi, giúp các xã, thị trấn và các đơn vị lực lượng vũ trang đóng quân trên địa
bàn về công tác bầu cử; UBBC huyện quyết định ấn định 13 đơn vị bầu cử và
số đại biểu HĐND huyện được bầu ở mỗi đơn vị;
Các xã, thị trấn đã thành lập ủy ban bầu cử, thành lập 161 ban bầu cử ở
161 đơn vị bầu cử đại biểu HĐND xã, thị trấn; quyết định thành lập 168 tổ
bầu cử tại 168 khu vực bỏ phiếu theo đúng luật định. Các xã, thị trấn đã thành
lập các tiểu ban giúp việc, xây dựng kế hoạch triển khai các nhiệm vụ về công
tác bầu cử.
Huyện đã chủ động, tích cực thực hiện tốt nhiệm vụ là thành viên trong
ban bầu cử đại biểu Quốc hội số 05; trưởng ban bầu cử đại biểu HĐND thành
phố Hà Nội số 24. Ban bầu cử đại biểu HĐND thành phố số 24 đã xây dựng
kế hoạch triển khai thực hiện nhiệm vụ, đồng thời họp phân công và chỉ đạo
các thành viên trong ban bầu cử đại biểu HĐND thành phố thực hiện nhiệm
vụ theo quy định.
51
Bảng 2.1. Thống kê khu vực bỏ phiếu trên địa bàn huyện Hoài
ĐứcCuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND
nhiệm kỳ 2016-2021
Số
thứ
tự
Xã,
thị trấn
Dự kiến
số lượng
cử tri
KHU VỰC BỎ PHIẾU
Tổng
số
Số khu vực
bỏ phiếu ở
khu dân cư
Số khu vực
bỏ phiếu
riêng (của
LLVT, bệnh
viện,)
1 X ã An Khánh 14.886 9 9
2 Xã An Thượng 12.053 9 9
3 Xã Cát Quế 13.217 10 10
4 Xã Đắc Sở 3.335 6 6
5 Xã Đức Giang 9.420 7 7
6 Xã Đức Thượng 7.422 10 9 1
7 Xã Đông La 8.315 8 8
8 Xã Dương Liễu 10.609 14 14
9 Xã Di Trạch 5.134 6 6
10 Xã Kim Chung 9.066 12 10 2
11 Xã Lại Yên 5.590 8 8
12 Xã La Phù 7.707 6 6
13 Xã Minh Khai 4.321 7 7
14 Xã Sơn Đồng 6.849 8 8
15 Xã Song Phương 9.748 6 6
52
Số
thứ
tự
Xã,
thị trấn
Dự kiến
số lượng
cử tri
KHU VỰC BỎ PHIẾU
Tổng
số
Số khu vực
bỏ phiếu ở
khu dân cư
Số khu vực
bỏ phiếu
riêng (của
LLVT, bệnh
viện,)
16 Xã Tiền Yên 4.964 9 9
17 Thị trấn Trạm Trôi 4.149 7 7
18 Xã Vân Canh 6.466 8 8
19 Xã Vân Côn 9.034 9 9
20 Xã Yên Sở 7.987 9 9
Tổng cộng 160.272 168 165 3
(Nguồn: Phòng Nội vụ huyện Hoài Đức)
Bảng 2.2. Công bố danh sách chính thức số đơn vị bầu đại biểu HĐND
huyện, số đại biểu được bầu, số người ứng cử đại biểu HĐND huyện Hoài
Đức khóa XIX, nhiệm kỳ 2016- 2021 tại đơn vị bầu cử:
STT Đơn vị bầu cử Số đại biểu
được bầu
Số người
ứng cử
1 Đơn vị bầu cử số 1
(xã Minh Khai, xã Đức Thượng)
03 05
2 Đơn vị bầu cử số 2
( xã Đức Giang, thị trấn Trạm Trôi)
03 05
3 Đơn vị bầu cử số 3
(xã Dương Liễu)
03 05
53
STT Đơn vị bầu cử Số đại biểu
được bầu
Số người
ứng cử
4 Đơn vị bầu cử số 4
(xã Cát Quế)
03 05
5 Đơn vị bầu cử số 5
(xã Yên Sở, xã Đắc Sở)
03 05
6 Đơn vị bầu cử số 6
(xã Tiền Yên, xã Lại Yên)
03 05
7 Đơn vị bầu cử số 7
(xã Song Phương)
03 05
8 Đơn vị bầu cử số 8
(xã Vân Côn)
03 05
9 Đơn vị bầu cử số 9
(xã An Thượng)
03 05
10 Đơn vị bầu cử số 10
(xã Đông La, La Phù)
03 05
11 Đơn vị bầu cử số 11
(xã An Khánh)
03 05
12 Đơn vị bầu cử số 12
(xã Di Trạch, xã Vân Canh)
03 05
13 Đơn vị bầu cử số 13
(xã Kim Chung, xã Sơn Đồng)
04 07
(Nguồn: Phòng Nội vụ huyện Hoài Đức)
54
Bảng 2.3. Công bố danh sách chính thức số đơn vị bầu cử, số đại biểu
được bầu và số người ứng cử đại biểu HĐND xã, thị trấn tại đơn vị bầu
cử trên địa bàn huyện Hoài Đức, nhiệm kỳ 2016-2021.
STT Đơn vị Số đơn vị
bầu cử
Số đại biểu
được bầu
Số người ứng
cử
1 Xã An Khánh 7 33 53
2 Xã An Thượng 9 30 51
3 Xã Cát Quế 10 31 52
4 Xã Đắc Sở 6 25 43
5 Xã Đức Giang 7 29 48
6 Xã Đức Thượng 8 28 48
7 Xã Đông La 8 29 48
8 Xã Dương Liễu 14 30 46
9 Xã Di Trạch 6 27 45
10 Xã Kim Chung 10 29 48
11 Xã Lại Yên 8 26 44
12 Xã La Phù 6 28 46
13 Xã Minh Khai 7 26 45
14 Xã Sơn Đồng 8 27 46
15 Xã Song Phương 6 29 47
16 Xx Tiền Yên 8 26 44
17 Thị trấn Trạm trôi 7 26 45
55
STT Đơn vị Số đơn vị
bầu cử
Số đại biểu
được bầu
Số người ứng
cử
18 Xã Vân Canh 8 27 46
19 Xã Vân Côn 9 29 47
20 Xã Yên Sở 9 28 47
(Nguồn: Phòng Nội vụ huyện Hoài Đức)
56
2.2.2. Công tác lập và niêm yết danh sách cử tri trên địa bàn huyện Hoài Đức
Quy định về lập danh sách cử tri: mọi công dân có quyền bầu cử đều được ghi
tên vào một danh sách cử tri ở nơi thường trú hoặc tạm trú trừ trường hợp quy
định tại Khoản 1 Điều 30 của Luật bầu cử 2015. Về cơ bản, quy định này
không có gì khác so với những quy định trước đây. Tuy nhiên, Điều 29 của
Luật bầu cử 2015 đã luật hóa một số quy định đã được áp dụng ổn định trong
các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu HĐND, được quy định
trong các văn bản hướng dẫn của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Việc luật hóa
các quy định là một điểm mới đáng ghi nhận, nâng cao hiệu lực pháp lý của
các quy định, tăng cường việc áp dụng trực tiếp các quy định của luật, hạn chế
việc hướng dẫn bằng những văn bản dưới luật, bảo đảm tính thống nhất trong
việc áp dụng các quy địnhvào thực tiễn bầu cử.
Để bảo đảm tính nhất quán trong việc ghi tên cử tri vào danh sách cử tri đối
với các đối tượng tạm trú, tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương thực
hiện việc lập danh sách cử tri, luật đã quy định cụ thể về thời gian tạm trú để
được lập danh sách cử tri là 12 tháng. Chỉ những cử tri tạm trú và có thời gian
đăng ký tạm trú từ đủ 12 tháng tính đến ngày bầu cử mới được ghi tên vào
danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp
huyện nơi tạm trú;
Đối với trường hợp công dân Việt Nam từ nước ngoài về, luật bầu cử 2015
quy định: công dân Việt Nam ở nước ngoài trở về Việt Nam trong khoảng
thời gian từ sau khi danh sách cử tri đã được niêm yết đến trước thời điểm bắt
đầu bỏ phiếu 24 giờ, thì đến UBND cấp xã xuất trình hộ chiếu có ghi quốc
tịch Việt Nam để được ghi tên vào danh sách cử tri và nhận thẻ cử tri bầu đại
biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã (nếu xuất trình
tại nơi đăng ký thường trú) hoặc bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND
cấp tỉnh, cấp huyện (nếu xuất trình tại nơi đăng ký tạm trú)
57
Thực tế cho thấy, ở các xã, thị trấn trên địa bàn huyện hiện nay có một số
lượng khá đông công dân đang sống, học tập, lao động, công tác ở nước
ngoài, đi du lịch nước ngoài chưa được thực hiện quyền bầu cử, chưa được
vào danh sách cử tri, mặc dù họ có đủ các điều thực hiện quyền bầu cử.
Luật bầu cử 2015 quy định việc lập và niêm yết danh sách cử tri tại khu vực
bỏ phiếu chậm nhất là 40 ngày trước ngày bầu cử(luật bầu cử trước đây quy
định chậm nhất là 35 ngày trước ngày bầu cử), sự thay đổi này tạo điều kiện
thuận lợi hơn để Ủy ban nhân dân cấp xã thống kê, rà soát, điều chỉnh danh
sách cử tri chủ động hơn về mặt thời gian. Một điểm mới nữa của Luật bầu cử
2015 là mở rộng cử tri là người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp
hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc
được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND
cấp tỉnh nơi người đó đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp
đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Bên cạnh những điểm mới nêu trên, Luật bầu cử 2015 cũng còn một số quy
định chưa thực sự rõ ràng. Điều này ít nhiều sẽ gây ra sự lúng túng cho các cơ
quan trong quá trình lập danh sách cử tri, đòi hỏi phải có hướng dẫn. Cụ thể
như: (i)chưa thực sự phân định rõ ràng giữa các trường hợp cử tri không được
ghi tên vào danh sách cử tri khi thời gian đăng ký tạm trú chưa đủ 12
tháng(Khoản 3 Điều 29) và trường hợp cử tri có nguyện vọng thực hiện quyền
bầu cử ở nơi cư trú thay vì thực hiện quyền bầu cử ở nơi thường trú(Khoản 3
Điều 30); (ii) Quy định về việc đi bỏ phiếu nơi khác chưa thực sự cụ thể và rõ
ràng, theo quy định tại khoản 3 Điều 30 Luật bầu cử 2015 thì các cử tri đi bỏ
phiếu nơi khác chỉ được thực hiện quyền bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu
HĐND cấp tỉnh. Quy định này chưa thực sự hợp lý khi cử tri di chuyển từ xã
này sang xã khác trong một đơn vị cấp huyện hoặc khi di chuyển từ tỉnh này
sang tỉnh khác.
58
Trên địa bàn huyện Hoài Đức, trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII
và đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2011-2016 (sau đây gọi tắt là Cuộc bầu cử năm
2011), tổng số cử tri trên toàn huyện là 142.000 người, đến cuộc bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2016-2021(sau đây gọi
tắt là Cuộc bầu cử năm 2016), tổng số cử tri trên toàn huyện là 158.669
người. Danh sách cử tri do Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn lập theo từng khu
vực bỏ phiếu, trên cơ sở cân nhắc việc chia khu vực bỏ phiếu những cuộc bầu
cử trước.
Qua trực tiếp phỏng vấn và trao đổi với Trưởng công an một số xã, thị trấn
trên địa bàn huyện(bộ phận trực tiếp tham mưu giúp UBND xã, thị trấn lập
danh sách cử tri dựa trên quản lý nhân, hộ khẩu tại cấp xã), việc lập danh sách
cử tri dựa trên cơ sở dữ liệu của Bộ công an về quản lý nhân khẩu. Tuy nhiên,
để nắm được đầy đủ thông tin các công dân có hộ khẩu thường trú tại địa
phương nhưng tạm vắng đi nước ngoài hay đến các địa phương khác là rất
khó khăn, đặc biệt ở các địa bàn xã đông dân cư, bởi theo Điều 32, Luật cư trú
năm 2006, chỉ những đối tượng và trường hợp sau đây mới phải khai báo tạm
vắng:
“1. Bị can, bị cáo đang tại ngoại; người bị kết án phạt tù nhưng chưa
có quyết định thi hành án hoặc được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt
tù; người bị kết án phạt tù được hưởng án treo; người bị phạt cải tạo không
giam giữ; người đang bị quản chế; người đang chấp hành biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn; người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục,
cơ sở chữa bệnh, trường giáo dưỡng nhưng đang được hoãn chấp hành hoặc
tạm đình chỉ thi hành khi đi khỏi nơi cư trú từ một ngày trở lên có trách
nhiệm khai báo tạm vắng.
2. Người trong độ tuổi làm nghĩa vụ quân sự, dự bị động viên đi khỏi
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc Tỉnh nơi mình cư trú từ ba tháng trở lên
59
có trách nhiệm khai báo tạm vắng”
Như vậy, Luật cư trú năm 2006 giới hạn quá ít đối tượng phải khai báo tạm
vắng tại công an xã, trong khi thực tiễn đời sống, việc quản lý tất cả các đối
tượng tạm vắng tại địa phương là hết sức cần thiết. Thực tiễn việc lập danh
sách cử tri, hầu hết các xã đều gặp khó khăn khi không thống kê được đầy đủ
số người tạm vắng tại xã, bởi vậy, danh sách cử tri phải sửa đi, sửa lại nhiều
lần là không tránh khỏi. Việc nắm được các trường hợp tạm vắng chủ yếu dựa
trên quá trình các công an viên thu thập thông tin và đến tận nhà những người
tạm vắng để xác nhận.
Đến ngày 12/4/2016 (trước ngày bầu cử 40 ngày), danh sách cử tri của 20 xã,
thị trấn trên địa bàn huyện đã được niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân
dân, các khu vực công cộng, các khu vực bỏ phiếu và được thông báo rộng rãi
đến cử tri để kiểm tra thông tin. Tại mỗi khu vực niêm yết danh sách cử tri,
các xã, thị trấn đều bố trí người trực để bảo vệ và ghi lại những khiếu nại,
phản ánh của cử tri về danh sách cử tri theo quy định của pháp luật, danh sách
cử tri được bảo đảm an toàn, không có hiện tượng bị mất mát, bị xé rách hoặc
vẽ bẩn vào danh sách cử tri.
2.2.3. Công tác bảo đảm quyền ứng cử và tổ chức hiệp thươnglập danh
sách chính thức những người ứng cử đại biểu HĐND huyện, đại biểu
HĐND xã trên địa bàn huyện Hoài Đức
2.2.3.1. Công tác bảo đảm quyền ứng cử đại biểu HĐND huyện, đại biểu
HĐND xã, thị trấn trên địa bàn huyện
Về tiêu chuẩn của người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, so với
các Luật bầu cử trước đây thì Luật bầu cử 2015 kế thừa gần như nguyên văn,
bên cạnh mục tiêu “ phấn đấu làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh” luật mới thêm một mục tiêu quan trọng là “phấn đấu vì
mục tiêu dân chủ”. Luật bầu cử 2015 dẫn chiếu tiêu chuẩn của đại biểu Quốc
60
hội được quy định trong Luật tổ chức Quốc hội (tại điều 22), còn tiêu chuẩn
của đại biểu HĐND được quy định trong Luật tổ chức chính quyền địa
phương (tại điều 7). Mặc dù được quy định ở hai văn bản luật khác nhau
nhưng tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và tiêu chuẩn đại biểu HĐND gần như
đồng nhất, trong khi vai trò và trách nhiệm của đại biểu Quốc hội so với đại
biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã không thể hoàn toàn giống nhau.Qua
nhiều lần sửa đổi, bổ sung, nhưng tiêu chuẩn của đại biểu ứng cử trong luật
bầu cử 2015 vẫn mang tính chung chung, nhất là các tiêu chuẩn về trình độ,
năng lực, phẩm chất, đạo đứcnên trong quá trình tổ chức hiệp thương gặp
khó khăn về tiêu chí lựa chọn, giới thiệu người ứng cử, thậm chí có nơi phát
sinh khiếu nại, tố cáo liên quan đến tiêu chuẩn của người ứng cử.
Tại các hội nghị lấy ý kiến nhận xét của cử tri nơi công tác để giới thiệu người
ứng cử, cử tri chỉ được phép cho ý kiến về những người mà cơ quan, tổ chức,
đơn vị dự kiến giới thiệu. Luật bầu cử từ trước đến nay không quy định cử tri
có quyền giới thiệu thêm người ứng cử để lãnh đạo các cơ quan, tổ chức, đơn
vị nghiên cứu xem xét giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu
HĐND. Nhiều cử tri tham dự đều ở tình thế thụ động, có tâm lý ỷ lại vì cho
rằng người dân không có quyền giới thiệu thêm người ứng cử. Thực tế, pháp
luật cũng không có cơ chế để người dân giới thiệu thêm đại biểu để hội
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_to_chuc_thuc_hien_phap_luat_ve_bau_cu_tai_huyen_hoa.pdf