Khối lượng chất thải rắn (đất, đá) xuất hiện trong khai thác khoáng sản là rất lớn, loại chất thải này sau một thời gian không được xử lý sẽ gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái, ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng đến đời sống cư dân cũng như động, thực vật trong khu vực.
Để nhằm hạn chế ảnh hưởng đến môi trường từ các chất thải nói chung và chất thải rắn trong khai thác khoáng sản nói riêng, ngày 09 tháng 4 năm 2007 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2007/NĐ-CP về quản lý chất thải rắn.
Theo Nghị định này, thì loại chất thải trong hoạt động khai thác khoáng sản được gọi là chất thải công nghiệp; chủ nguồn thải có trách nhiệm thu gom, phân loại tại nguồn nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chất thải.
41 trang |
Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 6613 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản - Pháp luật và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lớn thường gây ra các dòng bùn di chuyển xuống vùng thấp, vùng đất canh tác, gây tác hại tới hoa màu, ruộng vườn, nhà cửa, vào mùa mưa lũ thường gây ra lũ bùn đá, gây thiệt hại tới môi trường kinh tế và môi trường xã hội.
Tóm lại: Các hoạt động khai thác khoáng sản đã gây ra rất nhiều tác động xấu đến môi trường xung quanh, nhưng có thể nói tóm lại trong một số tác động như sau: sử dụng chưa thực sự có hiệu quả các nguồn khoáng sản tự nhiên; tác động đến cảnh quan và hình thái môi trường; tích tụ hoặc phát tán chất thải rắn, làm ảnh hưởng đến nguồn nước, ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí, ô nhiễm đất, gây tiếng ồn và chấn động; gây ảnh hưởng đến sức khỏe và an toàn của người lao động.
1.3.3 Sự cần thiết bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản
Xuất phát từ việc nhận thức rõ tầm quan trọng của môi trường, cùng với việc phân tích sự tác động của hoạt động khai thác khoáng sản đến mối trường cho thấy môi trường trong hoạt động này bị ảnh hưởng rất lớn, do đó đòi hỏi cần phải bảo vệ môi trường trong hoạt động này là vệc làm hết sức cần thiết.
Bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản là sử dụng tổng hợp các biện pháp nhằm giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đến môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục tình trạng ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản, đồng thời góp phần khai thác, sử dụng hợp lý, tài nguyên khoáng sản.
Bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản không chỉ nhằm bảo vệ các thành phần môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản mà còn phải giữ gìn trữ lượng, chất lượng khoáng sản với tư cách là một thành phần môi trường quan trọng bảo đảm cho sự phát triển của con người, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà trữ lượng khoáng sản đang suy giảm và hầu hết không tái tạo lại được, đồng thời nhu cầu sử dụng khoáng sản của con người ngày càng lớn.
1.4 Khái quát chính sách bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản
Trong những năm đổi mới, Việt Nam đã thành công trong nhiều lĩnh vực, giữ gìn ổn định về chính trị; kinh tế phát triển với tốc độ cao liên tục trong nhiều năm; xây dựng xã hội ngày càng công bằng hơn, dân chủ hơn, văn minh hơn, môi trường được bảo vệ và cải thiện, nhờ đó quá trình phát triển của Việt Nam được đánh giá là theo hướng bền vững. Đạt được những thành công ban đầu nói trên, chính là nhờ Đảng và Chính phủ đã có những chủ trương, chính sách về bảo vệ môi trường đúng đắn, tiếp thu kinh nghiệm của các nước đi trước, tinh hoa của thời đại, đặc biệt là chính sách môi trường được thiết kế với thực tiễn sinh động của Việt Nam.
Vấn đề bảo vệ môi trường được coi là một yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển. Vì vậy, vấn đề này đã được văn kiện các kỳ đại hội Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) liên tục đề cập đến. Văn kiện đã định ra các quan điểm, giải pháp phù hợp, kịp thời, đặc bệt đại hội lần IX ĐCSVN đã nêu rõ chủ trương phát triển trong thời gian tới là “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với đảm bảo tiến bộ công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”, đặt mục tiêu môi trường cũng quan trọng như tăng trưởng kinh tế và đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội.
Chỉ thị 36-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã đánh giá một cách khách quan các nguy cơ và thách thức đối với môi trường, đề ra các quan điểm, mục tiêu cụ thể và các giải pháp hết sức quan trọng nhằm bảo vệ môi trường để phát triển bền vững trong tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại đất nước.
Tiếp theo là quyết định số 256/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Chiến lược xác định các thách thức đối với môi trường Việt Nam trong những năm tới là: Nhiều vấn đề môi trường bức xúc chưa được giải quyết; thách thức trong việc lựa chọn các lợi ích phát triển kinh tế và môi trường; cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu; gia tăng dân số, di dân và đói nghèo; nhận thức về môi trường còn thấp; tổ chức và năng lực quản lý chưa đáp ứng yêu cầu; hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của các vần đề môi trường khu vực và toàn cầu.
Với quan điểm phát triển kinh tế phải kết hợp hài hòa, chặt chẽ với bảo vệ môi trường; bảo vệ môi trường là nhiệm vụ của toàn xã hội; phòng ngừa là chủ yếu và bảo vệ môi trường phải kết hợp giữa nội lực và hợp tác quốc tế, chiến lược đặt ra mục tiêu đến năm 2010 là hạn chế tốc độ gia tăng ô nhiễm và định hướng mục tiêu đến 2020 là ngăn chặn về cơ bản tốc độ gia tăng ô nhiễm, bảo đảm cân bằng sinh thái ở mức ổn định và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về môi trường để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia có hiệu quả vào quá trình toàn cầu hóa.
Những giải pháp chiến lược then chốt được lựa chọn bao gồm: Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường; tăng cường quản lý Nhà nước; pháp luật về bảo vệ môi trường; áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường; xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường; tăng cường đầu tư cho bảo vệ môi trường; đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường và tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN
Trong chương này người viết tập chung phân tích một số trách nhiệm mà tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải thực hiện như: lập báo cáo đánh giá tác động môi trường; cam kết bảo vệ môi trường; lập các dự án cải tạo, phục hồi môi trường; ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường, tuân thủ các quy định về quản lý chất thải; nghĩa vụ về tài chính và một số trách nhiệm pháp lý mà tổ chức, cá nhân có hành vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản trong hệ thống pháp luật Việt Nam
2.1 Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản trong việc bảo vệ môi trường
Khoáng sản là tài nguyên không thể tái tạo được, là tài sản quan trọng của quốc gia, chính vì vậy khoáng sản phải được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển bền vững kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Để khuyến khích tổ chức, cá nhân bảo vệ, sử dung có hiệu quả mọi tài nguyên khoáng sản của đất nước trong hoạt động khai khoáng sản nói chung và hoạt động khai thác khoáng sản nói riêng, đồng thời bảo vệ được môi trường. Bên cạnh quyền và nghĩa vụ mà luật đã quy định thì tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản còn có một số trách nhiệm như sau:
2.1.1 Tuân thủ các quy định về lập và thưc hiện các nội dung trong báo cáo đánh giá tác động môi trường
Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản muốn được cấp phép khai thác, ngoài báo cáo nghiên cứu khả thi, luận chứng kinh tế, kĩ thuật về môi trường, thì phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt.
Theo quy định tại khoản 20 điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2005 có hiệu lực ngày 01/7/2006 thì: “Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) là việc phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra các biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó”. Qua quy định này ta có thể nhận thấy:
- Bất kỳ cá nhân, tổ chức nào nếu muốn thực hiện dự án có thể gây ảnh hưởng đến môi trường đều phải thực hiện phân tích và đánh giá tác động môi trường và phải đề xuất các biện pháp thích hợp để bảo vệ môi trường.
- ĐTM không phải là một nghĩa vụ mang tính hình thức, tức là không phải chỉ là một điều kiện giấy tờ cần phải có cho việc phê duyệt một dự án mà nó là một nghĩa vụ mang tính chất nội dung.
Như vậy việc đánh giá tác động môi trường sẽ giúp cho các nhà đầu tư chủ động lựa chọn những phương án khả thi về kinh tế và kĩ thuật trong kế hoạch phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường của mình. Đồng thời đây là cách thức để cơ quan có thẩm quyền để kiểm soát các hoạt ảnh hưởng đến môi trường hiệu quả nhất.
Hiện nay việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường được quy định tại Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường; Nghị định số 21/2008/NĐ-CP ngày 28/02/2008 của chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 80/2006 ngày 9/8/2006 của Chính phủ; Thông tư số 05/2008/TT-BTNMT ngày 8/12/2008 của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường.
Theo quy định thì tổ chức, cá nhân là chủ dự án đầu tư thuộc đối tượng phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường (sau đây gọi là chủ dự án) tự tiến hành hoặc thuê tổ chức tư vấn có đủ điều kiện về cán bộ chuyên môn, cơ sở vật chất – kỹ thuật cần thiết để tiến hành đánh giá tác động môi trường và lập báo cáo đánh giá tác động môi trường. Chủ dự án gửi văn bản thông báo về các hạng mục đầu tư chính, các vấn đề môi trường, các giải pháp bảo vệ môi trường của dự án và đề nghị Ủy ban nhân dân, Ủy ban mặt trận tổ quốc cấp xã đại diện cộng đồng dân cư nơi thực hiện dự án tham gia ý kiến (theo quy định tại khoản 2 mục III Thông tư 05/2008/TT-BTNMT); chủ dự án gửi hồ sơ đề nghị thẩm định báo cáo đánh giá tấc động môi trường đến Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ, Cơ quan ngang Bộ, Cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (theo quy định tại khoản 3 mục III Thông tư 05/2008/TT-BTNMT), thời điểm gửi hồ sơ đề nghị thẩm định, phê duyệt báo cáo tác động môi trường của các dự án được quy định tại khoản 5 Điều 1 Nghị định số 21/2008/NĐ-CP (trường hợp hồ sơ chưa hợp lệ, trong thời hạn không quá 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhân được hồ sơ, cơ quan tiếp nhận hồ sơ có trách nhiệm thông báo để chủ dự án bổ sung hoàn chỉnh). Một bản báo đánh giá tác động môi trường muốn được phê duyệt phải đảm bảo các nội dung sau (quy định tại điều 20 Luật Bảo vệ môi trường 2005 và phụ lục 4 thông tư 05/2008/TT-BTNMT):
- Liệt kê tên công trình và mô tả chi tiết các công trình trong dự án (không gian, thời gian, khối lượng thi công, công nghệ vận hành…) cũng như mô tả cho cả dự án.
- Đánh giá chung về hiện trạng môi trường nơi thực hiện dự án và vùng kế cận. kèm với đánh giá chi tiết tác động môi trường có khả năng xảy ra khi dự án được thực hiện. Việc đánh giá trên phải trung thực, khách quan nhằm giúp cơ quan thẩm định biết mức độ nhạy cảm và sức chịu tải của môi trường nơi có dự án cũng như các thành phần môi trường, yếu tố kinh tế - xã hội chị tác động của dự án, bên cạnh những đánh giá trên người lập báo cáo còn phải nêu dự báo rủi ro về sự cố môi trường do công trình gây ra.
- Biện pháp cụ thể để giảm thiểu các tác động xấu đến môi trường, phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường và những biện pháp này phải đảm bảo tính khả thi.
- Cam kết thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường xuyên suốt từ khi xây dựng cho đến suốt quá trình vận hành công trình.
- Danh mục công trình, chương trình quản lý và giám sát các vấn đề môi trường trong quá trình triển khai thực hiện.
- Dự toán kinh phí xây dựng các hạng mục công trình bảo vệ môi trường trong tổng dự toán kinh phí của dự án.
- Ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp xã và đại diện dân cư nơi thực hiện dự án (tổng hợp cả ý kiến đồng ý và không đồng ý về việc triển khai dự án tại địa phương hay việc triển khai biện pháp bảo vệ môi trường mà chủ công trình đưa ra).
- Chỉ dẫn nguồn cung cấp số liệu, dữ liệu và phương pháp đánh giá.
Để lập được báo cáo tác động môi trường đầy đủ với những nội dung trên, người lập báo cáo cần qua những bước tìm hiểu rõ rãng và có tầm nhìn sâu, rộng về vấn đề bảo vệ môi trường, đặc biệt là bảo vệ môi trường nơi có dự án sẽ tiến hành.
Đánh giá giá tác động môi trường là một trong những giải pháp quan trọng trong quản lý ô nhiễm công nghiệp, góp phần tích cực trong việc phòng ngừa ô nhiễm do các hoạt động sản xuất gây ra. Thấy được vai trò to lớn của việc đánh giá tác động nên nhà làm luật đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường. Tuy nhiên trong thời gian qua thì vấn đề đánh giá tác động môi trường không được chủ các dự án đầu tư quan tâm, Mặc dù đa số tất cả các dự án đầu tư đều thực hiện công tác đánh giá tác động môi trường, nhưng hầu hết chỉ dùng để đối phó, để dự án được thông qua nên họ chỉ làm qua loa, chú trọng làm cho đủ thủ tục chứ không quan tâm đến những tác động và nguy cơ môi trường thực sự, dẫn đến nhiều trường hợp vi phạm quy định về đánh giá tác động gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Đánh giá tác động môi trường là việc làm hữu ích, có ý nghĩa thiết thực đối với các hoạt động phát triển. Tuy nhiên do ĐTM là một quá trình nghiên cứu, phân tích tổng hợp phức tạp, đòi hỏi chuyên gia kinh nghiệm, tốn kém về thời gian, kinh phí. Vì vậy đối với các dự án phát triển việc ĐTM đầy đủ chỉ tiến hành đối với các dự án phát triển quan trọng, còn đối với các dự án ít quan trọng hơn thì không được quan tâm đúng mức.
Sau khi báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt thì chủ dự án có trách nhiệm báo cáo Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi thực hiện dự án về nội dung quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; niêm yết công khai địa điểm thực hiện dự án về các loại chất thải, cộng nghệ xử lý, thông số tiêu chuẩn về chất thải các giải pháp bảo vệ môi trường để cộng đồng dân cư biết, kiểm tra, giám sát; thực hiện đúng, đầy đủ các nội dung bảo vệ môi trường nêu trong báo cáo đánh giá tác động môi trường và các yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động; thông báo cho cơ quan phê duyệt báo cáo tác động môi trường để kiểm tra, xác nhận việc đã thực hiện các nội dung của báo cáo và yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; chỉ được đưa công trình vào sử dụng sau khi đã được cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, xác nhận việc thực hiện đầy đủ yêu cầu quy định trên (theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật bảo vệ môi trường năm 2005 và khoản 11 mục III Thông tư 05/2008/TT-BTNMT).
2.1.2 Tuân thủ các quy định về lập và thưc hiện các nội dung trong cam kết bảo vệ môi trường
Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng không thuộc đối tượng lập báo cáo đánh giá tác động môi trường có trách nhiệm lập bản cam kết bảo vệ môi trường để đăng ký với Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã được ủy quyền xem xét, xác nhận.
Theo tinh thần của Điều 24 Luật bảo vệ môi trường và Nghị định 21/2008/NĐ-CP thì các dự án hoạt động khai thác khoáng sản sau đây phải lập bản cam kết bảo vệ môi trường (CKBVMT):
- Dự án khai thác khoáng sản (trên đất liền) làm vật liệu xây dựng có công suất khai thác dưới 50.000m3/năm.
- Dự án khai thác khoáng sản làm vật liệu san lấp mặt bằng có công suất khai thác dưới 100.000m3/năm.
- Dự án khai thác, nạo vét tận thu khoáng sản lòng sông làm vật liệu xây dựng có công suất khai thác dưới 50.000m3/năm.
- Dự án khai thác khoáng sản rắn (không sử dụng hóa chất) có khối lượng mỏ (bao gồm khoáng sản và đất đá thải) dưới 100.000m3/năm.
Cấu trúc và yêu cầu về nội dung của bản cam kết bảo vệ môi trường phải bảo đảm theo đúng quy định Phục lục 24
Cấu trúc và yêu cầu về nội dung của bản cam kết bảo vệ môi trường
(Ban hành kèm theo thông tư số 05/2008/TT-BTNMT ngày 8 tháng 12 năm 2008 của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường)
, bao gồm các nội dung chính sau:
+ Thông tin chung: Tên Dự án; tên cơ quan, doanh nghiệp Chủ dự án; địa chỉ liên hệ của cơ quan, doanh nghiệp Chủ dự án; người đứng đầu cơ quan, doanh nghiệp Chủ dự án; phương tiện liên lạc với cơ quan, doanh nghiệp Chủ dự án;
+ Địa điểm thực hiện dự án;
+ Quy mô sản xuất, kinh doanh;
+ Nhu cầu nguyên, nhiên liệu sử dụng;
+ Các tác động môi trường: Các loại chất thải phát sinh; các tác động khác;
+ Biện pháp giảm thiểu tác động tiêu cực: Xử lý chất thải; giảm thiểu các tác động khác;
+ Các công trình xử lý môi trường, chương trình giám sát môi trường: Các công trình xử lý môi trường; chương trình giám sát môi trường;
+ Cam kết thực hiện.
Chủ dự án có trách nhiệm gửi hồ sơ đăng ký bản cam kết bảo vệ môi trường đến Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) nơi có dự án hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn thuộc huyện (sau đây gọi chung là cấp xã) được ủy quyền để đăng ký và cấp giấy xác nhận. Thời điểm đăng ký bản cam kết bảo vệ môi trường là trước khi xin cấp giấy phép khai thác khoáng sản.
Sau khi bản cam kết bảo vệ môi trường đã được xác nhận thì tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản có trách nhiệm thực hiện đúng và đầy đủ các nội dung đã ghi trong bản cảm kết bảo vệ môi trường.
2.1.3 Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải sử dụng công nghệ, thiết bị, vật liệu thân thiện với môi trường
Một trong những đặc điểm của hoạt động khai thác khoáng sản là thường gây ảnh hưởng rất lớn tới môi trường và sức khỏe của người lao động cũng như người dân vùng lân cận. Vì vậy, để bảo vệ môi trường và sức khỏe con người cũng như đảm bảo hoạt động khai thác khoáng sản được thực hiện có hiệu quả, an toàn, tiết kiệm thì mọi tổ chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản phải sử dụng công nghệ, thiết bị, vật liệu phù hợp, thân thiện với môi trường.
Theo khoản 1 Điều 16 Luật khoáng sản 1996 có hiệu thi hành 01/9/1996 thì: “Tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản phải sử dụng công nghệ, thiết bị, vật liệu và thực hiện các quy định khác của Luật bảo vệ môi trường để hạn chế tối đa tác động xấu đến các thành phần môi trường; thực hiện việc phục hồi môi trường, môi sinh và đất đai sau khi kết thúc từng giai đoạn hoặc toàn bộ hoạt động khoáng sản”.
Vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong ngành công nghiệp khai khoáng đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025”. Theo đề án này, ngành khai khoáng ưu tiên lựa chọn thiết bị, công nghệ mới theo hướng sản xuất sạch với các tiêu chí cao, ít tiêu hao nguyên, nhiên liệu, an toàn và thân thiện với môi trường sinh thái; áp dụng ngay từ đầu công nghệ hiện đại, có trình độ cơ giới hóa và tự động hóa cao đối với các mỏ mới xây dựng có quy mô lớn. Khoa học và công nghệ trở thành lực lượng quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm an toàn lao động và bảo vệ môi trường. Trong công nghệ khai thác lộ thiên, phấn đấu đến năm 2015 đạt trình độ cơ giới hóa các công đoạn sản xuất ngang tầm của khu vực và đến 2025 đạt trình độ thế giới, công nghệ thông tin được áp dụng phổ biến trong quản lý sản xuất kinh doanh, quản trị tài nguyên ở những mỏ lớn, tiến tới giảm tới tối đa lao động phổ thông ở những mỏ nhỏ và vừa; trong công nghệ khai thác hầm lò, phấn đấu áp dụng cơ giới hóa đồng bộ, chấm dứt tình trạng khai thác thủ công... (Quyết định số 159/2008/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án “Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong ngành công nghiệp khai khoáng đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025”).
Trong thời gian qua tình trạng chảy máu tài nguyên do công nghệ khai thác lạc hậu diễn ra khá phổ biến. Vì lợi ích cục bộ, trước mắt, các cơ sở khai thác ngại đầu tư công nghệ, thiết bị tiên tiến, các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu sử dụng thủ công, lợi dụng nhân công rẻ để kiếm lợi cao, không quan tâm đến các chỉ tiêu kỹ thuật, đã làm thất thoát một khối lượng lớn tài nguyên trong hoạt động này. Theo kết quả của Viện Tư vấn phát triển, tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác còn rất cao như khai thác than hầm lò tổn thất là 40 – 60%, khai thác apatit 26 – 43%, quặng kim loại 15 – 30%... Thiết nghĩ đã đến lúc các nhà quản lý của nước ta cần xiết chặt về vấn đề cấp giấy phép hoạt động khai thác, kiểm tra năng lực khai thác khoáng sản của các tổ chức, cá nhân. Bên cạnh đó cần có một số chính sách lớn như: Khuyến kích các doanh nghiệp có năng lực vốn, thiết bị đầu tư vào lĩnh vực khoáng sản; hỗ trợ vốn để các tổ chức, cá nhân cải tiến công nghê, kĩ thuật; tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút nguồn lực Khoa học và công nghệ từ bên ngoài… Có như vậy mới khắc phục được tình trạng chảy máu tài nguyên nói chung và tài nguyên khoáng sản trong khai thác nói riêng.
2.1.4 Thực hiện các quy định về quản lý chất thải
2.1.4.1 Quản lý nước thải
Hoạt động khai thác khoáng sản, nước được sử dụng với khối lượng lớn cho hầu hết các công đoạn sản xuất, đồng thời lượng nước thải ra môi trường làm ảnh hưởng đến nguồn nước xung quanh khu vực khai thác cũng đáng kể. Do đó chủ thể tiến hành hành khai thác khoáng sản phải tuân thủ các quy định về quản lý nước thải, thu gom và xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường.
Tiêu chuẩn môi trường là giới hạn cho phép của các thông số về chất lượng môi trường xung quanh, về hàm lượng của chất gây ô nhiễm trong chất thải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý và bảo vệ môi trường (Khoản 5 điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2005).
Một khi chuẩn mực hoặc giới hạn các tác nhân gây ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn thì ở đó có thể xem là bị ô nhiễm mặc dù chưa có bằng chứng về tác hại của các chất gây ô nhiễm.
Tiêu chuẩn môi trường được quy định cụ thể cho từng vùng và không giống nhau ở mọi nơi, mọi mục đích sử dụng. Tiêu chuẩn môi trường xác định các mục tiêu môi trường và đặt ra các giới hạn số lượng hay nồng độ cho phép của các chất được thải vào khí quyển, nước, đất hay được phép tồn tại trong các sản phẩm tiêu dùng. Theo Nghị định số 149/2004/NĐ-CP ngày 27/7/2004 quy định về việc cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước thì chủ thể khai thác khoáng sản phải tiến hành lập hồ sơ xin cấp phép xả nước thải vào nguồn nước và nộp hồ sơ tại cơ quan tiếp nhận hồ sơ là Cục Quản lý tài nguyên nước thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm tiếp nhận và quản lý hồ sơ, giấy phép do Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp hoặc Sở Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm tiếp nhận và quản lý hồ sơ giấy phép do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp. Hồ sơ bao gồm:
- Đơn đề nghị cấp giấy phép;
- Kết quả phân tích chất lượng nguồn nước nơi tiếp nhận nước thải theo quy định của Nhà nước tại thời điểm xin cấp phép;
- Quy định vùng bảo hộ vệ sinh (nếu có) do cơ quan có thẩm quyền quy định tại nơi dự kiến xả nước thải;
- Đề án xả nước thải vào nguồn nước, kèm theo quy trình vận hành hệ thống xử lý nước thải; trường hợp đang xả nước thải vào nguồn nước thì phải có báo cáo hiện trạng xả nước thải, kèm theo kết quả phân tích thành phần nước thải và giấy xác nhận đã nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải;
- Bản đồ vị trí khu vực xả nước thải vào nguồn nước tỷ lệ 1/10.000;
- Báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt đối với trường hợp phải đánh giá tác động môi trường theo quy định của pháp luật;
- Bản sao có công chứng giấy chứng nhận, hoặc giấy tờ hợp lệ về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai tại nơi đặt công trình xả nước thải. Trường hợp đất nơi đặt công trình xả nước thải không thuộc quyền sử dụng đất của tổ chức, cá nhân xin phép thì phải có văn bản thoả thuận cho sử dụng đất giữa tổ chức, cá nhân xả nước thải với tổ chức, cá nhân đang có quyền sử dụng đất, được Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận.
2.1.4.2 Quản lý chất thải rắn
Khối lượng chất thải rắn (đất, đá) xuất hiện trong khai thác khoáng sản là rất lớn, loại chất thải này sau một thời gian không được xử lý sẽ gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái, ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng đến đời sống cư dân cũng như động, thực vật trong khu vực.
Để nhằm hạn chế ảnh hưởng đến môi trường từ các chất thải nói chung và chất thải rắn trong khai thác khoáng sản nói riêng, ngày 09 tháng 4 năm 2007 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2007/NĐ-CP về quản lý chất thải rắn.
Theo Nghị định này, thì loại chất thải trong hoạt động khai thác khoáng sản được gọi là chất thải công nghiệp; chủ nguồn thải có trách nhiệm thu gom, phân loại tại nguồn nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chất thải.
2.1.5 Nghĩa vụ nộp thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường của chủ thể khai thác khoáng sản
Hiện nay, hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam diễn ra với quy mô và tốc độ ngày càng lớn, nhanh, đồng nghĩa với trữ lượng khoáng sản của nước ta ngày càng cạn kiệt và mức độ ô nhiễm môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản gây ra càng thêm trầm trọng. Chính vì vậy, để quản lý có hiệu quả việc khai thác khoáng sản và bảo vệ môi trường, Nhà nước đã quy định các nghĩa vụ mà tổ chức, cá nhân khi tiến hành khai thác khoáng sản phải tuân theo, trong đó có các nghĩa vụ về tài chính. Tác giả xin đề cập đến các nghĩa vụ tài chính có tác động mạnh đến các tổ chức, cá nhân khi được phép khai thác khoáng sản là: thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường.
- Thuế tài nguyên
Thuế tài nguyên là loại thuế thu vào hành vi khai thác tài nguyên thiên nhiên của tổ chức, cá nhân. Hành vi khai thác tài nguyên thiên nhiên là sự kiện pháp lý làm phát sinh thuế tài nguyên (không phải hành vi sử dụng tài nguyên thiên nhiên). Thuế tài nguyên là một trong những nguồn thu chung của ngân sách nhà nư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản - Pháp luật và thực tiễn.doc