Các đợt sốt giá đầu năm 2001 cho thấy phần n ào tính hấp dẫn của một thị tr ường
non trẻ tạo ra các l àn sóng đầu tư đón đầu vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
Những nhà đầu tư tiên phong có công làm b ật lên thị trường trong giai đoạn đầu hầu
như là giới thạo nghề gồm những ng ười và tổ chức trong v à ngoài nư ớc có kinh
nghiệm, có tiềm lực t ài chính và nh ậy bén, có mục ti êu và chiến lược đầu tư rõ ràng
và chủ động, có ý đồ đầu t ư dài hạn. Tuy nhi ên, trong quá trình s ưu tập danh mục cổ
phiếu cho mình họ mặc nhiên tạo ra tình trạng cạnh tranh mua l àm cho thị trường
bắt đầu nóng l ên
Như là một quy luật, thị tr ường sôi động v à giá tăng liên t ục đã nhanh chóng cu ốn
hút một làn sóng nhà đ ầu tư mới khác muốn thử thời vận tr ên thị trường tài chính có
mức sinh lợi hấp dẫn, tham gia dễ d àng. Nhóm đ ầu tư này không có ki ến thức v à
hiểu biết sâu sắc về TTCK, không chấp nhận thua lỗ trong ngắn hạn c ùng với việc
mua bán chỉ dựa vào cảm tính và theo xu hư ớng số đông (bầy đ àn), mua nhanh ch ờ
giá lên và bán nhanh vì s ợ giásẽ giảm (l ướt sóng). Ở nhóm nh à đầu tư này, khả
năng phân tích t ình hình tài chính, đánh giá các ch ỉ số hoạt động của doanh nghiệp
rất hạn chế, đ ưa đến hệ quả l à các lệnh giao dịch của họ vô t ình làm th ị trường chao
đảo, tuy trong thời gian ngắn cũng phần nào làm mất phương hướng của nhà đầu tư
cũ và tạo tâm lý ngần ngại cho các nh à đầu tư mới muốn tham gia v ào thị trường.
85 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1577 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Triển khai quyền chọn cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T: 228
điểm. Tháng 03/2007 chỉ số VN -index vượt quá 1.170 điểm và cuối năm 2007 chỉ
còn 927,02 điểm và còn tiếp tục giảm nữa sang những tháng đầu năm 2008 nói l ên
sự thăng trầm của thị trường chứng khoán Việt Nam sinh sau đẻ muộn v à rất còn
mới mẻ này. Đến ngày 08/04/2008 Phiên thứ hai áp dụng biên độ dao động mới, chỉ
số VN-index tăng vượt qua ngưỡng 500 điểm với mốc 548,56 điểm cuối ng ày giao
dịch và các nhà đầu tư ồ ạt xả hàng nhằm thực hiện hóa lợi nhuận sau 9 phiên thị
trường tăng điểm liên tiếp. Trong khi nhà đầu tư nội xả hàng thì nhà đầu tư ngoại
tăng mạnh việc mua vào.Đến ngày 09/04/2008 chỉ số VN-index tăng đến 552,05
điểm và như vậy thị trường chứng khoán đang có dấu hiệu phục hồi nhẹ (Hình 2.1).
Luận Văn Thạc sĩ - 38 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
Hình 2.1:
Bảng 2.1: Quy mô TTCK Việt Nam qua các năm từ 2000 – 2007
Năm Giá trị vốn hoá thị trường phiên cuối năm (Tỷ đồng) Tăng (*)
2000 1.046 136 %
2001 1.605 53 %
2002 2.537 58 %
2003 2.408 -5 %
2004 3.913 63 %
2005 7.765 98 %
2006 145.896 1779 %
2007 364.425 150 %
Nguồn: Từ các trang web của HoSE (http//www.vse.org.vn), các công ty chứng khoán SSI, BSC,
BVS…và (*) là tính toán của tác giả Hồ Viết Tiến (bài đăng trên tạp chí Phát triển kinh tế số tháng
2/2008), riêng năm 2000 so với ngày khai trương.
VN-Index vượt qua ngưỡng 550 điểm trong ngày 9/4/08 – (Nguồn: vse.org.vn)
Luận Văn Thạc sĩ - 39 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
Xét về góc độ quy mô thì thị trường chứng khoán Việt Nam còn quá nhỏ bé so với
khu vực và trên thế giới; tổng số vốn hoá thị tr ường hiện nay chỉ gần 23 tỷ USD
(cuối năm 2007), trong khi Thái Lan- 119 tỷ USD; Trung Quốc- 681tỷ USD; Nhật-
3040 tỷ USD; Mỹ- 14.266 tỷ USD. Bảng 2.1 cho thấy sự tăng trưởng giá trị vốn
hoá thị trường ở các phiên giao dịch cuối năm như trên.
Hình 2.2:
HÌNH 2.2b – HASTC
(Nguồn: Công ty chứng khoán Quốc gia)
Qua phân tích và với hai đồ thị trên hình 2.2a-2.2b chứng tỏ thị trường chứng
khoán Việt Nam còn rất non trẻ và đầy biến động.
HÌNH 2.2a - HOSE
Luận Văn Thạc sĩ - 40 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
Bảng 2.2: Chỉ số VN-Index từ 2000 – 2007
Năm Chỉ số VN-index phiên cuối năm Tăng (*)
2000 206,83 106,8 %
2001 235,40 13,8 %
2002 183,33 -22,1 %
2003 166,94 -8,9 %
2004 239,29 43,3 %
2005 307,50 28,5 %
2006 751,77 144,5 %
2007 927,02 23,3 %
Trung bình 35, 0 %
Nguồn: Từ các trang web của HoSE (http//www.vse.org.vn), các công ty chứng
khoán SSI, BSC, BVS…và (*) là tính toán của tác giả Hồ Viết Tiến (bài đăng trên
tạp chí Phát triển kinh tế số tháng 2/2008), ri êng năm 2000 so với ngày khai
trương.
Bảng 2.2 Cho thấy sự tăng trưởng chỉ số VN-index từ năm 2000 – 2007.
Lưu ý rằng trong năm 2007 ở vào thời điểm tháng ba chỉ số VN-index vượt quá
1.170 điểm, nhiều nhà đầu tư bước vào thị trường đến cuối năm 2007 th ì chỉ số sụt
giảm còn 927,02 điểm gây nên cảm giác thất bại và bi quan phổ biến trên khắp thị
trường.
Nhìn chung TTCK Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định sau hơn bảy
năm hoạt động tạo ra một kênh huy động vốn nhanh, hiệu quả, thúc đẩy cổ phần hoá
doanh nghiệp. Quy mô vốn hoá thị tr ường cổ phiếu và trái phiếu hiện đã chiếm
khoảng 36% GDP, gần bằng một nữa k ênh dẫn vốn của ngân hàng. Tuy vậy, bên
cạnh sự phát triển nhanh chóng đó của TTCK c òn chứa đựng những khó khăn và rủi
Luận Văn Thạc sĩ - 41 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
ro tiềm ẩn cần phải hết sức nỗ lực tháo gỡ v à khắc phục để ngày càng hoàn thiện
hơn.
2.1.2. Những rủi ro tiềm ẩn của thị trường chứng khoán Việt Nam :
Sự sụt giảm liên tục từng ngày của chỉ số VN-Index từ cuối 2007 kéo dài sang đầu
2008 phần nào thể hiện tính tất yếu phải xảy ra của TTCK Việt Nam v ì nó chứa
đựng những yếu tố rủi ro tiềm ẩn từ bên trong của nó. Bao gồm:
2.1.2.1. Tâm lý công chúng đầu tư hầu như theo kiểu bầy đàn, lướt sóng:
Các đợt sốt giá đầu năm 2001 cho thấy phần n ào tính hấp dẫn của một thị trường
non trẻ tạo ra các làn sóng đầu tư đón đầu vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
Những nhà đầu tư tiên phong có công làm bật lên thị trường trong giai đoạn đầu hầu
như là giới thạo nghề gồm những người và tổ chức trong và ngoài nước có kinh
nghiệm, có tiềm lực tài chính và nhậy bén, có mục tiêu và chiến lược đầu tư rõ ràng
và chủ động, có ý đồ đầu tư dài hạn. Tuy nhiên, trong quá trình sưu tập danh mục cổ
phiếu cho mình họ mặc nhiên tạo ra tình trạng cạnh tranh mua làm cho thị trường
bắt đầu nóng lên…
Như là một quy luật, thị trường sôi động và giá tăng liên tục đã nhanh chóng cuốn
hút một làn sóng nhà đầu tư mới khác muốn thử thời vận trên thị trường tài chính có
mức sinh lợi hấp dẫn, tham gia dễ dàng. Nhóm đầu tư này không có kiến thức và
hiểu biết sâu sắc về TTCK, không chấp nhận thua lỗ trong ngắn hạn c ùng với việc
mua bán chỉ dựa vào cảm tính và theo xu hướng số đông (bầy đàn), mua nhanh chờ
giá lên và bán nhanh vì sợ giá sẽ giảm (lướt sóng). Ở nhóm nhà đầu tư này, khả
năng phân tích tình hình tài chính, đánh giá các chỉ số hoạt động của doanh nghiệp
rất hạn chế, đưa đến hệ quả là các lệnh giao dịch của họ vô t ình làm thị trường chao
đảo, tuy trong thời gian ngắn cũng phần nào làm mất phương hướng của nhà đầu tư
cũ và tạo tâm lý ngần ngại cho các nh à đầu tư mới muốn tham gia vào thị trường.
Luận Văn Thạc sĩ - 42 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
Việc nghiên cứu, đánh giá giá trị cổ phiếu đòi hỏi những kiến thức nhất định v à đầu
tư đúng mức. Với khả năng hạn chế của một số nh à đầu tư khi tham gia vào th ị
trường hàng hoá bậc cao này dẫn đến việc đầu tư ồ ạt theo xu hướng phong trào,
gánh lấy thất bại là một kết quả hoàn toàn tất yếu.
2.1.2.2. Thị trường thiếu thông tin:
Ngày 31/3/2006 và 03/04/2006, U ỷ ban chứng khoán đã có hai văn bản gửi các
trung tâm giao dịch chứng khoán và NHNN nhằm nhắc nhở và khuyến cáo các nhà
đầu tư thận trọng trước những rủi ro tiềm ẩn của thị tr ường. Thông thường các
thông tin trên thị trường chứng khoán hiện nay l à tư vấn của những tổ chức chuyên
môn. Tuy nhiên, họ rất dè dặt trong những tình huống nhậy cảm và không đưa ra
những khẳng định chắc chắn v ì mục tiêu giữ uy tín cho mình. Các công ty chứng
khoán không dám phân tích nh ững rủi ro hay lợi nhuận kém của các doanh nghiệp
có cổ phiếu niêm yết. Do vậy, người đầu tư phải tự tiên liệu, định hướng đầu tư và
coi như vai trò tư vấn của công ty chứng khoán bị triệt ti êu.
Theo luật, đối với những dữ liệu của các công ty ni êm yết, những thông tin này phải
được kiểm toán. Tuy nhiên, khi thị trường đang sốt thì ít nhà đầu tư để ý nhiều đến
những thông tin này, bên cạnh khả năng hiểu hết được những thông tin này không
phải ai cũng có. Mặt khác, giới đầu t ư cho rằng báo cáo hằng tháng theo y êu cầu
của Uỷ ban chứng khoán không có ý nghĩa do mức độ sai số của các chỉ tiêu tạm
tính, ngay cả bản cáo bạch hoặc báo cáo t ài chính của các công ty niêm yết cũng
không rõ ràng và thường không phản ánh đúng thực chất hoạt động của công ty hiện
tại.
2.1.2.3. Có hiện tượng trục lợi bằng đầu cơ phi đạo đức:
Tiềm năng dồi dào về vốn của thị trường còn non trẻ ví như mảnh đất mầu mở cho
giới đầu cơ chứng khoán, một số cá nhân hay tổ chức với số vốn nh àn rỗi lớn, tìm
cách thao túng thị trường trong một khoảng thời gian d ài, nhất là trong giai đoạn các
Luận Văn Thạc sĩ - 43 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
nhà đầu tư nước ngoài hay các quỹ tài chính còn chưa mặn mà với chứng khoán
Việt Nam, kiếm lời dựa vào sự yếu kém hiểu biết và tâm lý bầy đàn của các nhà đầu
tư trong nước. Có bốn thủ đoạn làm giá chứng khoán của giới đầu cơ: (i) Bán giá
sàn tạo tâm lý hoảng loạn; (ii) Mua giá trần tạo tâ m lý hưng phấn; (iii) Rải đinh che
giá mua thật; và (iv) Rải đinh che giá bán thật.
2.1.2.4. Hiệu ứng lạm phát giá cổ phiếu:
Việc tăng giá mạnh mẽ trong thời gian qua của các công ty vốn không đ ược đánh
giá cao dường như đang theo đúng một kịch bản đã từng diễn ra tại các nước ở gần
Việt Nam như Thái Lan, Trung Quốc trước mỗi lần suy thoái của thị tr ường. Đó là
việc giá cổ phiếu của các công ty l àm ăn hiệu quả tăng mạnh trong một thời gian d ài
kéo theo sự tăng giá cổ phiếu của các công ty có hoạt động S XKD kém hiệu quả
hơn. Sự tăng giá này thường được đẩy lên mức mà giá cổ phiếu của các công ty làm
ăn kém hiệu quả lại cao hơn nhiều so với giá của các công ty l àm ăn hiệu quả xét
trên mối tương quan với khả năng sinh lời trong quá khứ. Vấn đề l ưu tâm không
phải là giá cao mà là giá đã tăng quá nhanh so với tiến trình vận động và phát triển
cũng như dòng tiền thu về trong tương lai của doanh nghiệp. Hiện tượng này người
ta gọi là hiệu ứng lạm phát giá cổ phiếu. Giá cả trên thị trường chứng khoán vừa
qua cũng thể hiện trạng thái tương tự như vậy cho đến khi thị trường tự điều tiết
cuối 2007 cho đến hiện nay ( 05/2008 ) chỉ số VN-Index tụt giảm mạnh, và theo tôi
có một nguyên nhân đó là trả về giá trị thực tế của cổ phiếu mà bấy lâu nay nó phản
ảnh không chính xác bức tranh hoạt động của doanh nghiệp , chứ không phải là các
doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn đến thị giá cổ phiếu của mình bị giảm mạnh.
Hiệu ứng lạm phát giá cổ phiếu cũng có nguyên nhân bắt nguồn từ hiệu ứng bầy
đàn của công chúng đầu tư làm cho giá nóng lên, sau đó lại làm cho giá rớt xuống ở
mức cào đáy như hiện nay.
Luận Văn Thạc sĩ - 44 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
2.1.2.5. Hệ thống quản lý, giám sát thị tr ường chưa hiệu quả:
Chứng khoán là một lĩnh vực mới mẻ nằm trong quá trình hoàn thiện dần, nên các
quy định hiện hành còn nhiều kẻ hở mà giới đầu tư có thể tận dụng để “lách” một
cách dễ dàng .
Từ thực tế cho thấy, ngay từ khi thị tr ường chứng khoán mới ra đời nh à đầu tư đã
biết cách sử dụng nhiều tài khoản để thu lợi. Hiện nay, dù quy định pháp lý đã được
hoàn thiện hơn một bước, nhưng nếu một cá nhân hay một tổ chức có ý định thâu
tóm cổ phiếu doanh nghiệp để kinh doanh th ì họ không dại gì mở một tài khoản (chỉ
trừ khi họ có ý định công khai để tham gia v ào Hội đồng quản trị), bởi v ì làm cách
này phải qua nhiều thủ tục lại phải ch ào mua công khai và phải 6 tháng sau mới
được bán. Họ chỉ cần mở nhiều t ài khoản với các tên khác nhau ở một hay nhiều
công ty và mua với khối lượng dưới 5% (tức 4,99%) là có thể thâu tóm một lượng
cổ phiếu rất lớn mà không phải tuân theo các quy định trong Nghị đ ịnh. Đây là cách
lách luật hết sức sơ đẳng mà nhà quản lý không thể kết tội được.
Những người quan sát kỹ thị trường chứng khoán đều nhận thấy thời gian qua có
một khối lượng mua-bán cổ phiếu rất lớn từ một tổ chức có tiềm lực mạnh về t ài
chính, gây ra những cơn chao đảo giá cả nhưng các nhà giám sát , quản lý đã không
đủ khả năng hoặc không có công cụ để phát hiện. Điều n ày cũng chứng tỏ rằng khối
lượng tiền và cổ phiếu được mua bán không nằm trong một hai t ài khoản mà nằm
trong nhiều tài khoản và các tài khoản này có thể cùng hoạt động trong một phiên
giao dịch.
Bên cạnh đó, rất khó để xác định đâu l à hành vi mua bán bình thường và đâu là
hành vi mua bán giả tạo, vi phạm luật. Việc xác định đ ược các hành động thao túng
trên thị trường rất phức tạp, ngay cả ở các nước có thị trường chứng khoán phát
triển. Trước các hành động thao túng giá cả của giới đầu c ơ, vi phạm đạo đức chứng
khoán, mua bán nội gián…làm tăng nguy cơ lũng đoạn thị trường, hệ thống giám
sát hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam tu y đã được thiết lập nhưng
Luận Văn Thạc sĩ - 45 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
hoạt động chưa thực hiệu quả, chưa có hệ thống chỉ tiêu giám sát.. Bên cạnh đó
năng lực giám sát, các chế tài cưỡng chế hành vi vi phạm còn hạn chế, các văn bản
pháp luật khác có liên quan như Luật Dân sự, Luật H ình sự, Luật Thanh tra, pháp
lệnh xử phạt vi phạm hành chính… chưa quy định rõ thẩm quyền và chưa có các
quy định rõ ràng về các hành vi vi phạm trong hoạt động chứng khoán. Công tác
phổ biến, quán triệt các quy chế chính sách đối với hoạt động của thị tr ường chứng
khoán tuy đã được tổ chức thực hiện nhưng chưa được sâu rộng nên ý thức chấp
hành chưa cao. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý còn chưa có nhiều kinh
nghiệm, chưa nắm chắc nghiệp vụ nên kết quả kiểm tra còn hạn chế.
2.1.2.6. Chưa triển khai giao dịch quyền chọn cổ phiếu:
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã hình thành và hoạt động hơn 7 năm nay với
tốc độ khá nhanh; giá tăng - giảm đột biến nhưng nghiệp vụ quyền chọn cổ phiếu
chưa được triển khai. Do đó nhu cầu về quyền chọn cổ phiếu c àng trở nên cấp bách.
Nếu có công cụ quyền chọn này nhà đầu tư không bị hoảng loạn như tình hình cuối
2007 đầu 2008 hiện nay vì xem như đã mua “bảo hiểm” về giá .
Trên thực tế, các nhà quản lý và một số công ty chứng khoán đã tìm hiểu và lặng lẽ
chuẩn bị về quyền chọn cổ phiếu. Tuy nhi ên, nhân lực am hiểu về lĩnh vực này hiện
nay còn chưa nhiều. Khi quyền chọn cổ phiếu đ ược triển khai cũng là cơ hội kinh
doanh mới rất thú vị cho các công ty chứng khoán hay các công ty chuy ên về quyền
chọn vì chính nhà đầu tư cũng cần mua “bảo hiểm” để tự ph òng thủ rủi ro, biến
động mạnh của thị trường. Khi có công cụ quyền chọn, chắc chắn giá cổ phiếu sẽ
không có những đợt “sóng thần” như hiện nay.
2.2. Một số quyền chọn đã được đưa vào áp dụng tại Việt Nam:
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống t ài chính Việt Nam đã có những
bước phát triển rất quan trọng theo h ướng hội nhập với thông lệ và chuẩn mực quốc
tế được chấp nhận chung. Đây là định hướng đúng đắn nhằm để hệ thống t ài chính
Luận Văn Thạc sĩ - 46 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
nước ta phát triển ổn định, bền vững, tạo điều kiện cần cho phát triển kinh tế quốc
gia. Tuy nhiên cho đến thời điểm hiện tại (01/2008), công cụ t ài chính phái sinh và
thị trường công cụ tài chính phái sinh vẫn chưa phát triển. Việc mua hay bán công
cụ tài chính phái sinh rất ít được doanh nghiệp hoặc tổ chức t ài chính thực hiện
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của m ình. Đồng thời thị trường
chính thức chưa được thiết lập trong khi thị trường phi chính thức th ì nhỏ lẻ và hoạt
động không thường xuyên.
Loại công cụ tài chính phái sinh được phổ biến nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay l à
công cụ tài chính phái sinh tiền tệ. Ngoài ra, một số ít ngân hàng thương mại Việt
Nam đang được NHNN cho phép thực hiện thí điểm mua bán một số loại công cụ
tài chính phái sinh khác như công c ụ tài chính phái sinh về tín dụng, hoán đổi lãi
suất, quyền chọn về vàng, kỳ hạn về hàng hoá.
Ngày 15 /12 / 2004, Ngân hàng thương m ại cổ phần Á Châu (ACB) chính thức tung
ra sản phẩm mới: Gold Option – Quyền chọn mua bán vàng. Trong tình hình biến
động phức tạp của giá vàng trên thị trường hiện nay, việc có sản phẩm n ày đáp ứng
nhu cầu bảo hiểm giá vàng của khách hàng khi sử dụng vàng làm phương tiện thanh
toán và đầu tư.
Tháng 6/2006, Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam
(Eximbank) triển khai nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ / VNĐ . Đây là một trong
những công cụ giao dịch ngoại hối mới giúp cho khách h àng tránh được rủi ro trong
kinh doanh. Quyền chọn ngoại tệ / VNĐ (Currency Option ) l à hợp đồng giữa hai
bên, theo đó người mua có quyền chọn ( chứ không phải l à nghĩa vụ mua hoặc bán )
một số lượng cụ thể với một tỷ giá thực hiện đ ã được ấn định tại thời điểm giao dịch
cụ thể trong tương lai sau khi đã trả một khoản phí cho người bán.
Nhìn chung, thị trường quyền chọn Việt Nam mới chỉ đi v ào hoạt động, vẫn còn
nhiều khó khăn và phức tạp ở phía trước. Nhưng việc ứng dụng quyền chọn ngoại tệ
và quyền chọn vàng đã giúp phần nào cho giới đầu tư tài chính nhận thức được
Luận Văn Thạc sĩ - 47 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
công dụng và đặc điểm của các loại quyền chọn. C ùng với kế hoạch xây dựng thị
trường chứng khoán phái sinh giai đoạn 2009 -2010 trong chiến lược phát triển
TTCK đến năm 2010 của Chính Phủ sẽ tạo ra nhiều thuận lợi cho quyền chọn cổ
phiếu khi được đưa vào giao dịch trên TTCK sau này.
2.3. Những điều kiện cơ sở để hình thành thị trường quyền chọn cổ phiếu tại
Việt Nam
Để thị trường quyền chọn cổ phiếu được hình thành và phát triển ổn định và bền
vững đòi hỏi TTCK của một nước phải có những điều kiện tiền đề nhất định:
2.3.1. TTCK phát triển đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế:
Điều kiện cơ bản nhất để áp dụng quyền chọn cổ phiếu v ào TTCK của một nước là
TTCK của nước đó phải phát triển, giao dịch chứng khoán trở n ên sôi động và
TTCK là một kênh đầu tư thu hút vốn quan trọng và không thể thiếu đối với mọi
tầng lớp dân cư.
Một TTCK phát triển là một thị trường không có những khống chế về bi ên độ giá,
các loại lệnh sử dụng trong giao dịch đa dạng, ph ương thức giao dịch phong phú
như giao dịch thông qua điện thoại, internet…, hàng hoá trên thị trường chứng
khoán đa dạng, hấp dẫn và đại diện cho mọi ngành nghề của nền kinh tế. Khi TTCK
trở thành “phong vũ biểu” của nền kinh tế phản ánh sức khoẻ của nền kinh tế, biến
động trên thị trường là do tác động của cung cầu, lúc đó xuất hiện nhu cầu bảo hiểm
và kiếm lời dựa trên biến động không thể dự đoán của thị tr ường, và đó chính là
điều kiện cơ bản và quan trọng cho sự ra đời của quyền chọn cổ phiếu.
2.3.2. Nhận thức của nhà đầu tư về quyền chọn:
Trước khi một sản phẩm bất kỳ được tung ra thị trường thì điều cần thiết là nhận
thức của người sử dụng về sản phẩm đó, cụ thể l à người sử dụng phải nhận biết
được đặc điểm và công năng của sản phẩm đó, từ đó có hướng sử dụng phù hợp với
Luận Văn Thạc sĩ - 48 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
nhu cầu cá nhân của mình. Quyền chọn cổ phiếu cũng vậy, là một sản phẩm giao
dịch trên thị trường chứng khoán nên muốn đưa quyền chọn vào thị trường thì nhà
đầu tư ít nhất phải hiểu biết về sản phẩm đặc biệt n ày. Một khi họ đã nhận thức
được đặc điểm, công dụng và lợi ích của quyền chọn, cảm thấy sản phẩm n ày đáp
ứng được nhu cầu cá nhân th ì sẽ kích thích họ sử dụng sản phẩm mới mẻ n ày.
Nhận thức của nhà đầu tư về quyền chọn là rất quan trọng, quyết định thành công
hay thất bại khi đưa quyền chọn vào thị trường giao dịch. Khi một nhà đầu tư có
kiến thức nhất định về đặc điểm v à lợi ích của quyền chọn cổ phiếu, ng ười đó có thể
sử dụng nó một cách linh hoạt nhằm khai thác tốt nhất những tiềm năng sẵn có l àm
lợi cho mình, từ đó làm tăng giao dịch quyền chọn trên thị trường.
Mặt khác, quyền chọn là một sản phẩm đặc biệt, nên ngoài việc nhà đầu tư nhận
thức được nó thì cả người điều hành thị trường quyền chọn, những chuyên gia và
những nhân viên tham gia giao dịch thị trường phải là những người am tường về
quyền chọn. Người điều hành thị trường và nhân viên ngành chứng khoán càng hiểu
rõ về quyền chọn, khả năng tư vấn cho khách hàng và nhận định về thị trường càng
tốt thì việc điều hành thị trường sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn nhằm đáp ứng tốt nhất
nhu cầu cho nhà đầu tư.
2.3.3. Luật pháp trên Thị trường quyền chọn:
Có thể nói TTCK chỉ có thể tồn tại v à phát triển bền vững khi nó tạo được niền tin
vững chắc cho nhà đầu tư. Thị trường quyền chọn cũng vậy, chỉ có thể tồn tại v à
phát triển khi nhà đầu tư cảm thấy đây là một môi trường đầu tư công bằng và
quyền lợi chính đáng của m ình được luật pháp bảo vệ. Kinh nghiệm cho thấy sự sụp
đổ của thị trường quyền chọn ở Hà Lan vào những năm cuối thập niên 30 thế kỷ 17
và những thăng trầm của thị trường quyền chọn Mỹ những năm 1920 bắt nguồn từ
thực tế là luật pháp để đảm bảo quyền lợi nh à đầu tư – đặc biệt là quyền lợi của
người mua quyền chưa được hình thành đầy đủ, đã dẫn đến việc những yêu cầu thực
hiện hợp đồng của người mua quyền không được đáp ứng, làm mất lòng tin của
Luận Văn Thạc sĩ - 49 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
người mua quyền đối vớ i quyền chọn, kéo theo những cuộc khủng hoảng của ng ười
mua quyền trên thị trường lúc đó.
Pháp luật cho thị trường quyền chọn bao gồm những quy định về giao dịch, c ơ quan
quản lý của thị trường, các giới hạn, quy định về xử lý vi phạm…luật điều chỉnh
càng đầy đủ, chặt chẽ thì nhà đầu tư càng cảm thấy an tâm về quyền lợi của m ình,
lúc ấy sẽ tạo động lực cho nhà đầu tư tham gia giao dịch
Luật chứng khoán Việt Nam đ ã ra đời và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2007 là
cơ sở pháp luật và là tiền đề khách quan cho việc xây dựng và phát triển quyền
chọn cổ phiếu ở Việt Nam .
Ngày 29/06/2006, Luật chứng khoán đã được Quốc Hội nước Cộng Hoà Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua. Đây l à văn bản pháp luật
cao nhất về chứng khoán và thị trường chứng khoán có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2007. Luật bao gồm 11 chương 136 điều sẽ tạo cơ sở cho thị trường chứng
khoán phát triển nhanh và ổn định, tạo tâm lý an tâm cho các tổ chức, cá nhân khi
tham gia kinh doanh, đầu tư vào thị trường chứng khoán và bảo đảm lợi ích hợp
pháp của nhà đầu tư; giúp cho công chúng hiểu rõ hơn về chứng khoán, thị trường
chứng khoán và có cơ sở pháp lý để công chúng tham gia v ào thị trường. Luật
chứng khoán ra đời cũng sẽ giúp việc phân định r õ vai trò của từng thị trường vốn
dài hạn, trung hạn và ngắn hạn trong cơ cấu thị trường tài chính; đảm bảo và phát
huy quyền tự chủ của doanh nghiệp huy động vốn tr ên thị trường chứng khoán,
giảm gánh nặng trong việc dùng vốn ngắn hạn cho vay dài hạn của hệ thống ngân
hàng hiện nay và góp phần tăng cường tính công khai minh bạch trong các hoạt
động kinh tế nói chung và trong cộng đồng các doanh nghiệp nói ri êng.
Luận Văn Thạc sĩ - 50 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
2.3.4. Hàng hoá cho thị trường quyền chọn:
Một thị trường muốn đi vào hoạt động thì điều quan trọng nhất phải có hàng hoá
phục vụ cho thị trường đó. Vì thế để thị trường quyền chọn có thể đi vào hoạt động
thì nhất thiết phải có hàng hoá cho thị trường quyền chọn.
Hàng hoá cho thị trường quyền chọn khác với hàng hoá trên thị trường thông
thường, đó là khi một quyền chọn được phát hành thì tổ chức có cổ phiếu được giao
dịch không thu được bất cứ phần tiền nào nhưng lại đòi hỏi một lượng cổ phiếu cơ
sở nhất định của chính công ty đó l àm đảm bảo. Do đó việc xây dựng h àng hoá cho
thị trường quyền chọn đồng nghĩa với hai việc: đa dạng hoá và tiêu chuẩn hoá cổ
phiếu thông thường để làm cổ phiếu cơ sở cho hợp đồng quyền chọn, đồng thời phát
hành các hợp đồng quyền chọn theo những ti êu chuẩn nhất định.
Yếu tố chất lượng hàng hoá có ảnh hưởng khá lớn trong việc thu hút nhiều ng ười
tham gia, đặc biệt trên thị trường tài chính- một thị trường chủ yếu dựa vào lòng tin
của nhà đầu tư thì yếu tố chất lượng càng phải được đảm bảo và chú trọng. Chất
lượng hàng hoá quyền chọn phụ thuộc vào chất lượng của cổ phiếu cơ sở và uy tín
của nhà phát hành quyền chọn. Số lượng cổ phiếu cơ sở phải đủ lớn để đảm bảo thị
trường phát triển ổn định và đáp ứng được những tiêu chuẩn chất lượng của cơ quan
quản lý thị trường, đồng thời phải có tính thanh khoản cao th ì mới có khả năng thu
hút sự quan tâm của giới đầu tư trong hoạt động giao dịch.
Một khi hàng hoá trên thị trường chứng khoán và thị trường quyền chọn càng được
đa dạng về số lượng, đảm bảo về chất lượng thì tính hấp dẫn của thị trường càng
cao đối với nhà đầu tư.
2.3.5. Nguồn nhân lực phục vụ cho thị trường quyền chọn:
Một yếu tố quan trọng cần phải có nếu muốn xây dựng v à phát triển thị trường
quyền chọn là đội ngũ nhân viên hoạt động trên thị trường. Nhìn chung thị trường
Luận Văn Thạc sĩ - 51 - GVHD: PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt
HVTH: Huỳnh Thiên Phú
quyền chọn là một thị trường phức tạp đòi hỏi phải có đội ngũ nhân lực với tr ình độ
chuyên môn vững vàng, có kinh nghiệm hoạt động trên thị trường chứng khoán
thông thường.
Đội ngũ nhân lực phục vụ tại các công ty chứng khoán sẽ l à người cung cấp kiến
thức, quy trình giao dịch quyền chọn cho nhà đầu tư, tư vấn giao dịch và là trung
gian giữa nhà đầu tư và cơ quan quản lý thị trường. Vì thế năng lực chuyên môn và
kinh nghiệm của những người này là một yếu tố rất quan trọng để thu hút v à tạo
lòng tin với nhà đầu tư.
Bên cạnh đó để thị trường hoạt động hiệu quả, thông suốt đ òi hỏi đội ngũ nhân viên
vận hành có năng lực. Vai trò của những người này rất quan trọng vì vừa điều hành
hoạt động sao cho lợi ích của nh à đầu tư được đảm bảo ở mức tốt nhất vừa thanh
tra, giám sát các hoạt động của tất cả các thành viên tham gia giao d ịch nhằm tránh
sự sụp đổ của thị trường do tác động của một yếu tố n ào đó. Đội ngũ điều hành này
càng có kinh nghiệm, điều hành thị trường càng hiệu quả thì khả năng phát triển của
thị trường càng cao.
2.3.6. Cơ sở vật chất kỹ thuật - công nghệ phục vụ thị trường; Hệ thống thanh
tra giám sát và công bố thông tin:
Bên cạnh các yếu tố về pháp luật, hàng hoá, nguồn nhân lực, nhận thức của nhà đầu
tư thì một yếu tố nữa cần chuẩn bị chu đáo khi đ ưa quyền chọn vào giao dịch, đó là
điều kiện vật chất kỹ thuật - công nghệ, hệ thống thanh tra giám sát và công bố
thông tin.
Điều kiện vật ch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Triển khai quyền chọn cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam.pdf