Sự lãnh đạo của Đảng luôn luôn là nhân tố hàng đầu quyết định sự thắng lợi của cách mạng. Mọi thắng lợi và thành tựu cũng như thất bại tạm thời hay tổn thất đều gắn liền với trách nhiệm của Đảng. Điều cần phải nhấn mạnh là: Đảng ta đã vượt qua được những thách thức, chẳng những giữ được vai trò lãnh đạo mà còn lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới đất nước. Đảng ta đã sớm xác định: lãnh đạo kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng đảng là nhiệm vụ then chốt. Trong suốt chặng đường lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước, Đảng luôn luôn bám sát thực tiễn, luôn coi trọng và vận dụng đúng đắn lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Để đề ra những phương sách thích hợp, sáng tao và kịp thời. Đồng thời, Đảng cũng không ngừng xây dựng Đảng vững mạnh về lý luận, tư tưởng, chính trị, từng bước đổi mới, chỉnh đốn và tăng cường sức chiến đấu của Đảng. Những yếu tố cơ bản đó đã đưa ra đến thắng lợi to lớn của Đảng ta trong sự nghiệp lãnh đạo đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
66 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2571 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính tất yếu của sự tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng tư tưởng đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyền đã qua 5 đời tổng thống. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã hoàn toàn thắng lợi.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã khẳng định đường lối lãnh đạo và phương pháp cách mạng đúng đắn của Đảng ta. Đảng ta đã xác định đường lối cách mạng đúng đắn sáng tạo, phù hợp với đặc điểm cách mạng Việt Nam và lựa chọn phương pháp cách mạng thích hợp nhận định và chớp thời cơ. Ngay từ đầu cuộc kháng chiến Đảng đã sớm xác định được đúng đắn và xây dựng hậu phương căn cứ địa vững chắc cho cách mạng cả nước. Và trong suốt cuộc kháng chiến Đảng ta đã thực hiện đoàn kết quốc tế trên cơ sở. Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ cao nhất của nhân loại tiến bộ, kiên trì, nhất quán, giữ vững đoàn kết liên minh với Lào và Campuchia.
Một trong những nhân tố vô cùng quan trọng đưa đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đó là: xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ của cuộc kháng chiến. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã khẳng định Đảng ta luôn luôn tìm tòi, khảo nghiệm, tổng kết thực tiễn để tìm ra được giải pháp đúng đắn: đó là luôn bám sát thực tiễn, phân tích đúng tình thế và so sánh lực lượng, sớm phát hiện ra các vấn đề cần giải quyết và tìm ra lời giải cho các vấn đề ấy. Đồng thời luôn luôn bổ sung phát triển và hoàn thiện đường lối vì thực tiễn và tình huống mới luôn luôn xuất hiện và biến đổi không ngừng. Trong suốt cuộc kháng chiến, Đảng luôn luôn xây dựng, rèn luyện và không ngừng nâng cao trình độ, năng lực tổ chức, chỉ đạo thực tiễn, làm cho Đảng xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp của toàn thể dân tộc, tạo nên sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân. Đó chính là nền tảng sức mạnh của Đảng trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản với đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, linh hoạt, kiên định, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi. Đó là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Thắng lợi đó đã đánh dấu một bước ngoặt quyết định mở đường cho dân tộc Việt Nam tiến hẳn vào kỷ nguyên mới kỷ nguyên độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc, luôn luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng luôn luôn giữ vị trí hàng đầu, quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến. Trong từng bước đi của công cuộc chống ngoại xâm, Đảng luôn bám sát tình hình thực tiễn, xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước, luôn kiên định và vận dụng sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin để đề ra những chiến lược, sách lược vừa kiên quyết vừa mềm dẻo, sáng tạo, linh hoạt. Đặc biệt Đảng ta rất nhanh nhạy trong nhận định thời cơ cách mạng và nhanh chóng kịp thời đề ra đường lối, lãnh đạo nhân dân chớp thời cơ giành thắng lợi. Đảng đã đem lại những thành quả vĩ đại trong lịch sử cách mạng dân tộc: lật dổ chế độ áp bức bóc lột của phong kiến đã tồn tại hàng ngàn năm; đánh đuổi thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mỹ, những siêu cường trên thế giới (với tiềm lực quân sự và kinh tế to lớn). Đưa nhân dân ta từ địa vị người nô lệ lên làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đưa dân tộc ta từ địa vị bị phụ thuộc trở thành dân tộc được độc lập, tự do, sánh vai với nhân loại tiến bộ. Đưa lại cho nhân dân ta, dân tộc ta cuộc sống độc lập, tự do, ấm no hạnh phúc. Nguyện vọng ngàn đời đó của dân tộc ta, Đảng cộng sản đã đáp ứng, hoàn thành một cách vẻ vang.
2. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước
a) Trước thời kỳ đổi mới (1975 - 1985)
Trước đây có một số quan điểm cho rằng: Đảng cộng sản Việt Nam, chính phủ Việt Nam chỉ thắng lợi trong lãnh đạo nhân dân giải phóng dân tộc, còn trong công cuộc xây dựng đất nước thì Đảng và Nhà nước luôn luôn phạm phải sai lầm và đã chịu nhiều thất bại. Quan điểm trên là hoàn toàn không có cơ sở thực tế lịch sử đã chứng minh: Đảng cộng sản Việt Nam không chỉ lãnh đạo nhân dân ta giải phóng dân tộc thắng lợi. Mà trong công cuộc xây dựng đất nước Đảng ta lãnh đạo nhân dân đạt được những thắng lợi, những thành tựu không thể phủ nhận được.
Sau giải phóng miền Nam, đất nước có điều kiện xây dựng kinh tế thống nhất trong cả nước. Tháng 12-1976 Đại hội Đảng IV của Đảng họp đánh giá tình hình mới và đề ra đường lối xây dựng đất nước, thống nhất cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã đề ra đường lối chung của cách mạng XHCN và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta; phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 nhằm thực hiện 4 mục tiêu của đất nước: xây dựng chế độ mới, con người mới, kinh tế mới, văn hóa mới. Đưa cả nước vào thời kỳ quá độ lên CNXH.
Có thể nói trong suốt 10 năm 1975 - 1985 Đảng và Nhà nước ta luôn trăn trở, tìm tòi mô hình mới. Trong từng bước đi xây dựng đất nước, Đảng luôn đổi mới, điều chỉnh đường lối chính sách xây dựng phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện mới của đất nước. Điều đó phản ánh tinh thần trách nhiệm của Đảng trước nhân dân, trước lịch sử. Cụ thể:
Hội nghị VI BCHTW khóa IV tháng 8-1979 đã bàn về những vấn đề cấp bách của tình hình kinh tế xã hội của đất nước với tư tưởng "làm cho sản xuất bung ra". Đây là bước mở đầu cho sự tìm tòi đường lối đổi mới.
Ngày13-1-1981 Ban bí thư ra chỉ thị 100 CT/TW về khoán sản phẩm đến nhóm người lao động trong các hợp tác xã. Chỉ thị này đã tạo ra một động lực mới trong sản xuất nông nghiệp.
Ngày 21-1-1981 chính phủ ban hành quyết định số 25/CP về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh.
Tháng 3-1982 Đại hội Đảng lần thứ V của Đảng đã thông qua nghị quyết với những đổi mới quan trọng. Lần đầu tiên nghị quyết đại hội đã nêu ra quan điểm "chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ". Coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu và có những điều chỉnh căn bản trong cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành, cơ cấu đầu tư, xây dựng cơ bản.
Chúng ta thấy rõ rằng, đến đây (đại hội V) Đảng ta đã có bước chuyển biến quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế. Nếu như đại hội IV Đảng đề ra: "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ", thì đến đại hội V Đảng ta đã chuyển hướng "coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng, kết hợp nông nghiệp, công nghiệp tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công nông nghiệp hợp lý". Đây là bước chuyển hướng chỉ đạo đúng đắn, chính xác, hợp lý có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp xây dựng đất nước mà Đảng ta đã bao năm trăn trở và tìm tòi.
Đến Hội nghị 8 khóa V tháng 6 - 1985 Đảng ta đã có những quyết sách hết sức mạnh mẽ và kiên quyết: "phải dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa thì mới đẩy mạnh được sản xuất, kinh doanh có hiệu quả" [10, 161].
Bằng bản lĩnh chính trị của một Đảng cầm quyền, những quyết sách của Đảng và Nhà nước trong 10 năm tiến hành đổi mới (1975 - 1985) có ý nghĩa hết sức lớn lao. Nó càng khẳng định vị trí vai trò quyết định của Đảng trong từng bước đi lên của lịch sử dân tộc. Trong quá trình xây dựng đất nước Đảng ta luôn luôn tìm tòi, tổng kết thực tiễn để đề ra hướng đi sát hợp đưa đất nước thoát khỏi khó khăn, nghèo nàn, lạc hậu, vững bước trên con đường quá đội lên chủ nghĩa xã hội.
b) Thời kỳ sau đổi mới đất nước
Sau 10 năm xây dựng đất nước (1975 - 1985) dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng: xây dựng nền kinh tế thống nhất trên cả nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đưa đất nước tiến lên một bước trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội: Song, nước ta vẫn còn nghèo khủng hoảng kinh tế vẫn trầm trọng, nợ nước ngoài còn nhiều, cơ cấu kinh tế chưa cân đối, đầu tư còn chưa hợp lý. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp về căn bản chưa được xóa bỏ. Phân phối lưu thông hàng hóa rối ren; thực hiện chuyên chính vô sản còn buông lỏng... Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tiến hành trong hoàn cảnh đó. Đại hội đã đánh giá đúng tình hình đất nước, Đảng phân tích tình hình và nhiệm vụ với thái độ: "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Đảng đã thẳng thắn chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, những điểm chưa hợp lý trong xây dựng đất nước. Từ đó, hoạch định ra đường lối đổi mới, khởi xướng công cuộc đổi mới. Đây là bước ngoặt lịch sử trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Từ những việc đánh giá tình hình thực tiễn, chỉ ra nguyên nhân sai lầm và những bài học kinh nghiệm trong công cuộc xây dựng đất nước. Đảng ta đã xác định "nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát mục tiêu cụ thể của kinh tế xã hội của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên.
Đảng ta đã xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước đề ra chính sách kinh tế phù hợp nhằm khắc phục những khiếm khuyết và phát huy tiềm năng của đất nước. Với tư tưởng chỉ đạo: "giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa" [4, 47]. Đảng ta đã đưa ra chính sách và biện pháp cụ thể về phát triển kinh tế và phương hướng nhiệm vụ của chính sách xã hội.
Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với đường lối đổi mới toàn diện đúng đắn, kịp thời đó của Đảng, đất nước đã có những bước tiến rõ rệt về mọi mặt. Trong báo cáo chính trị của BCHTW khóa VI tại Đại hội VII về "thực hiện đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội", Đảng ta đã đánh giá:
Về kinh tế, nhờ có thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, chúng ta đã đạt được những thành tựu đầu tiên: từ chỗ thiếu ăn triền miên (năm 1988 còn phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo), chúng ta đã vươn lên đáp ứng được nhu cầu lương thực thực phẩm trong nước, có dự trữ và xuất khẩu. Hàng hóa trên thị trường dồi dào, đa dạng và lưu thông thuận lợi, kim ngạch xuất khẩu tăng từ 439 triệu rúp và 384 triệu USD năm 1986 lên 1019 rúp và 1170 triệu USD năm 1990.
Một thành tựu lớn về đổi mới kinh tế mà chúng ta đã đạt được nhờ đường lối lãnh đạo đổi mới của Đảng ta là: bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Cơ chế quản lý kinh tế mới đã bước đầu được hình thành. Kiềm chế được lạm phát; khoa học công nghệ tiếp tục phát triển bước đầu phát huy vai trò động lực cho sản xuất phát triển.
Về xã hội: đời sống nhân dân được ổn định hơn, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân có tiến bộ, hoạt động văn hóa văn nghệ phong phú hơn về nội dung, đa dạng hơn về hình thức và thể loại.
Đạt được những thành tựu đáng kể, mang tính chất bước ngoặt trên là sự lãnh đạo sáng suốt, kịp thời đúng đắn, sáng tạo của Đảng và sự nỗ lực của toàn dân. Thắng lợi của đường lối đổi mới của Đảng càng khẳng định thêm vai trò lãnh đạo quyết định của Đảng. Đồng thời tạo đà cho Đảng tiếp tục trên con đường đổi mới đất nước tiếp theo, tạo đà cho nhân dân vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tháng 6-1991 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tiến hành.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn và trên cơ sở đường lối đổi mới đất nước của Đại hội VI. Đảng ta đã đề ra mục tiêu tổng quát và phương châm chỉ đạo của 5 năm 1991 - 1995 nhằm hoàn chỉnh đường lối chính sách kinh tế xã hội mà Đại hội VI đã đề ra. Đảng đưa ra mục tiêu tổng quát của 5 năm 1991 - 1995 là: "Vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa đất nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay" [5, 60].
Đặc biệt Đại hội VII đã thông qua "cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội". Cương lĩnh đã đánh giá những thành công và khuyết điểm, những bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng đất nước. Đồng thời nhận định nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình trong nước và thế giới đang có những biến đổi to lớn và sâu sắc; đặc điểm của nước ta khi quá độ lên chủ nghĩa xã hội; đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Từ đó Cương lĩnh chỉ ra phương hướng cơ bản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc: cả về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, chính sách xã hội, an ninh quốc gia và xây dựng Đảng.
Cương lĩnh của Đại hội cũng đề ra: "mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh" [12, 34].
Đồng thời, Cương lĩnh cũng đưa ra những định hướng lớn về chính sách kinh tế - xã hội, những định hướng rất cụ thể sát thực và đúng đắn: "phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Trong đó cương lĩnh chỉ rõ: vai trò, vị trí tác dụng của từng thành phần kinh tế và mối quan hệ giữa chúng. Về cơ cấu kinh tế: "khi kết thúc thời kỳ quá độ, hình thành về cơ bản nền kinh tế công nghiệp với cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ gắn với phân công và hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng". Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến. Đẩy mạnh công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, mở rộng kinh tế đối ngoại. Xây dựng nền công nghiệp nặng với bước đi hợp lý, trước hết là ngành phục vụ nông nghiệp" "xóa bỏ triệt để tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước", "khoa học công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự phát triển của lực lượng sản xuất và nâng cao trình độ quản lý. Các chiến lược khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới", "giáo dục và đào tạo gắn liền với sự phát triển kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng nền văn hóa mới và con người mới" [12, 35].
"Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" là một bước cụ thể hóa, bổ sung đường lối đổi mới của Đại hội VI. Nhờ có sự chỉ đạo, uốn nắn kịp thời của Đảng: nắm vững những phương hướng cơ bản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, và thực hiện những định hướng lớn về chính sách kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của Đảng, trong 5 năm 1991 - 1996 và 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng 1986 - 1996, đất nước ta đã có những biến đổi rõ rệt: "Tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc phục. Kinh tế tăng trưởng nhanh, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước GDP bình quân hàng năm thời kỳ 1991-1995 đạt 82%. Lạm phát bị đẩy lùi (từ 774,7% năm 1986 xuống còn 12,7% năm 1995). Lương thực không những đủ ăn mà còn xuất khẩu mỗi năm 2 triệu tấn gạo. ổn định chính trị xã hội được giữ vững, dân chủ được phát huy, quốc phòng an ninh được củng cố. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều chuyển biến tích cực. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài suốt > 15 năm. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn" [6, 10].
Có được những thành tựu to lớn như trên là nhờ Đảng ta đã kiên trì đường lối đổi mới, thường xuyên nghiên cứu tổng kết thực tiễn để có những điều chỉnh bổ sung và phát triển cần thiết, đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn nữa.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước, xuất phát từ kết quả10 năm đổi mới và căn cứ vào "cương lĩnh" của Đảng. Trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Đảng ta đã nhận định: "nước ta đã chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa" [6, 18]. Đây là một nhận định cực kỳ quan trọng có ý nghĩa chỉ đạo đối với việc đề ra phương hướng, nhiệm vụ sắp tới.
Đảng đưa ra: "mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là: xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp" [6, 80].
Đồng thời báo cáo chính trị của BCHTW khóa VII ở Đại hội VIII Đảng ta chỉ rõ: "giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [6, 82].
Đường lối đổi mới được Đảng ta đề ra từ đại hội VI, bổ sung hoàn thiện ở Đại hội VII và tiếp tục đẩy mạnh ở Đại hội VIII cho thấy Đảng ta luôn luôn bám sát tình hình thực tiễn của đất nước, luôn tổng kết thực tiễn, nắm vững những đặc điểm của đất nước, tôn trọng và vận dụng đúng các quy luật khách quan, đề ra đường lối đổi mới đúng đắn, kịp thời và lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thắng lợi đường lối đó.
Sự lãnh đạo của Đảng luôn luôn là nhân tố hàng đầu quyết định sự thắng lợi của cách mạng. Mọi thắng lợi và thành tựu cũng như thất bại tạm thời hay tổn thất đều gắn liền với trách nhiệm của Đảng. Điều cần phải nhấn mạnh là: Đảng ta đã vượt qua được những thách thức, chẳng những giữ được vai trò lãnh đạo mà còn lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới đất nước. Đảng ta đã sớm xác định: lãnh đạo kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng đảng là nhiệm vụ then chốt. Trong suốt chặng đường lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước, Đảng luôn luôn bám sát thực tiễn, luôn coi trọng và vận dụng đúng đắn lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Để đề ra những phương sách thích hợp, sáng tao và kịp thời. Đồng thời, Đảng cũng không ngừng xây dựng Đảng vững mạnh về lý luận, tư tưởng, chính trị, từng bước đổi mới, chỉnh đốn và tăng cường sức chiến đấu của Đảng. Những yếu tố cơ bản đó đã đưa ra đến thắng lợi to lớn của Đảng ta trong sự nghiệp lãnh đạo đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
II. Vấn đề xây dựng Đảng ta ngang tầm với công cuộc đổi mới đất nước
1. Vì sao phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản là một tất yếu khách quan. Chính điều đó đảm bảo cho sự trung thành với hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời nó đảm bảo cho sự giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó quyết định sự thắng lợi hay thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó, trong lý luận của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh. Điều đó đã được lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế chứng minh.
Trong lịch sử cách mạng dân tộc, kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, thực tiễn lịch sử 70 năm qua của cách mạng Việt Nam cho thấy: không ngừng giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản là vấn đề cốt tử có ý nghĩa bất di bất dịch đối với Đảng ta. Một trong những bài học kinh nghiệm quan trọng rút ra từ thành công của sự nghiệp giải phóng dân tộc và công cuộc xây dựng đất nước là: không ngừng giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng. Buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng không chỉ là sai lầm về nguyên tắc, mà còn trực tiếp thủ tiêu sức mạnh của nhà nước và của cả hệ thống chính trị nước ta.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang tiến hành với quy mô và mức độ phức tạp của thời kỳ quá độ rất lớn, cơ chế mới có những mặt tích cực nhưng cũng nảy sinh những mặt tiêu cực rất lớn, sự chống phá của các thế lực phản động ngày càng gay gắt. Đòi hỏi Đảng ta phải nâng cao vai trò lãnh đạo của mình. Đòi hỏi phải luận giải một cách rõ ràng về tính tất yếu phải nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng.
Trong xã hội ta, Đảng ta nằm trong toàn bộ hệ thống các quan hệ với tư cách là một trong những nhân tố quan trọng nhất của các quan hệ ấy. Đảng phản ánh bên trong sự phát triển của mình những biến đổi trong cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Và dĩ nhiên có liên hệ chặt chẽ với các tính quy luật phát triển của xã hội ta, phản ánh các điều kiện và khuynh hướng vận động đi lên của xã hội. Đến lượt nó, các đặc điểm của giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội lại in dấu ấn lên hình thức và phương pháp hoạt động của Đảng làm xuất hiện các hiện tượng mới và quan hệ mới trong nội bộ Đảng. Chính vì vậy, khi các quan hệ xã hội biến đổi đa dạng và vận động phức tạp theo khuynh hướng vận động đi lên của xã hội thì các mối quan hệ trong nội bộ Đảng cũng vận động và biến đổi, các hình thức và phương pháp hoạt động cũng phải biến đổi, và để thích ứng được với sự vận động và phát triển của xã hội vai trò lãnh đạo của Đảng phải được nâng lên không ngừng. Về vấn đề này, Lênin luận chứng rằng: cao trào tự phát của quần chúng càng tăng lên và phong trào càng mở rộng thì sự cần thiết có một ý thức cao trong công tác lý luận chính trị và tổ chức của Đảng càng phải tăng lên và càng nhanh chóng hơn. Rõ ràng, những nhiệm vụ đặt ra ở giai đoạn này hay giai đoạn khác của hoạt động lịch sử càng trở lên rộng mở và phức tạp hơn, thì vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng tăng lên. Và trong giai đoạn hiện nay của đất nước ta đang đặt ra những nhiệm vụ to lớn và nặng nề đang đòi hỏi vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, tác dụng hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn cách mạng của Đảng phải tiếp tục nâng lên không ngừng. Đó là một vấn đề mang tính quy luật, là nguồn động lực phát triển của Đảng ta.
Nói đến Đảng cộng sản là nói đến đội tiên phong của giai cấp công nhân, là nói đến những thành viên ưu tú nhất, cách mạng nhất của giai cấp công nhân, là nói đến đội tham mưu chiến đấu, nói đến lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân. Vì vậy, với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân, Đảng không thể không giữ vững tính chất tiên phong của giai cấp công nhân và đến lượt giai cấp công nhân, việc không ngừng nâng cao tính chất tiên phong của mình cũng chính là trực tiếp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng - đội tiền phong của mình. Nếu không khẳng định và nâng cao tính chất tiền phong của giai cấp công nhân cũng có nghĩa là trực tiếp làm thay đổi bản chất giai cấp công nhân của Đảng, tính chất tiên phong của Đảng, lúc đó, đảng sẽ không còn là đội tiên phong của giai cấp công nhân, không đại diện trung thành cho lợi ích của toàn thể nhân dân lao động và của cả dân tộc, cũng không phấn đấu cho mục tiêu tiến lên chủ nghĩa xã hội được nữa. Đảng ta, với sự nỗ lực cao nhất, với sự ủng hộ và đồng tình của toàn dân tộc Việt Nam, trước sau như một, kiên quyết bảo vệ, tăng cường tính chất tiên phong của giai cấp công nhân; trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI nêu rõ: "Điểm xuyên suốt có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với Đảng ta trong giai đoạn hiện nay là giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng" [6, 48]. Đồng thời, Đảng ta cũng khẳng định rõ ràng: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc" [12, 39]. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất lãnh đạo xã hội Việt Nam, qua trường kỳ lịch sử dân tộc đã giành được từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Thực tế lịch sử dân tộc ta từ khi có Đảng đã chứng minh: Sở dĩ nhân dân ta, dân tộc ta lần lượt giành được thắng lợi trong công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng, đổi mới đất nước là nhờ vào sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó; là nhờ vào sự giữ vững tính chất tiên phong, bản chất giai cấp công nhân của Đảng cộng sản tức là nhờ vào sự không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng.
Vì vậy, việc nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng cũng chính là giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Như chúng ta đã biết, một vấn đề căn bản có ý nghĩa quyết định tạo cho một Đảng cộng sản chân chính khác tất cả các chính đảng khác, các tổ chức chính trị tiểu tư sản, các Đảng xã hội dân chủ, các Đảng công nhân cải lương là ở chỗ: Đảng cộng sản mang bản chất của giai cấp công nhân và đây là nguyên tắc bất di bất dịch. Nói Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, tức là quan điểm, tư tưởng, đường lối và chủ trương, chính sách của Đảng xuất phát từ lập trường của giai cấp công nhân, tức là lập trường của giai cấp tiên tiến và trung tâm của thời đại. Điều đó cũng có nghĩa là Đảng phấn đấu cho lợi ích của giai cấp công nhân, mà lợi ích đó cũng hoàn toàn phù hợp với lợi ích của các tầng lớp lao động. Chính điều đó là bản chất của Đảng ta, làm cho Đảng ta thực sự "là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc".
Vấn đề đặt ra là: phải giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Thực tiễn lịch sử xây dựng và phát triển của Đảng ta đã chứng tỏ Đảng ta luôn luôn giữ vững và tuân theo các nguyên tắc và tư tưởng chủ nghĩa xã hội khoa học: giữ vững vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Mặc dù nước ta vốn là một nước thuộc địa, nửa phong kiến và với gần 80% số dân là nông dân, nhưng Đảng ta
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUANVAN2.doc