MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ 7
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng giáo dục của Khổng Tử 7
1.2. Nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử 18
1.3. Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử 47
Chương 2: Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ VỚI VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 53
2.1. Một số vấn đề xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay 53
2.2. Sự cần thiết khách quan của việc kế thừa các giá trị truyền thống trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay 60
2.3. Những giá trị trong tư tưởng giáo dục của Khổng tử với việc xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay 65
KẾT LUẬN 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
100 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8031 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử với việc xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những nguyên tắc định hướng còn thức hành mới giúp cho người học đạt đạo. Theo Khổng Tử, nếu chỉ biết thế nào là Nhân, Lễ, Trí, Tín mà không thực hành thì đó mới chỉ là cái biểu hiện hời hợt bên ngoài, không có ý nghĩa, nên ông đòi hỏi học trò phải thực hành những điều đã học được với những người khác như với vua, với cha mẹ, với anh em, với bạn bè. Khổng Tử nói: “Đức hạnh chẳng trau dồi, học vấn chẳng giảng cứu cho tinh tường, nghe biết điều nghĩa mà chẳng làm theo, tự mình có điều chẳng phải mà không hay sửa đổi, đó là những việc mà ta lấy làm lo vậy” (Đức chi bất tu, học chi bất giảng, văn nghĩa bất năng tỹ, bất thiện bất năng cải, thị ngô ưu giã) [62, tr.98 - 99]. Khổng Tử rất phản đối việc học đơn thuần, tức là học để cho biết. Theo Khổng Tử học không chỉ để mở mang thêm kiến thức mà học còn là để sửa mình, học là để biết làm người, cho nên việc học và hành rất quan trọng. Ông nói: “Người ta lấy lời phép tắc mà chỉ bảo cho mình, mình há không nghe theo sao? Chẳng những mình nghe theo, mà mình phải sửa lỗi mới quý … nghe theo mà chẳng sửa lỗi, người như thế ấy, ta chẳng có cách nào đối với họ nữa” (Pháp ngữ chi ngôn, năng vô tùng hồ. Cải chi vi quý … tùng nhi bất cải, ngô mạt như chi hà gĩ dĩ hỹ) [62, tr.177-178]. Theo Khổng Tử, hàng ngày học bao nhiều điều hay, bao nhiêu lẽ phải nhưng nếu không đem những điều đã học thực hành vào cuộc sống thì những điều đã học là những điều sáo rỗng, vô ích:
Như có ai đã đọc thuộc hết ba trăm thiên trong Kinh Thi, được bực Quốc Trưởng trao quyền hành chính cho mình, nhưng cai trị chẳng xuôi; được phái đi sứ đến các nước ở bốn phương, nhưng tự mình chẳng có tài ứng đối; người ấy dẫu học nhiều, nhưng có biết dùng tài học của mình chăng? (Tụng thi tam bá, thọ chi dĩ chính, bất đạt; sứ ư tứ phương, bất năng chuyên đối; tuy đa, diệc hề dĩ vi) [62, tr.200-201].
Như vậy theo Khổng Tử, học mà tiếp thu tốt thì suy nghĩa (tư) mới cẩn thận và thông suốt, suy nghĩ thận trọng thì luyện tập (tập) mới nhanh thuộc, luyện tập thành thạo thì thực hành mới có hiệu quả. Vì vậy, học - tư - tập - hành là những công đoạn hết sức quan trọng của quá trình tiếp thu và vận dụng tri thức. Đây là một đóng góp rất quan trọng của Khổng Tử cho giáo dục về khía cạnh phương pháp. Tuy nhiên, Khổng Tử chỉ dạy học trò Học, Tư, Tập, Hành ở phương diện đạo đức, giao tiếp, lễ nghi, mà không dạy học trò về các lĩnh vực lao động sản xuất - lĩnh vực quan trọng nhất của đời sống xã hội. Đây cũng là hạn chế trong nội dung giáo dục và trong quan niệm Học và Hành của ông.
Phương pháp nêu gương: Đây là một phương pháp và là một yêu cầu quan trọng trong giáo dục của Khổng Tử. Người thầy không chỉ có kiến thức cao thâm thì có thể dạy học trò giỏi, mà muốn học trò giỏi còn đòi hỏi ở người thầy tư cách và phẩm chất cao đẹp làm gương cho học trò noi theo, từ đó mỗi lời thầy giảng mới trở thành “tiên chỉ” để học trò phấn đấu thành tài. Cả cuộc đời và sự nghiệp của Khổng Tử là minh chứng cho tấm gương mẫu mực của người thầy.
Theo Khổng Tử, nhân cách của người thầy có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người học, người học nhìn vào tấm gương người thầy mà tin rằng những điều thầy dạy là chân lý, là những điều tốt đẹp. Cho nên, để trở thành tấm gương cho học trò thì người thầy phải là người phải đi trước. Người thầy muốn dạy học trò điều gì thì thầy phải là người làm điều đó trước đã để chứng minh điều đó là đúng đắn: “Mình muốn dạy người ta điều gì, trước hết mình hãy làm điều đó đi. Rồi cứ theo đó mà dạy” (Tiên hành kỳ ngôn, nhi hậu tùng chi) [62, tr.20-21]. Diễn ra thì ý Khổng Tử muốn nói là người thầy muốn quở trách học trò điều gì, trước hết người thầy đừng phạm điều ấy. Người thầy muốn khuyên học trò làm điều gì, trước hết người thầy phải làm cho xong điều đó. Như vậy mới làm thầy người ta được.
Trên nguyên tắc đó, những gì Khổng Tử dạy người khác thì ông đã làm trước bằng chính cuộc đời và sự cố gắng vươn lên của bản thân. Tiểu sử của ông cho thấy, ông xuất hiện không phải như một vị thánh từ trên trời, hay như một hiền triết siêu phàm mà chỉ là một người bình dị như bao người khác đầy nhân tính, vẫn có những tham vọng, thành kiến, yếu đuối và sai lầm, nhưng ông đã tự sửa mình theo những chuẩn mực mà ông đặt ra để rồi sau này ông giảng lại cho người khác: “Như bậc thánh và Nhân thì ta há dám? Nhưng làm mà không chán, dạy người mà không mỏi, ta chỉ có thể gọi được như vậy mà thôi” (Nhược Thánh dữ Nhân, tắc ngô khởi cảm? Ức vi chi bất yếm, hối nhơn bất quyện, tắc khả vi vân nhĩ dĩ hỹ) [62, tr.116-117]. Khổng Tử không nhận mình là người có trí tuệ, cũng không nhận mình là người có nhân để dạy tri thức và dạy lòng lành, để thi ân bố đức cho đời, ông chỉ nhận mình là có chí, có quyết tâm và ông truyền lại cho học trò ý chí và quyết tâm mà thôi. Mặc dù vậy, người đời vẫn thừa nhận những công lao vĩ đại của ông và gọi ông bậc Thánh, bậc Nhân.
Phương pháp nêu gương không chỉ được sử dụng trong dạy học trò, mà Khổng Tử còn dùng để dạy những người làm quan. Theo Khổng Tử, người trên có làm gương cho người dưới thì mới dạy bảo được người dưới, mới trị được người dưới và mới cai trị được thiên hạ. Ông nói: “Như người nào đã sửa trị lấy mình, thì đứng ra cai trị có khó gì? Nhược bằng mình chẳng có thể sửa trị lấy mình, làm sao cai trị dân cho được” (Cẩu chính kỳ thân hỹ, ư tùng chính hồ, hà hữu? Bất năng chính kỳ thân, như chính nhơn hà) [62, tr.204-205]. Người làm quan làm gương cho dân không chỉ dạy dân, trị dân mà còn làm cho dân tin. Làm cho dân tin vào bậc cầm quyền là điều khó nhất và quan trọng nhất trong trị nước. Cho nên, khi trả lời Tử Cống, trong ba thứ quan trọng của nhà cầm quyền gồm lương thực, binh lực và dân tin điều gì quan trọng nhất thì Khổng Tử trả lời là dân tin. Bởi vì, theo ông, “dân không tin nhà cầm quyền thì chính quyền sẽ sụp đổ” (Dân vô tín bất lập) [62, tr.184-185]. Nếu bậc cầm quyền tự sửa mình làm gương cho dân thì dân sẽ theo đó mà trở nên tốt đẹp, việc trị nước từ đó mà cũng trở nên dễ dàng hơn: “Nếu nhà cầm quyền tự mình giữ theo chính đạo, chẳng đợi ra lệnh, dân cũng ăn ở trúng phép; còn như tự mình chẳng giữ theo chính đạo, dẫu có ra lệnh buộc dân theo, họ cũng không theo” (Kỳ thân chính, bất lệnh, nhi hành; kỳ thân bất chính, tuy lệnh, bất tùng) [62, tr.200-201].
Như vậy, những cống hiến mà Khổng Tử đóng góp cho lịch sử tư tưởng giáo dục thế giới là vô cùng to lớn. Ông đã đặt ra phương pháp giáo dục từ hai phía cả người thầy và người học. Người thầy là người hướng dẫn, gợi mở, tạo hứng thú, kích thích người học nghiên cứu và là tấm gương cho người học noi theo; còn người học thì phải suy nghĩ, luyện tập, thực hành những vấn đề đã tiếp thu. Đặc biệt, Khổng Tử đã chỉ ra được mối quan hệ biện chứng giữa Học - Tư - Tập - Hành trong giáo dục. Những tư tưởng về phương pháp giáo dục của Khổng Tử đã được thực tiễn lịch sử giáo dục cũng như lý luận giáo dục phương Đông nói riêng và thế giới nói chung kiểm chứng. Có thể nói, những phương pháp giáo dục được Khổng Tử nêu ra có giá trị thực tiễn đến ngày hôm nay.
1.3. NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ TRONG TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ
Không ai có thể phủ nhận sự ảnh hưởng to lớn của Khổng Tử đối với sự phát triển của Trung Quốc và nhiều nước châu Á khác, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, những ảnh hưởng đó không đơn thuần chỉ là những ảnh hưởng mang tính tích cực mà có cả những ảnh hưởng tiêu cực. Điều này có nguyên nhân từ tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, bởi bên cạnh những tư tưởng tích cực thì tư tưởng của ông bộc lộ không ít hạn chế. Những giá trị cũng như hạn chế này được thể hiện trong quan điểm của ông về đối tượng, mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục.
Về mục đích giáo dục: như như đã trình bày ở trên, mục đích giáo dục của Khổng Tử là nhằm truyền bá sâu rộng tư tưởng nhân nghĩa vào trong nhân dân, bao trùm của Khổng Tử là nhằm đào tạo những con người phù hợp với địa vị xã hội mà mình có, nghĩa là sống đúng với danh của mình. Nếu tầng lớp thường dân được giáo dục để biết phục tùng người trên, thì người quân tử được giáo dục để làm người cai trị. Trong đó, Khổng Tử ưu tiên cho mục tiêu đào tạo lớp người cai trị. Tư tưởng này của Khổng Tử có nhiều yếu tố tích cực nhưng cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Chúng ta đều biết rằng muốn xây dựng xã hội phồn vinh, phát triển thì yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất đó là con người, nhất là những người hiền tài. Khổng Tử hiểu rõ vấn đề này, nên mục đích giáo dục của ông là phát hiện và đào tạo những người hiền tài có tri thức và năng lực để cứu nước, giúp dân, xây dựng một xã hội thái bình, thịnh trị. Tư tưởng đào tạo người hiền tài để tham gia quản lý xã hội của Khổng Tử có giá trị ở chỗ nó đã đánh vào chế độ chuyên chế quý tộc “thế khanh thế lộc” - quan chế và bổng lộc cha truyền con nối. Nêu lên đòi hỏi của xã hội cần nhiều người tài giỏi để quản lý xã hội mà không cần để ý đến thành phần xuất thân. Điều này là động lực tạo ra một xã hội học tập, mọi thành phần trong xã hội có thể lấy học tập làm hy vọng để thay đổi số phận và địa vị của mình.
Bên cạnh những điểm tích cực đó, mục đích giáo dục của Khổng Tử cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Trước hết, đó là tư tưởng coi thường người dân. ông luôn đánh giá thấp khả năng nhận thức của tầng lớp dưới so với bậc quan lại và quý tộc. Do vậy, việc giáo dục họ chỉ là để họ biết nghe lời nhà cầm quyền. Bên cạnh đó, Khổng Tử cũng không thấy được sức mạnh của tầng lớp mới lên. Không thừa nhận địa vị của chư hầu, các quan đại phu. Chính điều đó làm cho tư tưởng của ông đi đâu cũng không được trọng dụng đến nỗi ông phải than rằng: "đạo của ta chẳng ai dùng”, “chẳng ai biết ta”, “biết ta chăng chỉ có trời”… Hơn nữa, do không thấy được sự suy sụp của nhà Chu là một tất yếu lịch sử cho nên ông vẫn lấy việc khôi phục lại chế độ tông pháp nhà Chu làm mục đích giáo dục của mình. Cũng chính từ mục tiêu giáo dục gắn liền và xoay quanh mục đích chính trị, cho nên nó không tránh khỏi hạn chế là bó buộc con người trong khuôn khổ chật hẹp của những mối quan hệ đã được định sẵn. Xây dựng con người theo hướng thích hợp với trật tự xã hội phong kiến đã làm thui chột khả năng sáng tạo của con người, hướng mục đích của việc học chủ yếu là để đỗ đạt và ra làm quan.
Về đối tượng giáo dục: với tư tưởng “hữu giáo vô loài”, có thể nói, Khổng Tử là người đầu tiên chủ trương “bình dân” trong giáo dục. Mặc dù chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc không khắc nghiệt như ở Ấn Độ hay Phương Tây, nhưng việc Khổng Tử chủ trương xây dựng một nền giáo dục cho tất cả mọi người không phân biệt giai cấp, đẳng cấp, giàu nghèo là một điểm hoàn toàn mới. Ông đã vượt qua đẳng cấp, danh phận trong xã hội để góp phần đưa sự nghiệp giáo dục con người đến với mọi lớp người ở mọi phạm vi và trình độ. Ông đã phá vỡ đặc quyền của tầng lớp quan lại, quý tộc làm cho giáo dục mang tính chất phổ cập bình dân. Chính vì vậy, tư tưởng “hữu giáo vô loài” của ông “Nó cũng có ý nghĩa như cuộc cách mạng của Thích ca để san bằng các tập cấp ở Ấn Độ” [56, tr.28]. Từ sau Khổng Tử trở đi, các nhà Nho cũng chủ trương mở rộng đối tượng giáo dục xuống tầng lớp thứ dân nhằm truyền bá đạo lý làm người theo quan niệm của Nho giáo và nhằm kén chọn nhân tài tham gia vào các công việc chính trị, xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tiến bộ thì quan niệm về đối tượng giáo dục của Khổng Tử cũng còn nhiều điểm mâu thuẫn và hạn chế. Đó là, dù coi giáo dục là bình đẳng giữa mọi người nhưng trong giáo dục Khổng Tử lại phân biệt từng loại người khác nhau, từng trình độ khác nhau. Việc phân biệt từng loại người với những phẩm chất và năng lực khác nhau cho thấy hạn chế về mặt lịch sử mà bản thân ông chưa vượt qua được. Chính quan niệm có hạng người sinh ra đã biết trở thành chỗ dựa cho giai cấp thống trị lợi dụng, khai thác buộc dân chúng phải tin rằng: tầng lớp đứng đầu cai trị trong xã hội ngay từ khi được sinh ra đã hiểu rõ đạo lý nên có thể gánh vác giang sơn, bình định được thiên hạ. Bên cạnh đó, ông cũng thể hiện tư tưởng coi thường phụ nữ. Trong tư tưởng của ông, phụ nữ không thuộc đối tượng được giáo dục. Ông quan niệm: “phụ nữ và tiểu nhân là hai hạng người khó ở cho vừa lòng nhất. Gần họ thì họ khinh nhờn. Xa họ thì họ oán trách” (Nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng dã. Cận chi, tắc bất tốn; viễn chi tắc oán) [62, tr.282-283]. Vị trí của phụ nữ là ở trong nhà và bếp núc, lo nuôi sống và phục vụ gia đình.
Tóm lại, với tư tưởng “hữu giáo vô loài”, Khổng Tử đã để lại trong lịch sử nhân loại một quan niệm to lớn: mọi người đều có quyền được giáo dục và xã hội cần giáo dục cho tất cả mọi người. Ông cũng thể hiện là một tấm gương dạy học vì lòng yêu thương con người chứ không vì tư lợi cá nhân. Tiếc rằng tư tưởng “hữu giáo vô loài” của ông không được thực hiện trọn vẹn nhưng tư tưởng đó sẽ trở thành phương châm giáo dục tích cực cho sự phát triển của giáo dục sau này.
Về nội dung giáo dục: nội dung chủ yếu mà Khổng Tử muốn truyền dạy cho mọi người là giáo dục “đạo làm người”. Trong bối cảnh hỗn loạn của thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc khi trật tự xã hội bị đảo lộn, đạo đức bị suy đồi, nhân luân bị xáo trộn… thì việc Khổng Tử đưa ra nội dung giáo dục đạo đức cho con người là hết sức quan trọng và có ý nghĩa to lớn nhằm thiết lập lại sự ổn định của xã hội. Khổng Tử coi trọng dạy luân lý, đạo đức cho con người, giúp con người sống hoà thuận trong các mối quan hệ xã hội mà mình có. Điều này cũng phù hợp với mục đích chủ yếu của Khổng Tử là đào tạo những con người hướng thiện, có lễ nghĩa. Ngoài ra, nội dung giáo dục của Khổng Tử còn hướng tới việc dạy “đạo trị nước” cho con người với mục đích quan trọng là đào tạo ra những con người có đức, có tài để bổ sung vào đội ngũ quan lại.
Nội dung cơ bản trong giáo dục Khổng Tử còn chú trọng giáo dục trách nhiệm, nghĩa vụ của cá nhân đối với gia đình và xã hội, chú trọng đến các giá trị tinh thần, danh dự, đạo đức và khí tiết. Điều này có thể nhìn nhận theo hai phương diện: xét đến mặt tích cực, Khổng Tử đã dạy cho con người hệ thống luân lý, nhân bản, dạy đạo làm người. Việc giáo dục con người sống có trách nhiệm với gia đình, cộng đồng và xã hội đã hạn chế rất nhiều thói hư tật xấu và sự ích kỷ tiềm ẩn trong con người. Phương châm giáo dục của Khổng Tử là coi việc giáo dục đạo làm người là trước hết rồi mới tiến hành trang bị các tri thức phục vụ cho công việc chính trị quốc gia. Đây cũng là điểm hết sức hợp lý, bởi muốn giải quyết các công việc xã hội thì trước hết con người phải có đạo đức. Nghĩa là, con người trước tiên phải tu thân, tề gia rồi sau đó mới trị quốc, bình thiên hạ.
Như vậy, Khổng Tử đã thấy được vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội và đòi hỏi cá nhân phải luôn luôn rèn luyện bản thân mình. Song ông đã quá đề cao đạo đức con người, coi đó như là tiêu chuẩn hàng đầu của nội dung giáo dục và đã gạt bỏ những năng lực khác của con người, đặc biệt là tri thức khoa học ra ngoài nội dung giáo dục của mình. Không những thế, mục đích và nội dung giáo dục của ông, trước sau đều nhằm đào tạo ra mẫu người lý tưởng, người quân tử trung thành với chế độ quý tộc phong kiến và nhằm duy trì trật tự đẳng cấp, danh phận của chế độ đó.
Mặt khác, tuy thấy được vai trò của giáo dục đối với việc phát triển xã hội, giáo dục là một trong ba thành tố quan trọng của quốc gia: “thứ, phú, giáo”, nhưng khi đưa vào thực tiễn Khổng Tử lại tách giáo dục ra khỏi hoạt động chính yếu của xã hội là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất; đánh giá thấp các hoạt động sản xuất vật chất, định hướng giá trị con người theo một chiều, thiên về cái tinh thần, xa rời việc chinh phục, chiếm lĩnh các giá trị vật chất, cải tạo tự nhiên. Chính vì vậy, ông quan niệm người hiền tài không phải là người hiểu biết về khoa học, về lao động sản xuất mà là người hiểu biết về lễ, nghĩa,.. Mặt khác, với nội dung giáo dục, Khổng Tử hướng tới mục đích đào tạo những lớp người thích hợp với trật tự xã hội phong kiến - trật tự mang tính phân biệt đẳng cấp, trên dưới, vì thế sản phẩm của nó là những thế hệ không thể vượt qua khuôn khổ chật hẹp và tầm nhìn hạn hẹp của xã hội phong kiến - một xã hội trói buộc con người ta trong những mối quan hệ đã được định sẵn.
Về phương pháp giáo dục: Nhìn chung, trong phương pháp giáo dục của Khổng Tử chứa đựng rất nhiều điểm tích cực và tiến bộ. Khổng Tử chủ trương dạy từ xa đến gần, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp theo hướng gợi mở để người học dễ tiếp thu và phát huy tính chuyên cần cũng như khả năng sáng tạo của mình. Qua đó mở rộng và đào sâu kiến thức cho người học. Phương pháp giáo dục đòi hỏi người thầy phải là một tấm gương sáng cho trò noi theo cả về đạo đức lẫn tài năng uyên bác.
Chú trọng khơi dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học thông qua phương pháp thảo luận, tranh luận giữa thầy và trò là ưu điểm nổi bật trong phương pháp dạy và học của Khổng Tử. Điểm tiến bộ tiếp theo trong phương pháp giáo dục của Khổng Tử là phương pháp phân lớp các đối tượng trong quá trình dạy học nhằm trang bị kiến thức phù hợp với khả năng của từng cá nhân để đạt được hiệu quả cao nhất. Khổng Tử còn đòi hỏi con người ta phải ôn cũ, biết mới, học những điển tích cũ trong lịch sử để thu thập kinh nghiệm, giải quyết những vấn đề trong hiện thực, chú trọng vận dụng những điều đã học vào trong cuộc sống, tức là học phải đi đôi với hành, học là để giúp nước, giúp dân. Vì lẽ đó, bên cạnh mục đích chủ yếu là đào tạo ra những con người lương thiện, lễ nghĩa, sống đúng với bổn phận của mình thì mục tiêu cao nhất mà Khổng Tử vươn tới là đào tạo lớp người quân tử có đủ đức, đủ tài ra giúp nước, cứu dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những quan điểm tích cực, phương pháp giáo dục của Khổng Tử bộc lộ nhiều hạn chế. Dễ thấy nhất là mặc dù đề ra chủ trương phát huy tính tích cực và khả năng sáng tạo của người học ông lại bó hẹp sự sáng tạo đó trong khuôn khổ có sẵn của nhà Chu.
Như vậy, xét về tổng thể, trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử chứa đựng cả những điểm tích cực lẫn những hạn chế. Những điểm tích cực cho chúng ta thấy dường như Khổng Tử đã vượt qua được những định kiến, khuôn khổ hà khắc của chế độ phong kiến đưa con người phát triển toàn thiện hơn, tự do hơn. Ngược lại, những điểm hạn chế cho thấy, ở một khía cạnh nào đó Khổng Tử cũng chỉ là một con người đang chịu ảnh hưởng của những định kiến và khuôn khổ khắc nghiệt đó. Tuy nhiên, những hạn chế đó không lu mờ được những giá trị mà ông mang lại. Có thể nói, với tất cả những giá trị đó, tư tưởng giáo dục của Khổng Tử xứng đáng là một tư tưởng giáo dục mẫu mực của xã hội Trung Quốc thời bấy giờ và nhiều tư tưởng của ông vẫn có giá trị trường tồn.
Chương 2
Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG KHỔNG TỬ VỀ GIÁO DỤC VỚI VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1.1. Quan điểm về con người mới của Đảng ta
Con người luôn là nhân tố quyết định đối với sự phát triển của bất cứ xã hội nào trong bất cứ thời đại nào. Chính vì thế, vấn đề xây dựng và phát triển con người luôn là vấn đề trung tâm của mỗi quốc gia. Nhất là trong mỗi bước phát triển của xã hội, việc định hình để xây dựng mẫu người mới phù hợp với xã hội mới luôn là vấn đề được ưu tiên hàng đầu. Đây là một yêu cầu khách quan của lịch sử. Thực tiễn cho thấy, mỗi giai đoạn lịch sử đều có những mẫu người nhất định làm trung tâm. Con người đó mang dấu ấn thời đại, phản ánh lập trường giai cấp cơ bản mà nó đại diện.
Trong xã hội phong kiến phương Đông, mẫu người “lý tưởng” mà xã hội hưởng tới xây dựng là những nhà nho, kẻ sĩ, bậc quân tử, trượng phu. Họ là những người theo đuổi lý tưởng của các thánh hiền, quảng bá "đạo", dẫn dắt mọi người sống và hành động theo "luân thường", nhằm mục đích duy trì, bảo vệ trật tự xã hội phong kiến. Xã hội tư bản lại xây dựng mẫu người trung tâm trên cơ sở tự do cá nhân. Trong xã hội đó, con người năng động hơn, biết chiếm lĩnh tri thức, chinh phục thế giới xung quanh mình hơn. Mỗi giai đoạn lịch sử đều hướng tới xây dựng mẫu hình con người có khả năng hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của giai đoạn mình. Điều này có ý nghĩa quyết định tới sự thành công hay thất bại của xã hội đó.
Ở nước ta cũng vậy, trong lịch sử hơn một ngàn năm phong kiến, mẫu người mà xã hội hướng tới xây dựng là nhà nho, kẻ sĩ. Đây là sản phẩm của tư tưởng nho giáo đã thống trị trong xã hội ta lúc bấy giờ. Tầng lớp người này đã có công rất lớn trong việc duy trì và phát triển xã hội phong kiến trong hơn một ngàn năm đó. Tuy nhiên, khi thời đại đã có những chuyển biến lớn, chủ nghĩa tư bản trở thành hiện thực ở châu Âu thì mẫu hình này tỏ ra không còn thích hợp. Nó không phản ánh được những bước chuyển biến lớn lao của thời đại. Sự thất bại của triều đình nhà Nguyễn trước sự tấn công của thực dân Pháp là tiếng chuông báo động sự bất lực của con người nho sĩ trước nhiệm vụ mới mà lịch sử giao phó.
Bước sang giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là công cuộc đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, việc tìm kiếm mẫu người mới phù hợp với điều kiện lịch sử là một yêu cầu cấp thiết. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” [68, tr 375]. Đồng chí Lê Duẩn cũng đã nói: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội không phải chỉ xây dựng một nền kinh tế mới, một xã hội mới mà còn xây dựng những con người mới xã hội chủ nghĩa, đem lại giá trị chân chính cho con người, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, trở thành chủ thể có ý thức trong sự sáng tạo lịch sử” [17, tr.119]. Chính vì vậy, việc xây dựng con người đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Các phẩm chất căn bản cần có ở con người Việt Nam trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá được Đảng ta chỉ ra ngày càng rõ nét, ngày càng trở nên phù hợp. Điều này thể hiện rõ trong các văn kiện đại hội cũng như trong các Hội nghị Trung ương bàn về mục tiêu giáo dục.
Ngay từ Đại hội IV, Đảng ta đã chỉ ra rằng: "Con người mới - con người làm chủ tập thể" [20, tr.64]; là con người có tư tưởng đúng và tình cảm đẹp, có tri thức, có thể lực để làm chủ xã hội, làm chủ tự nhiên, làm chủ bản thân. Trong đó, Đảng ta nhấn mạnh đến những đức tính như: có lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa nồng nàn kết hợp nhuần nhuyễn với tinh thần quốc tế vô sản trong sáng; có tình yêu thương sâu sắc đối với nhân dân lao động, biết đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ nhau trong lao động, chiến đấu và xây dựng cuộc sống tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người, lấy đó làm lý tưởng cao đẹp, làm hạnh phúc lớn của mình.
Tuy nhiên, con người mới mà chúng ta xây dựng trong thời kỳ này còn rất nhiều phiến diện. Chúng ta chỉ chú trọng tới yếu tố chính trị - xã hội ít chú ý tới các giá trị kinh tế - vật chất; chỉ đề cao con người tập thể mà quên mất con người cá nhân; chú trọng nhiều về mặt đạo đức mà quên mất mặt tài năng; say sưa với những giá trị truyền thống mà thiếu đi những giá trị hiện đại dẫn đến tư tưởng bảo thủ, chậm tiến,... Những hạn chế này đã tạo ra sự trì trệ, kìm hãm sự phát triển của xã hội, làm ảnh hưởng không nhỏ tới mục tiêu xây dựng con người mới.
Bước vào thời kỳ đổi mới, đứng trước yêu cầu phải đổi mới toàn diện đất nước, vấn đề xây dựng con người mới cũng trở nên cấp thiết. Các phẩm chất của con người mới cũng được Đảng ta làm rõ hơn. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII khẳng định: “Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, các đoàn thể, nhà trường, gia đình, từng tập thể lao động và tập thể dân cư trong việc chăm lo bồi dưỡng hình thành con người mới. Đó là con người có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ và lao động giỏi; sống có văn hoá và tình nghĩa; giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính” [30, tr.322-323]. Đến nghị quyết TW 4 khoá VII, đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười đã phác hoạ mô hình con người Việt Nam cần hướng tới. Đó là "con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội". Quan điểm này của Đảng tiếp tục được Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII khẳng định: xây dựng con người mới là con người có những phẩm chất:
Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung; Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái; Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội; Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực [23, tr. 58-59].
Như vậy về căn bản, con người Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH vẫn là con người phát triển toàn diện. Họ là người vừa có "đức" vừa có "tài", vừa "hồng" vừa "chuyên" như Bác Hồ đã từng nói. Ở họ khác xa với mẫu người đạo đức Nho giáo, khác với mẫu người tư sản, hướng tới con người tự do như Mác đề cập.
2.1.2
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- noi dung hoan chinh.doc