Suy nghĩ và hành động, đó là một thể thống nhất không thể tách rời trong Hồ Chí Minh. Với quan điểm kết hợp dân tộc và giai cấp như trên, Hồ Chí Minh đã quyết tâm giành, giữ và bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Quyết tâm ấy được thể hiện trong các lời kêu gọi của Hồ Chí Minh đối với toàn thể dân chúng Việt Nam. Có thể nói rằng các lời kêu gọi vang dậy sông núi của Hồ Chí Minh đã đóng vai trò là linh hồn và khí phách của dân tộc Việt Nam trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng tháng 8 và kháng chiến chống Pháp, Mỹ của nhân dân Việt Nam trong thế kỷ XX.
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2395 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp - dân tộc và vận dụng tư tưởng đó vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hủ lên các nước và các dân tộc chậm tiến, biến các nước và các dân tộc này trở thành thuộc địa. Việt Nam là một bộ phận của hệ thống thuộc địa của Pháp, do đó dưới con mắt của Hồ Chí Minh, mọi giai cấp tầng lớp trong xã hội Việt Nam đều có vai trò, vị trí thái độ chính trị khác nhau, quan hệ với chủ nghĩa đế quốc khác nhau, đóng vai trò khác nhau trong tiến trình lịch sử dân tộc.
Họ bị tấn công từ rất nhiều phía: Địa chủ, tư sản, đế quốc; bị đạp lên "đầu" lên "cổ" lên "mặt mũi" lên "tay" lên "chân" lên mọi chỗ trên "cơ thể" vốn đã "ốm yếu" và "tiều tuỵ" của họ.
Nông dân Việt Nam vô cùng tối tăm, dốt nát, khổ cực. Họ có 3 kẻ thù không đội trời chung. Cả về lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh cho rằng nông dân không thể lãnh đạo được cách mạng.
Thứ hai là giai cấp chủ:
Theo Hồ Chí Minh, về cơ bản đây là giai cấp phản động.Họ là rường cột của chế độ phong kiến. Khi Pháp và sau này là Mỹ xâm lược Việt Nam thì họ trở thành tay sai của đế quốc.
Thứ ba là tầng lớp tiểu tư sản.
Tầng lớp này có mầm mống trong xã hội phong kiến. Khi Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp, tiểu tư sản ngày càng phát triển nhanh về số lượng. Xét về mặt bị áp bức, thì theo Hồ Chí Minh, trí thức bị đế quốc áp bức, tiểu thương tiêu chủ vừa bị đế quốc, vừa bị phong kiến áp bức
Vì bị áp bức mà sinh ra cách mạng, nhưng mức độ áp bức của đế quốc và phong kiến đối với tiểu tư sản không nặng nề bằng nông dân. Do đó theo Hồ Chí Minh thì trong giai đoạn đầu của cách mạng, mặt cách mạng của tiểu tư sản được xem là "bầu bạn của cách mạng". Nhưng trải qua thời kỳ dài, tiểu tư sản được Hồ Chí Minh xem là "Động lực cách mạng" [35,tr.460].
Song đặc điểm của tiểu tư sản là "Tự tư tự lợi, rời rạc, kém kiên quyết…" do đó họ không thể lãnh đạo được cách mạng.
Thứ tư là giai cấp tư sản dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh giai cấp tư sản dân tộc có địa vị kinh tế xã hội yếu kém, bị đế quốc và phong kiến chèn ép.
Đó là mặt bị áp bức, mặt thứ nhất của giai cấp này. Đồng thời Hồ Chí Minh cũng thấy được mặt thứ hai của họ là mặt thỏa hiệp:
Tính chất hai mặt ấy của giai cấp tư sản dân tộc làm cho họ "vừa muốn cách mạng vừa muốn thỏa hiệp" [36,tr.215]. Đồng thời nó cũng làm cho giai cấp này không tạo ra được cho mình hệ tư tưởng riêng. Do đó họ cũng không thể lãnh đạo được cách mạng Việt Nam.Tuy nhiên mặt bị áp bức của họ làm cho họ trở thành lực lượng cách mạng khá quan trọng.
Thứ năm là giai cấp công nhân Việt Nam.
Công nhân Việt Nam theo Hồ Chí Minh là những người không có tư liệu sản xuất phải bán sức lao động mà sống. Bất kỳ họ lao động trong công nghệ hay trong nông nghiệp, bất kỳ họ làm nghề gì cũng đều thuộc về giai cấp công nhân.Chủ chốt của giai cấp này là những công nhân ở xí nghiệp, những công nhân thủ công nghệ, những người làm thuê ở các cửa hàng những cố nông….
Đời sống của công nhân Việt Nam luôn luôn chịu sự áp bức bóc lột từ nhiều phía khác nhau. Theo Hồ Chí Minh so với các giai cấp tầng lớp khác thì "công nhân bị áp bức nặng hơn" [31,tr.266] .
Như vậy trong kết cấu xã hội - giai cấp của Việt Nam và các mâu thuẫn vốn có của nó ,Hồ Chí Minh đã nhận ra rằng, Thứ nhất: các giai cấp công nhân, nông dân, Tiểu tư sản, tư sản dân tộc đều có kẻ thù chung là đế quốc và phong kiến. Thứ hai: Cả 4 giai cấp tầng lớp này đều là lực lượng cách mạng ở một mức độ nhất định. Do đó theo Hồ Chí Minh, cách mạng phải là sự nghiệp của toàn dân, tức là của nhân dân "Nhân dân là: Bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản và tư sản dân tộc" [36,tr.217]. Đồng thời qua phân tích như trên, chúng ta cũng đã nhận ra rằng, Hồ Chí Minh đã phủ nhận vai trò lãnh đạo cách mạng của nông dân, tiểu tư sản tư sản dân tộc và phong kiến. Vậy người lãnh đạo cách mạng Việt Nam chỉ có thể là giai cấp công nhân. Theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo được hay không là do đặc tính của giai cấp chứ không phải số lượng nhiều hay ít của giai cấp đó.
Trong bài "Thường thức chính trị" viết năm 1953, Hồ Chí Minh viết về đặc tính của giai cấp công nhân như sau:
"Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: Kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất…Giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là CNMLN. Đồng thời tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Vì vậy về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo" [36,tr.212].
Xem xét vai trò các giai cấp trong xã hội Việt Nam, lựa chọn ra giai cấp công nhân là tiến bộ nhất, xuất sắc nhất, đó là căn cứ để Hồ Chí Minh khẳng định: giai cấp công nhân là người lãnh đạo cách mạng.
2.1.4. Hồ Chí Minh Khẳng định và hiện thực hoá vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và giai cấp công nhân :
Lựa chọn con đường cách mạng vô sản theo CNMLN, Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng & giai cấp công nhân đối với xã hội và dân tộc Việt Nam. Đồng thời, người cũng tìm mọi cách để hiện thực hoá sự khẳng định ấy.
Trong tác phẩm "Đường cách mệnh" của mình, Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò đầu tàu lịch sử dân tộc của Đảng như sau:
"Cách mệnh trước hết phải có cái gì?
Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động & tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức & vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy" [31,tr.267-268]..
Nhận thức ra vai trò đầu tàu của Đảng trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nỗ lực truyền bá CNMLN vào Việt Nam, chuẩn bị các điều kiện tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng. Năm 1930, dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Sự ra đời và phát triển vững chắc của Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh là quá trình hiện thực hoá tư tưởng của Người về Đảng Cộng sản. Thắng lợi của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX có được là nhờ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Chính vì vậy mà nó cũng là thắng lợi của TTHCM.
2.1.5. Hồ Chí Minh xác Định vai trò, vị trí các giai cấp, tầng lớp nhân dân, kêu gọi toàn dân đoàn kết, thực hiện nhiệm vụ cách mạng:
Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân. Nếu tư tưởng ấy của Hồ Chí Minh được thể hiện trong chiến lược tập trung lực lượng cách mạng thì cụ thể hoá hơn nữa, chiến lược này lại được thể hiện trong việc định vị các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; trong việc kêu gọi toàn dân đoàn kết, thực hiện nhiệm vụ cách mạng của Hồ Chí Minh.
Năm 1927, trong tác phẩm "Đường cách mệnh"của mình, Hồ Chí Minh định vị các tầng lớp nhân dân trong cách mạng như sau:
"Công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông, ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mạng của công nông thôi" [31,tr.266].
Như vậy vị trí các giai cấp tầng lớp trong xã hội theo cách nhìn của Hồ Chí Minh là do ách áp bức của đế quốc và phong kiến quy định. Khi ách áp bức thay đổi thì vai trò, vị trí các giai cấp cũng phải định vị lại cho sát đúng với tình hình. Có lẽ qua thực tiễn của cách mạng mà thái độ chính trị các giai cấp thay đổi. Do đó Hồ Chí Minh đã định vị chính xác hơn trước về các giai cấp vào năm 1953, trong bài "Thường trực chính trị" như sau:
"Theo tính chất cách mạng mỗi nước mà xác định động lực cách mạng gồm những giai cấp nào. Tính chất cách mạng của ta là cách mạng dân chủ mới cho nên động lực cách mạng gồm có những giai cấp: công nhân, nông dân, tiểu tư sản.
Trong một thời kỳ và một trình độ nhất định, giai cấp tư sản dân tộc cũng là động lực cách mạng.
Nếu việc phân loại thái độ chính trị của khối cộng đồng nhân dân trong cách mạng giải phóng dân tộc có ý nghĩa to lớn cho việc tập trung lực lượng đánh đế quốc thì việc phân loại ấy về họ trong công cuộc xây dựng đất nước càng có ý nghĩa lớn hơn và khó khăn hơn nhiều. Bởi vì, cách mạng là sự nghiệp của toàn dân, không chỉ là trong cách mạng giải phóng dân tộc mà còn trong công cuộc xây dựng kinh tế. Cho nên việc phân loại ấy càng làm cho mặt trận dân tộc thống nhất ngày càng bền vững và được rộng mở:
"Chúng ta đang tiến lên một nền kinh tế XHCN. Đi đôi với những thắng lợi ấy, quan hệ giai cấp trong xã hội Miền Bắc đã thay đổi. Giai cấp địa chủ phong kiến đã bị đánh đổ. Giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh và tăng cường lãnh đạo đối với nhà nước. Giai cấp nông dân đang đi vào con đường hợp tác hoá. Liên minh công nông ngày càng được thắt chặt. Những người trí thức cách mạng đang góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng nước nhà. Các nhà tư sản dân tộc nói chung đều tiếp thu cải tạo XHCN. Các tầng lớp nhân dân đoàn kết chặt chẽ trong mặt trận dân tộc thống nhất" [38,tr.584].
Việc định vị như thế về vai trò, vị trí của từng giai cấp tầng lớp là cách nhìn cụ thể, nhìn cái bộ phận của Hồ Chí Minh về cộng đồng nhân dân. Trên cơ sở của quan điểm ấy, Người đã khái quát thành lực lượng cách mạng XHCN như sau:
"Ai xây dựng CNXH? nói chung là những người lao động trong xã hội gồm công nhân, nông dân, trí thức cách mạng, … nhưng lực lượng chủ chốt xây dựng CNXH là công nhân" [41,tr.564].
Định vị các giai cấp, tầng lớp nhân dân là quá trình xác định bạn bè loại 1, loại 2, loại 3 … của cách mạng. Đi đôi với quá trình này, trong mỗi bước ngoặt của lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh đều ra sức kêu gọi toàn dân đoàn kết, thực hiện nhiệm vụ cách mạng:.
Hỡi đồng bào!.
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu tổ quốc" [33,tr.480]. "Vì độc lập của tổ quốc, vì nghĩa vụ đối với các dân tộc đang chống đế quốc Mỹ, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng không sợ hy sinh gian khổ, kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn" [41,tr.109].
Song mỗi tầng lớp nhân dân đều có những vai trò, sở trường nhất định trong từng lĩnh vực. Do đó theo Hồ Chí Minh, toàn dân cách mạng ắt phải toàn diện cách mạng. Người kêu gọi:
"Sự nghiệp cách mạng là một sự nghiệp lâu dài và gian khổ, song nhất định thắng lợi. Mọi người chúng ta, bất kỳ ai làm việc gì, ở cương vị nào, đều phải là những chiến sĩ dũng cảm của sự nghiệp vẻ vang ấy" [40,tr.234]. "Bất kỳ giàu nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa. Thực hiện khẩu hiệu:
Toàn dân kháng chiến
Toàn diện kháng chiến" [34,tr.444].
Chỉ có thể toàn diện kháng chiến, toàn diện làm cách mạng mới có thể phát huy được sức mạnh của toàn dân. Toàn dân & toàn diện là 2 cách nhìn về một vấn đề. Toàn dân là nhìn nhận dân tộc theo cơ cấu dân cư. Toàn diện là nhìn nhận theo cơ cấu nghề nghiệp của cộng đồng dân cư ấy.
Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân! quan điểm đó của Hồ Chí Minh là sự phản ánh sáng tạo xu thế vận động của dân tộc. Nó được thể hiện không chỉ qua các lời kêu gọi của Hồ Chí Minh mà còn qua thực tiễn cách mạng. Trong mỗi bước đi của lịch sử, nếu hiện thực cách mạng Việt Nam vận động rời rạc, không mang tính thống nhất trên toàn quốc, nhất là vào những bước ngoặt vĩ đại thì Hồ Chí Minh đều quyết định uốn nắn. Đặc biệt là cuối năm 1944, Ban liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng quyết định khởi nghĩa bộ phận thì ngay lập tức đã bị Hồ Chí Minh chặn đứng.
Cho đến tháng tám 1945, khi mà "cả dân tộc ta từ Bắc chí Nam đã vùng dậy với một sức mạnh như triều dâng, thác đổ" [18,tr.138], thì Hồ Chí Minh mới thấy được hiện thực của tư tưởng mình. Người quyết định: "Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải dành cho được độc lập".
Như vậy, cách mạng tháng tám 1945 là sự vùng dậy của cả một dân tộc. Trong những ngày cách mạng thắng lợi chúng ta nghe thấy âm hưởng của LCLN, âm hưởng của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam truyền thống đang thức dậy với sắc thái mới. Với thắng lợi của cách mạng, các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam được chưng cất qua mấy nghìn năm lịch sử đã được trưng bày, được phô diễn. Cách mạng thực sự là cuộc trường chinh từ quá khứ đến hiện tại của dân tộc Việt Nam. Và người có vai trò lớn trong cuộc trường chinh này là Hồ Chí Minh.
2.2. ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - CON ĐƯỜNG GIẢI QUYẾT TRIỆT ĐỂ GIAI CẤP VÀ DÂN TỘC:
2.2.1. Độc lập dân tộc là điều kiện hàng đầu để giải phóng giai cấp:
"Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được" [23,tr.335].
Hội nghị Trung ương tám tháng 5 năm 1941 của Đảng cộng sản Đông Dương, do Hồ Chí Minh chủ trì, đã nhận định như vậy
Nhận định nêu trên thể hiện một tư tưởng điển hình vào một hoàn cảnh điển hình của một nhân vật lịch sử điển hình: Hồ Chí Minh!
Tư tưởng điển hình này là việc chia nhiệm vụ cách mạng thành nhiều thời điểm khác nhau. Trong mỗi thời điểm có một nhiệm vụ cấp bách, nổi bật lên hàng đầu. Đối với Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc, việc giành độc lập cho dân tộc cho toàn thể mọi giai cấp tầng lớp trong xã hội là nhiêm vụ hàng đầu. Vì "trong lúc này" mâu thuẫn giữa toàn thể các dân tộc Đông Dương, không phân biệt giai cấp, tầng lớp với chủ nghĩa đế quốc đang trở lên vô cùng quyết liệt không lúc nào bằng.
Như vậy theo Hồ Chí Minh tinh thần dân tộc của người Đông Dương rất cao là do mâu thuẫn giữa dân tộc Đông Dương với chủ nghĩa thực dân gây nên. Mâu thuẫn này ở Đông Dương chỉ là một bộ phận của mâu thuẫn chung giữa chủ nghĩa thực dân với các thuộc địa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Từ nhận thức như vậy, Hồ Chí Minh đã rút ra được QHGC-DT của cách mạng thuộc địa. Theo người, đối với các nước thuộc địa thì vấn đề dân tộc là ưu tiên hàng đầu còn vấn đề giai cấp thì phải giải quyết lâu dài. Người viết:
"Dân tộc cách mệnh thì chưa phân chia giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công thương đều đều nhất trí chống lại cường quyền" [30,tr.266].
Đó là sự khái quát mang tính quy luật của cách mạng thuộc địa của Hồ Chí Minh. Quy luật ấy hình thành là do mâu thuẫn cơ bản của thời đại đế quốc chủ nghĩa sinh ra
Nhận định của Hội nghị Trung ương tám diễn ra vào một hoàn cảnh điển hình, phản ánh các mâu thuuẫn của Đông Dương đã đạt đến mức độ điển hình. Cho nên nó không những đã khái quát sự phát triển của các mâu thuẫn của Đông Dương trong quá khứ mà còn phản ánh các mâu thuẫn của Đông Dương trong tương lai!
Ngoài mặt phản ánh mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn thư yếu của kết cấu xã hội – giai cấp Đông Dương hiện tại, TTHCM coi ĐLDT là điều kiện hàng đầu để giải phong giai cấp, còn là sự tiếp nối của QHGC-DT của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam truyền thống.Nếu dân tộc và giai cấp là hai yếu tố song sinh thì trong mọi giai đoạn của lịch sử, vấn đề dân tộc bao giờ cũng là "gen" trội.
Như vậy trong TTHCM, ĐLDT là yếu tố nổi trội, hàng đầu để mở đường giải phóng giai cấp. Điều đó không thể chối cãi.
Chủ nghĩa dân tộc, việc đặt độc lập lên hàng đầu, trên yếu tố giai cấp của Hồ Chí Minh cũng được UNESCO thừa nhận:
"Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam" [51,tr.5].
Suy nghĩ và hành động, đó là một thể thống nhất không thể tách rời trong Hồ Chí Minh. Với quan điểm kết hợp dân tộc và giai cấp như trên, Hồ Chí Minh đã quyết tâm giành, giữ và bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Quyết tâm ấy được thể hiện trong các lời kêu gọi của Hồ Chí Minh đối với toàn thể dân chúng Việt Nam. Có thể nói rằng các lời kêu gọi vang dậy sông núi của Hồ Chí Minh đã đóng vai trò là linh hồn và khí phách của dân tộc Việt Nam trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng tháng 8 và kháng chiến chống Pháp, Mỹ của nhân dân Việt Nam trong thế kỷ XX.
ĐLDT là điều kiện hàng đầu để giải phóng giai cấp, nhưng sau khi đã có độc lập rồi thì giai cấp sẽ được giải phóng bằng thể chế chính trị nào? TBCN hay XHCN? Theo Hồ Chí Minh ĐLDT phải gắn với CNXH thì mới giải phóng được hoàn toàn giai cấp công nhân & nhân dân lao động
2.2.2. Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội - con đường giải quyết triệt để giai cấp và dân tộc:
ĐLDT gắn liền với CNXH là thành quả tư tưởng của công cuộc "đãi cát tìm vàng"của Hồ Chí Minh trong cuộc đời của Người.
ĐLDT gắn liền với CNXH là chiến lược xuyên suốt của TTHCM, được thể hiện trong mọi giai đoạn của cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay. Ngay trong "Chính cương vắn tắt" năm 1930, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ chiến lược ấy như sau:
"Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội công sản" .
Cụ thể hoá một bước chiến lược trên, trong "thường thức chính trị"(1953), Hồ Chí Minh viết:
"Tính chất thuộc địa và phong kiến của xã hội cũ Việt Nam khiến cách mạng Việt Nam phải chia làm hai bước. Bước thứ nhất là đánh đổ đế quốc, đánh đổ phong kiến, thực hiện người cày có ruộng, xây dựng chính trị và kinh tế dân chủ mới... Bước thứ hai là tiến lên CNXH, tức là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản" [36,tr.209-210].
Qua mọi giai đoạn lịch sử, khi chiến lược ấy cuả Hồ Chí Minh được tung ra cho toàn thể dân chúng Việt Nam được biết thì QHGC-DT ở Việt Nam trong các giai đoạn này sẽ được giải quyết đạt hiệu quả tối ưu. Bởi vì chiến lược ấy nếu tung ra khi Việt Nam chưa giành được độc lập thì nó vừa đáp ứng nhu cầu nguyện vọng trước mắt của toàn dân, vừa đáp ứng nhu cầu nguyện vọng lâu dài của họ, do đó đã thu hút được tất cả họ đi theo, tạo ra lực lượng vô cùng to lớn cho cách mạng. Khi đó quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân và Đảng cộng sản cũng được khẳng định trên thực tế và ngày càng được tăng cường củng cố chắc hơn. Tức là nhân dân, toàn dân được giải phóng đến đâu thì công nhân và Đảng cũng được giải phóng đến đó. QHGC-DT sẽ luôn hài hoà xoắn xít bên nhau.Còn nếu chiến lược ấy được tung ra khi Việt Nam đã giành được độc lập thì một mặt nó vừa bảo đảm nắm giữ thật chắc nền độc lập đã giành được; mặt khác nó vừa đáp ứng nguyện vọng trước mắt và đáp ứng nguyện vọng lâu dài của cách mạng. Chính vì thế quyền lợi của toàn dân, tức là của cả dân tộc được giải quyết. Do đó mà lợi ích và vai trò của giai cấp công nhân và Đảng cộng sản ngày càng được khẳng định cao hơn, chắc hơn.
Theo quy luật của lịch sử, con người, nhân dân của các dân tộc đều hướng tới độc lập, tự do. Nhưng trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, nhu cầu của con người đều bị giới hạn bởi những điều kiện mà họ đang sống. Vì thế một cộng đồng dân tộc, xã hội chỉ có thể thực hiện được nhu cầu đời sống của họ ở một thời điểm nào đó với những điều kiện có sẵn, đã cho phép. TTHCM, gắn ĐLDT với CNXH có thể nói là một hàm số liên tục, đa biến. Trong hàm số này, những sự kiện lịch sử ở Việt Nam, ở khu vực và thế giới diễn ra vào thời điểm nào đó là những biến số. Còn những giá trị vật chất, tinh thần,... mà nhân dân Việt Nam đạt được cũng trong thời điểm này là hàm số. Quá trình Việt Nam đã lên CNXH theo Hồ Chí Minh có thể nói được phán ánh, ghi nhận trong hàm số ấy.
Có thể nói rằng từ ngày độc lập (1945) trở về sau, tính chất và giá trị của nền độc lập Việt Nam được thay đổi nhiều, giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước. Tương ứng với tính chất và giá trị của nền ĐLDT thì QHGC-DT cũng được giải quyết tốt hơn của giai đoạn sau so với giai đoạn trước. Tính chất và giá trị ấy của nền ĐLDT trong một thời điềm được coi như những lát cắt của Lịch sử Việt Nam. Đó chính là sự thể nghiệm cụ thể của TTHCM, gắn liền ĐLDT với CNXH.
Khi cách mạng giải phóng dân tộc phát triển thành cách mạng XHCN thì những thành quả mà nhân dân lao động đã giành được trong cách mạng giải phóng dân tộc (độc lập về chính trị... ruộng đất cho nông dân) sẽ tiếp tục được phát huy, đồng thời quyền lợi và vai trò của giai cấp công nhân sẽ tiếp tục được nâng cao.
Chính vì thế có thể nói rằng ĐLDT gắn liền với CNXH hoặc cách mạng giải phóng dân tộc phát triển thành cách mạng XHCN là con đường giải quyết triệt để QHGC-DT.
2.2.3. Chủ nghĩa xã hội - điều kiện bảo đảm độc lập thực sự ,hoàn toàn:
Trong mục (2.2.2), nếu ĐLDT gắn liền với CNXH được xem xét như một "phong trào hiện thực", được xem xét ở dạng thể nghiệm của nó trong thực tiễn, được xem xét từ nguồn gốc hình thành của nó trong TTHCM thì ở mục (2.2.3) này nó lại được xem xét ở dạng lý thuyết, được xem xét như một hình thái kinh tế xã hội và sự thể nghiệm của nó ở Miền Bắc Việt Nam. ở phần này, CNXH trong TTHCM được xem xét về lý luận và thực tiễn như một điều kiện đảm bảo ĐLDT thực sự, hoàn toàn.
Độc lập hoàn toàn trong TTHCM có nghĩa là phải độc lập về chính trị, độc lập về kinh tế, độc lập về ngoại giao... độc lập về chính trị đòi hỏi phải được bảo đảm về chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia, có chính quyền riêng, quân đội riêng và độc lập tự chủ trong quan hệ quốc tế. Độc lập về kinh tế đòi hỏi phải có đường lối chính sách kinh tế riêng, không phụ thuộc về kinh tế đối với bất cứ một quốc gia hay tổ chức quốc tế nào cả. Tóm lại độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn trong TTHCM có nghĩa là nhân dân phải tự làm chủ cuộc sống của mình, phải tự quản lý lấy đất nước mình, phải có quyền tự quyết. Nhưng làm thế nào để có được như vậy?
Hồ Chí Minh cũng cho rằng Việt Nam sẽ được độc lập hoàn toàn, độc lập thực sự khi dựa vào CNXH. Người viết:
"Chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ" [39,tr.126].
Lòng tin của Hồ Chí Minh vào CNXH đã được ông Jonh lê văn hoá viết như sau:
"Cụ hoàn toàn tin vào tính độc nhất vô nhị của chủ nghĩa này trong việc giúp Việt Nam giành lại độc lập" [23,tr.239].
Hồ Chí Minh tin tưởng như vậy là dựa trên những nét tương đồng giữa CNXH với văn hoá và truyền thống Việt Nam.
Niềm tin ấy của Hồ Chí Minh là niềm tin trí tuệ, có tính chất duy lý. Khi nước nhà giành được độc lập hoàn toàn, độc lập thực sự thì QHGC-DT cũng được giải quyết triệt để.
Với niềm tin tuyệt đối về học thuyết CNXH như vậy về mặt lý thuyết, Hồ Chí Minh nghĩ rằng cần phải có một hình thức CNXH phù hợp với trình độ dân trí của nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) còn đang thấp kém. Hình thức ấy vừa phản ánh được nguyện vọng về đời sống hằng ngày, trực tiếp trước mắt của dân, vừa là điều kiện, vừa là môi trường bảo đảm cho nhân dân Việt Nam tiếp tục duy trì và phát triển những giá trị tinh thần truyền thống của họ. Tóm lại là hình thức của CNXH phải làm thế nào để ĐLDT phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Có lẽ xuất phát từ suy nghĩ như thế mà Hồ Chí Minh có những quan niệm về CNXH, về hình thức của CNXH hết sức ngắn gọn, đơn giản khi người đối diện với dân:
Hình thức của CNXH trong TTHCM với tư cách như một học thuyết cách mạng đã bảo đảm cho Việt Nam giành độc năm 1945 và kháng chiến chống quân xâm lược Pháp thành công năm 1954. Nhưng sau 1954, Việt Nam vẫn chưa giành được độc lập hoàn toàn. Miền Bắc đã được giải phóng, nhưng Miền Nam còn bị đế quốc Mỹ xâm lược. Vấn đề đặt ra tiếp theo cho cách mạng Việt Nam là Miền Bắc cần phải thực hiện quyền dân tộc tự quyết của mình theo chế độ chính trị nào? TBCN hay XHCN? theo Hồ Chí Minh, Miền Bắc phải đi lên CNXH trong khi đó Miền Nam vẫn tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Chỉ có chế độ XHCN hiện thực ở Miền Bắc mới có thể đủ điều kiện cho Miền Nam thực hiện tốt nhất cuộc cách mạng giải phóng, tiến tới hoà bình, thống nhất đất nước thực sự.
Cách mạng XHCN ở Miền Bắc theo Hồ Chí Minh là "cơ sở" cho sự nghiệp giải phóng Miền Nam, thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
* *
Kể từ khi âm hưởng EURÊKAII vang lên, Hồ Chí Minh đã quyết định lựa chọn con đường cách mạng cho dân tộc mình. Đó là con đường cách mạng vô sản. Với việc lựa chọn con đường này, QHGC-DT đã được xác lập ở Việt Nam về lý luận. Nội dung cơ bản của quan hệ này là quyền lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân đối với toàn thể nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; tính chất của dân tộc Việt Nam sau khi giành được độc lập sẽ là XHCN.
Sự lựa chọn của Hồ Chí Minh cũng là sự lựa chọn của lịch sử, văn hoá và truyền thống lâu đời của Việt Nam. Với CNXH của Hồ Chí Minh, các truyền thống của Việt Nam đã được hiện đai hoá, đã được sống lại và bừng tỉnh trong thời đại cách mạng vô sản. Với một niềm tin có tính chất duy lý vào sự lựa chọn của mình, Hồ Chí Minh đã nỗ lực xác lập sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong phong trào dân tộc ở Việt Nam. Tin tưởng vào sức mạnh của truyền thống, Hồ Chí Minh trong các giai đoạn phát triển của cách mạng đã làm nổi bật yếu tố dân tộc trong quan hệ với yếu tố giai cấp. Trên thực tế người đã thành công trong các nỗ lực và các mục tiêu chính trị của mình. Với thành công này quyền tự quyết của nhân dân và dân tộc Việt Nam được thực hiện. Quyền này được thực hiện đến mức độ nào thì QHGC-DT ở Việt Nam được kết hợp hài hoà đến mức độ ấy.
Hiện nay, con đường mà Việt Nam thực hiện đổi mới là sự phát triển của lý luận QHGC-DT của Hồ Chí Minh trước đây.Việc nghiên cứu thực trạng của QHGC –DT ở Việt Nam thời gian qua để từ đó xây dựng phương hướng vận dụng tốt hơn nữaTTHCM về QHGC–DT đang là vấn đề cấp bách. Ta hãy đi vào chương 3 để giải quyết vấn đề này.
Chương 3
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN HỆ GIAI CẤP -
DÂN TỘC VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TC104.DOC