MỞ ĐẦU . 1
1. Lý do chọn đề tài . 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. 3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ đề tài . 5
4. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu. 5
5. Đóng góp của luận văn. 6
6. Bố cục của luận văn. 6
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN LỤC NGẠN . 7
1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên. 7
1.2. Lịch sử hành chính huyện Lục Ngạn . 9
1.3. Điều kiện xã hội . 11
1.4. Vài nét về tộc người Sán Dìu ở huyện Lục Ngạn . 13
Chương 2: TỤC CẤP SẮC CỦA TỘC NGƯỜI SÁN DÌU Ở HUYỆN LỤC
NGẠN. 31
2.1. Khái quát về tục cấp sắc . 31
2.2. Một số quy định trong tục cấp sắc. 38
2.3. Việc chuẩn bị cho lễ cấp sắc . 42
2.4. Tiến trình lễ cấp sắc. 49
105 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/02/2022 | Lượt xem: 399 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tục cấp sắc của tộc người sán dìu ở Lục Ngạn (Bắc Giang), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i gian hành lễ 1 ngày 1 đêm 2 ngày 1 đêm
1 ngày hoặc 1
đêm
Địa điểm tổ chức
Tại nhà người thụ
lễ
Tại nhà người thụ
lễ
Tại nhà người thụ
lễ
Dụng cụ được cấp
trong lễ cấp sắc
1 ấn Thái thượng
lão quân, 1 ấn phật,
một pho tượng
thích ca, một con
rồng gỗ, hai vỏ hến
xin âm dương
1 ấn gỗ khắc pháp
danh, 1 lệnh bài, cờ
lệnh.
1 ấn gỗ khắc pháp
danh.
Quyền lực tôn
giáo của thầy
cúng
Phép thuật còn ít,
chưa đủ làm các
nghi lễ phức tạp,
chủ yếu cúng cho
gia đình
Có khả năng tiến
hành một số nghi
lễ phức tạp cho
cộng đồng như: kỳ
yên, làm lễ cấp sắc
chức Pháp sư cho
người khác
Quyền lực mạnh,
có thể làm được
tất cả các nghi lễ
quan trọng
47
2.2. Một số quy định trong tục cấp sắc
2.2.1. Quy định đối với người được cấp sắc
Về giới tính, do gia đình người Sán Dìu là gia đình phụ quyền, người
con trai có trách nhiệm điều hành mọi công việc trong gia đình. Tư tưởng
trọng nam khinh nữ vẫn còn phổ biến, người phụ nữ Sán Dìu trước đây
thường không được học hành, không được tham gia các hoạt động mang tính
linh thiêng như cúng bái, tế lễ, mà những hoạt động này đều do người đàn ông
đảm nhiệm. Vì vậy, người ta không làm lễ cấp sắc cho phụ nữ mà chỉ cấp sắc
cho nam giới. Có một số trường hợp phụ nữ cũng được làm lễ cấp sắc, nhưng
đó phải là vợ của những thầy đã được cấp sắc chức Chức sư, Thứ gia Tổng
xuyến hoặc những người phụ nữ không có con. Theo quan niệm của đồng
bào, người phụ nữ được cấp sắc nhằm mục đích khi chết không phải phá
ngục, các con không phải ăn huyết mẹ, linh hồn không phải qua 18 ngục mà
được đi trên cầu, được phong tước "tương nữ", làm quan ở Thiên Đình; linh
hồn vợ chồng luôn ở bên nhau và được thần thánh công nhận. Những người
phụ nữ không có con có nhu cầu được cấp sắc để sống nhờ lộc thánh. Thông
thường, người chồng tự cấp sắc cho vợ mình, lễ cấp sắc cho người vợ chỉ
mang tính hình thức nhưng vẫn có đầy đủ các thủ tục nghi lễ. Sau khi được
cấp sắc, người phụ nữ có cấp bậc ngang người chồng và cũng có thể đi cúng
cho mọi người. Nhưng do đa số họ không biết chữ Hán và không thông thuộc
các nghi lễ nên họ thường không hành nghề.
Đối với đa số các ngành Dao, chỉ người con trai nào đã được cấp sắc
mới được coi là thành viên chính thức trong cộng đồng, mới được tham gia
vào những công việc quan trọng của cộng đồng và được mọi người tôn trọng.
Vì vậy, việc làm lễ cấp sắc như là điều kiện bắt buộc đối với họ. Ngược lại,
đối với người Sán Dìu ở Lục Ngạn hiện nay, việc làm lễ cấp sắc xuất phát từ
sở thích của mỗi người và được cả dòng họ khuyến khích. Hiện nay, đa số
48
thanh niên Sán Dìu ở Lục Ngạn không được cấp sắc, nhưng không vì thế mà
họ bị cộng đồng khinh rẻ. Họ vẫn là thành viên của cộng đồng, vẫn tham gia
các hoạt động chung của cộng đồng. Sự tôn trọng của mọi người trong cộng
đồng dành cho họ phụ thuộc vào tài năng, đức độ của họ chứ không căn cứ
vào họ có được cấp sắc hay không. Như vậy, việc làm lễ cấp sắc không phải
việc làm bắt buộc đối với mọi người con trai Sán Dìu ở Lục Ngạn.
Về độ tuổi, trong tục cấp sắc của người Sán Dìu, không có sự qui định
chặt chẽ về tuổi tác. Đối với cấp Pháp sư, từ tuổi 13, 14 người con trai đã có
thể được làm lễ cấp sắc. Từ cấp Chức sư trở lên, phải là người đã lập gia đình.
Riêng cấp Thứ gia Tổng xuyến, người được cấp sắc phải là những người đã
trên 50 tuổi. Mặc dù việc làm lễ cấp sắc cho người con trai Sán Dìu không
quy định cụ thể về tuổi tác cho từng bậc, nhưng những người trẻ quá cũng
không thể được cấp sắc. Khác với người Dao ở một số nơi, cấp sắc cho cả
những người con trai chưa đến 10 tuổi, với người Sán Dìu ở Lục Ngạn chưa
có trường hợp nào như vậy. Theo đồng bào, những người trẻ quá chưa đủ thời
gian để học chữ Hán, chưa có thực tiễn đi theo thầy để học các lễ nghi, thủ tục
cần thiết, họ cũng chưa đủ sự chín chắn để có thể trở thành một người thầy
cúng thực thụ.
Về trình độ học vấn và đạo đức, đối với người Sán Dìu, để được cấp
sắc, điều kiện bắt buộc là phải biết đọc và viết chữ Hán. Để biết được chữ
Hán, người học phải đến đăng kí theo thầy để học. Quá trình học chữ cũng
đồng thời là quá trình học kiến thức. Theo người Sán Dìu, thầy cúng còn là
thầy dạy học (thầy dạy chữ), thầy thuốc. Do đó, để trở thành người thầy cúng
thực sự, người thầy phải thông thạo nhiều lĩnh vực. Họ học bằng cách đọc
thuộc lòng các sách và tập viết lại những chữ trong sách đó. Ban đầu, họ học
các sách như: Sơ khai cửu kinh thư, thượng bản học cầu tự, Vũ Nhi cộng
đồng thiềm Thừ vương Đây là các sách viết ở thể bốn chữ, năm chữ dễ đọc,
49
dễ thuộc. Sau đó, họ nâng dần lên học các sách khó hơn như sách bảy chữ,
văn xuôi. Nội dung các sách rất phong phú: sách dạy luân thường đạo lý, sách
nói về nguồn gốc người Sán Dìu, các loại sách cúng (kỳ yên, cúng đám ma,
cúng tạ mộ), sách xem tướng số, xem ngày, xem tuổi, sách xem nhà cửa,
sách chữa bệnh (từng loại bệnh cho từng lứa tuổi), sách dạy tiến hành một lễ
cấp sắc, sách dạy viết các sớ điệp, bảo cáo trong lễ cấp sắc (xem ảnh 1)
Người học có thể học mọi lúc, mọi nơi, chủ yếu là đi theo thầy để cúng cho
các đám ma, viết sớ cho lễ kỳ yên, lễ cấp sắc Trong quá trình đó, họ vừa
đọc các bài cúng, viết những chữ mình đã học và trau dồi thêm những kiến
thức mới.
Sau một quá trình học, khoảng từ 5 đến 7 năm, người học đã biết đọc,
biết viết và thuần thục một số nghi lễ cúng bái thì được làm lễ cấp sắc Pháp
sư. Sau lần cấp sắc thứ nhất, họ vẫn tiếp tục phải học đọc, học viết theo các
sách khó hơn và đi theo thầy cấp cao hơn để học cách tổ chức các nghi lễ
cúng bái, cho thêm thuần thục. Để được cấp sắc chức Chức sư và Thứ gia
Tổng xuyến, họ cần có thời gian học rất lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì, siêng
năng. Do đó, nhiều người học đến già nhưng vẫn chưa đủ khả năng để được
cấp sắc lần hai, lần ba.
Ngoài những hiểu biết như trên, người được cấp sắc còn phải là người
đức độ, nhân hậu, hiền lành, được mọi người yêu quý và tôn trọng. Gia đình
những người này phải là gia đình nề nếp, gia phong, sống có uy tín trong cộng
đồng. Thường những người muốn học nghề thầy cúng và tiến tới phong chức
cấp sắc đều là những người có đời ông, cha đã làm thầy cúng hoặc trong dòng
họ có người làm nghề thầy cúng (nghề thầy cúng ở người Sán Dìu là nghề
mang tính gia truyền). Về mặt tâm linh, những người muốn theo nghề phải có
niềm tin vào đấng Ngọc Hoàng, thần linh, tin vào sức mạnh siêu nhiên, thần
thánh; họ phải tin vào lời dạy của thầy, vào phép thuật của chính mình và vào
các loại sách cúng.
50
Kiêng kỵ, những người được cấp sắc phải tuân theo nhiều quy định về
kiêng kỵ, những quy định này cũng có sự khác nhau giữ các cấp bậc. Những
người được cấp sắc không được dùng phép thuật làm hại người khác, không
được lấy nhiều vợ; thấy người bị hại phải tìm mọi cách để giúp đỡ cho dù khó
khăn đến mấy; không được ăn thịt chó, rùa, ba ba, tê tê, hổ, rắn; không
được sát sinh, không săn bắn chim muông, thú rừng, không đơm đó, chài
lưới Khi gặp người bẫy được chim, thú, đơm cá phải mua lại những con vật
đó rồi thả ra. Khi thấy đơm đó, lờ, phải nhấc lên đặt ngược lại. Ngoài ra,
những người được cấp sắc còn phải hạn chế quan hệ vợ chồng.
2.2.2. Quy định về trình tự phong chức cấp sắc
Lễ cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn tuân thủ nghiêm ngặt theo
trình tự từ thấp tới cao, với 3 bậc: Pháp sư, Chức sư, Thứ gia Tổng xuyến.
Muốn được làm lễ cấp sắc thì trước tiên phải trải qua lễ Đại phan, đây là điều
kiện bắt buộc đối với những người muốn được cấp sắc. Việc thăng chức phải
theo trình tự: Pháp sư Chức sư Thứ gia Tổng xuyến, tuyệt đối không
được làm lễ cấp sắc vượt cấp.
Trong tục cấp sắc của người Sán Dìu Lục Ngạn quy định: những người
cùng cấp không được cấp sắc cho nhau. Người cấp sắc phải ở cấp cao hơn
người muốn được cấp sắc và những người này phải cùng một thầy tổ.
Trong một buổi lễ cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn, chỉ tiến hành
làm lễ cho một người, không tiến hành cho nhiều người cùng một lúc, cũng
không tiến hành kết hợp làm lễ cấp sắc nhiều bậc. Tuy nhiên, hiện nay do
điều kiện kinh tế, lễ cấp sắc Pháp sư có thể tiến hành cho một số người trong
một lần, riêng lễ cấp sắc Chức sư và Thứ gia Tổng xuyến thì vẫn chỉ tiến hành
cho một người một lần.
Về trình tự, tục cấp sắc của người Sán Dìu có một số điểm khác với
người Dao. Đối với người Dao, anh làm lễ cấp sắc trước rồi mới đến em. Nếu
51
gia đình có người chết mà chưa được cấp sắc thì con cháu phải làm lễ cấp sắc
cho người chết rồi mới làm lễ cho những người sống, thậm chí ở một số nơi
còn làm lễ thăng chức cho người quá cố. Đối với người Sán Dìu ở Lục Ngạn
thì không cần tuân theo những quy định như vậy, người ta không làm lễ cho
người chết và cũng không bắt buộc phải làm lễ cấp sắc theo trình tự từ anh rồi
mới đến em. Việc làm lễ cấp sắc là nhu cầu cá nhân của từng người, trong
mỗi gia đình, thậm chí cả một dòng họ chỉ cần một người được cấp sắc, người
này sẽ đảm nhiệm công việc cúng bái cho cả dòng họ.
2.3. Việc chuẩn bị cho lễ cấp sắc
Để tổ chức lễ cấp sắc đúng theo phong tục truyền thống, cần thời gian
chuẩn bị lâu dài và tốn kém. Thời gian chuẩn bị dài hay ngắn phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế của gia đình và từng bậc cấp sắc. Ngoài chi phí để may quần
áo, thuê vẽ tranh, mua mực, giấy, dầu, nhạc cụ, tiền công cho các thầy... gia
đình người xin cấp sắc còn phải chuẩn bị đầy đủ lương thực, thực phẩm cho
khoảng 30 người ăn trong những ngày diễn ra lễ cấp sắc. Vì vậy, dù lễ cấp sắc
chỉ diễn ra từ 1 đến 2 ngày, nhưng công việc chuẩn bị của người xin cấp sắc
thường được tiến hành trước đó hàng năm.
Khi đã có đủ khả năng về kinh tế, người xin cấp sắc đến nhờ thầy cúng
xem ngày và đứng ra tổ chức lễ cấp sắc cho mình. Thầy cúng được nhờ phải
là người cao tay, có cấp bậc cao hơn người xin cấp sắc. Thầy này có thể là
người cùng họ hoặc khác họ với người xin cấp sắc. Ngày được chọn làm lễ
cấp sắc phải là ngày tốt, ngày đó không được phạm vào những ngày kiêng kị
của những thầy trong ban tổ chức, cũng như của những người trong gia đình
người xin cấp sắc. Ngày đó cũng phải được dự tính sẽ không có tang ma, sinh
đẻ trong thôn bản của người xin cấp sắc cư trú. Sau khi nhận lời làm lễ cấp
sắc, người thầy cúng được mời sẽ mời thêm một số thầy nữa để lập ra một
ban tổ chức. Số thầy trong ban tổ chức nhiều hay ít tuỳ thuộc vào cấp bậc của
52
lễ cấp sắc sẽ tiến hành. Nếu là lễ cấp sắc Pháp sư thì ban tổ chức gồm có 3
thầy chính, cấp Chức sư có 8 thầy chính, riêng cấp Thứ gia Tổng xuyến chỉ
cần 1 thầy chính. Tất cả các thầy trong ban tổ chức đều phải có cấp bậc cao
hơn người xin cấp sắc và phải cùng một thầy tổ. Những thầy này được phân
công công việc rõ ràng, mỗi thầy phụ trách một việc nhất định. Ban tổ chức lễ
cấp sắc Chức sư gồm 8 thầy chính, công việc của mỗi thầy như sau:
- Thầy truyền: đây là thầy đã dạy người xin được cấp sắc. Nếu thầy
truyền là người ngoài dòng họ thì gọi là thầy pháp truyền, nếu là ông, cha thì
gọi là thầy bản truyền. Thầy truyền có trách nhiệm điều hành chung mọi công
việc trong lễ cấp sắc và cấp pháp cho đệ tử.
- Thầy gia bổ: là thầy đã tham gia vào lễ Đại phan của người xin cấp
sắc. Thầy này có nhiệm vụ chứng minh người xin cấp sắc đã qua lễ Đại phan
và đứng ra cấp văn bằng chứng chỉ cho họ.
- Thầy chứng minh: có nhiệm vụ phải xem xét các văn bản, thủ tục nghi
lễ, nếu thấy thiếu hoặc sai sót thì báo gia chủ và thầy chủ trì sửa và bổ sung.
- Thầy bảo cử: là thầy bảo đảm nghi lễ cấp sắc làm theo đúng nghi thức
của Đạo giáo.
- Thầy dẫn đàn: dẫn chương trình, chịu trách nhiệm điều phối các bước,
các nghi lễ cho đúng theo trình tự.
- Thầy truyền phép: có nhiệm vụ truyền phép cho người được cấp sắc,
bắt quyết, yểm bùa... Đệ tử muốn được truyền bao nhiêu phép tuỳ thuộc vào
cấp bậc cấp sắc và phải được sự đồng ý của thầy truyền và thầy gia bổ.
- Thầy kết quy: có nhiệm vụ lập ngai rùa và thỉnh kim quy về đàn.
- Thầy đinh tẩu: có trách nhiệm bảo vệ 4 phương của đàn, bảo vệ người
xin cấp sắc khỏi ma tà, quỷ dữ làm hại.
Sau khi đã mời thầy cúng và chọn được ngày chính thức, gia đình có
người cấp sắc phải tiến hành những công việc sau:
53
Chuẩn bị gạo, đây là thứ không thể thiếu trong lễ cấp sắc của người Sán
Dìu ở Lục Ngạn. Trong lễ cấp sắc người ta cần có 2 loại gạo là gạo tẻ và gạo
nếp. Ngoài để phục vụ mọi người ăn uống trong những ngày làm lễ cấp sắc,
gạo còn được dùng làm xôi, oản, nấu rượu, kết quy...
Nấu rượu, lễ cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn sử dụng rất nhiều
rượu. Trong lễ cấp sắc Chức sư cho ông Bành Văn Thông, thôn Nhập Thành,
xã Nghĩa Hồ, huyện Lục Ngạn, gia đình ông đã phải chuẩn bị 180 lít rượu.
Một phần nhỏ số rượu này dùng để làm lễ (tất cả các nghi lễ trong lễ cấp sắc
đều sử dụng rượu), đa phần còn lại để mọi người đến tham dự uống trong
những ngày tổ chức lễ cấp sắc. Rượu dùng trong lễ cấp sắc phải do đàn ông
hoặc người phụ nữ đã hết tuổi sinh đẻ nấu để tránh sự uế tạp khi dâng lên tổ
tiên và các vị thần thánh.
Thuê vẽ tranh, tranh được sử dụng trong lễ cấp sắc của người Sán Dìu ở
Lục Ngạn gồm tranh phật và tranh thánh. Số tranh này được gia chủ thuê vẽ,
cũng có khi do thầy làm lễ cấp sắc mang tới. Khi đi thuê vẽ, gia chủ phải nhờ
thầy xem ngày giờ. Khi đem về phải cúng tổ tiên, thần thánh thì mới được
dùng để làm lễ cấp sắc. Một số tranh chính dùng trong lễ cấp sắc của người
Sán Dìu ở Lục Ngạn là: Tam Thanh, tranh Ngọc Hoàng thượng đế, Lý
Nguyên Sư, Triệu Nguyên Sư, Thiên Phủ, Địa Phủ Công Tào, Thập Điện
Diên Vương, Trương Thiên Sư, Đặng Nguyên Sư, Dương Phủ và Thuỷ Phủ
Công Tào, Thích Ca Mâu Ni...
May trang phục, trang phục của người xin cấp sắc chủ yếu là áo, mũ.
Trước đây, việc chuẩn bị áo cho người được cấp sắc tốn rất nhiều thời gian và
công sức. Áo được làm từ vải chàm được khâu và thêu rất công phu. Áo dài
khoảng 1,2m, được khâu bằng tay. Phía trước để mở ở giữa bụng, không có
cúc, thân sau khâu liền, không có ống tay. Nẹp áo là một miếng vải trắng rộng
1,5cm dài từ vai xuống gấu. Áo có hai dây buộc ở hai bên vạt trước. Cả thân
54
trước và sau đều được thêu thùa dầy đặc những chữ Hán cổ và các hoạ tiết
hình người cưỡi chim, người cưỡi chó, cưỡi ngựa, các vì sao, các tiết âm
dương, ngũ hành, tên các nước Trung Quốc thời cổ đại như Tống, Tề, Triệu,
Sở, Ngô, Yên, Tấn và các quẻ trong kinh dịch.
Hiện nay, việc may áo cho người được cấp sắc đơn giản hơn rất nhiều,
áo thầy cúng thường được cắt may bằng vải lụa mầu xanh nước biển theo kiểu
áo năm thân, cao cổ, cài khuy bên phải, ống tay rộng, áo dài quá gối. Mặt
trước thêu hình 2 con rồng, phía sau thêu một con rồng màu vàng. Cầu vai
mỗi bên thêu hình một đầu rồng. Tay áo và vạt áo thêu hình sóng nước.
Người xin cấp sắc còn phải thuê làm mũ, mua săm các dụng cụ phục vụ
cho lễ cấp sắc, như: tù và, thanh la, kiếm, lệnh bài, ấn, trống, kèn, cờ, túi đựng
đồ cúng, ô, cung nỏ, đèn dầu, mực, giấy để viết sớ điệp... (xem ảnh 2).
Cách ngày làm lễ chính thức vài hôm, các thầy cúng trong ban tổ chức
và anh em họ hàng của người xin cấp sắc đến để cùng gia đình chuẩn bị
những công việc cần thiết cuối cùng.
Trong khoảng thời gian này, công việc chính của các thầy cúng là viết
các loại sớ điệp cho lễ cấp sắc. Các thầy phải viết 24 tờ điệp của thầy gia bổ,
22 tờ điệp của thầy truyền và nhiều loại giấy tờ khác. Các sớ điệp này đều
được viết bằng chữ Hán, trên giấy dó, mực đen.
Điệp của thầy gia bổ:
1. Lang vị bảo cáo
2. Tin sư bảo cáo
3. Ngọc Hoàng bảo cáo
4. Tam Thanh bảo cáo
5. Cửu long bảo cáo
6. Thỉnh quân công điệp
7. Lão quan bảo cáo
8. Cân tiên bảo cáo
9. Hợp đồng bảo cáo
10. Hộ thân pháp phán
11. Ngũ lôi bảo cáo
12. Bổ quỷ công báo
55
13. Phục ma bảo cáo
14. Cửu ngưu phá ngục
15. Tổng phù công báo
16. Tư Chức bảo cáo
17. Khu tả bảo cáo
18. Thuỷ hoả phong luân
19. Phổ am hương hoả
20. Phổ am kim luân
21. Chính thiên khu bảo cáo
22. Kim tư thập nhiệm
23. Cửu phẩm bảo cáo
24. Gia phong văn bảng.
Điệp của thầy truyền:
1. Hương hoả công điệp
2. Phổ yên công điệp
3. Thỉnh quân công điệp
4. Bàn cổ nhục tinh công điệp
5. Tổng phù công điệp
6. Xuất thân công điệp
7. Quản binh công điệp
8. Tiểu truyền công điệp
9. Bổ chức công điệp
10. Minh uy ngộ giới
11. Cửu phượng phá uế
12. Ngũ lôi công điệp
13. Thái công văn điệp
14. Ngân đài chức cáo
15. Xuất thân công điệp
16. Hành cung trảm quỷý
17. Trường sinh công điệp
18. Phục yêm công điệp
19. Chiêu quân văn bảng
20. Mao sơn công điệp
21. Đồng Vương pháp cáo
22. Hạ phúc hợp đồng vĩ
Công việc chuẩn bị quan trọng tiếp theo là lập đàn (xem hình 1). Đàn là
nơi tiến hành các nghi lễ chính thức của lễ cấp sắc. Đàn do anh em họ hàng
của gia chủ lập dưới sự hướng dẫn của các thầy. Đàn có thể được lập ngoài
sân hay trong nhà, với các bộ phận chính như sau:
Cổng đàn: được dựng ở trước cửa nhà, sát thềm dưới sân, khung cổng
làm bằng tre, nứa hoặc vầu và được dán giấy mầu (xanh, đỏ, tím, vàng, trắng).
Trên cổng đề bốn chữ Hán: Tống, Chân, Nha, Môn. Hai bên cột cổng (hình
vuông) là một câu đối viết bằng chữ Hán. Cổng cao 1,8m, rộng 2m.
56
Bàn đặt sớ điệp: trên bàn để sớ điệp, bày hai đĩa lễ vật, đặt ba lọ hương:
lọ ở giữa là của người được cấp sắc, lọ bên trái của thầy truyền, lọ bên phải
của thầy gia bổ. Ngoài ra còn bày 5 chén rượu, hai chén nước, hai đĩa oản
bằng gạo nếp (mỗi đĩa năm oản), hai bát canh thịt.
Ban chính: được thiết kế như một khám thờ, khung làm bằng tre, ba
mặt đều được dán giấy ngũ sắc. Phía trước có bốn cột và viết hai đôi câu đối,
bên trên viết một hàng chữ Hán có tám chữ, bên trong treo ba bức tranh chân
dung Tam Thanh. Trên mặt ban đặt năm lọ hương, hai đĩa xôi, một đĩa hoa quả,
hai chén nước, năm chén rượu. Phía trước ban có nhốt hai con gà trống còn
sống, với mục đích là hai con gà này làm nhiệm vụ giữ đàn lễ. Bên cạnh đó có
để một lọ gạo cắm bốn lá cờ chiêu binh (bốn lá cờ hình chữ nhật có kích thước
40 x 25 cm, trên mặt đề chữ Hán: Mệnh lệnh, Chức lệnh, và họ tên người được
cấp sắc), năm lá cờ trấn trạch, chiêu binh giữ nhà hình đuôi nheo.
Hình 1. Mô hình đàn
2
5
3
4
1
Chú thích:
1. Cổng
2. Bàn đặt sớ điệp
3. Ban chính
4. Ban thờ bên tả
5. Ban thờ bên hữu
57
Ban thờ bên tả: được làm bằng tre, bên ngoài có sáu cột vuông đều
được viết chữ Hán, bên trên có hai rồng chầu âm dương. Bên trong treo tám
bức tranh âm binh thần tướng, trên mặt đặt sáu lọ hương, sáu chén rượu, sáu
chén nước, hai đĩa bánh, hai đĩa chuối, hai đĩa oản.
Ban thờ bên hữu: làm giống ban thờ bên tả, nhưng bên trong chỉ treo
bảy bức tranh chân dung của thánh. Về câu đối thì phải ghép cột bên hữu đối
xứng với cột bên tả để thành một câu đối.
Ngoài ra, gia chủ phải chuẩn bị những lễ vật cần thiết để tiến hành các
nghi lễ, lễ vật phải chuẩn bị phụ thuộc vào cấp bậc cấp sắc. Những lễ vật
chính trong lễ cấp sắc ở tất cả các bậc thường là lợn, gà, gạo nếp. Trong lễ cấp
sắc Pháp sư, lễ vật chính nhất thiết phải có 5 con vật, thường là 5 con gà; lễ
cấp sắc Chức sư cần 3 con lợn, gà; Thứ gia Tổng xuyến cần có 1 lợn, gà. Gạo
được đem nấu thành xôi, oản; gà, lợn sống hoặc nấu chín.
Trước và trong thời gian hành lễ, những người trực tiếp tham gia nghi
lễ (các thầy cúng và người xin cấp sắc), cũng như những người đến dự phải
tuân theo những kiêng kỵ sau:
Kể từ khi người xin cấp sắc đi nhờ thầy cúng xem ngày tiến hành lễ cấp
sắc, tất cả những thầy cúng trong ban cấp sắc và người xin cấp sắc đều không
được sinh hoạt tình dục. Trong thời kỳ trai giới đó, người xin cấp sắc phải hạn
chế đụng chạm vào người người khác giới (kể cả người nhà), hạn chế nói
chuyện, cấm nói tục chửi bậy.
Trước khi làm lễ cấp sắc chính thức, người thụ lễ và vợ phải tắm rửa
sạch sẽ, mặc quần áo mới. Trong những ngày hành lễ, mọi người từ chủ đến
những người tham dự không được nói tục, nói to, đánh đấm, chửi mắng nhau.
Tất cả những điều chay tịnh và cấm kỵ đó có mục đích là làm cho các
thầy và người được làm lễ cấp sắc giữ gìn được nguyên khí, nguyên thần của
bản thể, có đủ sức mạnh để khống chế được sức mạnh của các thế lực ma quỷ
58
xấu xa, vô hình trong vũ trụ thâm nhập vào cơ thể của mình, bảo vệ dẫn dắt
và hướng dẫn con người đi vào cõi thần thánh thiêng liêng, thu nạp được pháp
thuật của thần thánh trao cho.
2.4. Tiến trình lễ cấp sắc
Lễ cấp sắc của người Sán Dìu ở Lục Ngạn có 3 cấp bậc là Pháp sư,
Chức sư và Thứ gia Tổng xuyến, nhưng các bước tiến hành của các cấp bậc
về cơ bản là giống nhau. Sau đây là tiến trình lễ cấp sắc bậc Chức sư (Hoi
seo) của người Sán Dìu ở Lục Ngạn.
- Bước 1: Thỉnh thánh
Bước này gồm một thầy truyền, thầy phong chức cấp sắc và sáu người
giúp việc khác tiến hành.
Đầu tiên, các thầy nhảy múa và thổi tù và liên tục để thông báo cho tổ
tiên người thụ lễ và các thần thánh biết lễ cấp sắc đã bắt đầu. Sau đó, ba thầy
chính ngồi trước đàn, mặt hướng ra phía cổng đàn khấn vái, trình sớ để chiêu
binh thiên thánh, tức mời các thánh về chứng kiến lễ cấp sắc. Sau khi thỉnh
thánh kết thúc, hai thầy giúp việc cầm lệnh bài và ấn Ngọc Hoàng từ tay thầy
cấp sắc trao cho người được cấp sắc đang quỳ trước cổng đàn.
Lệnh bài có kích thước chiều dài 15cm, rộng 5cm, dày 1,5cm. Mặt
trước khắc hình rồng leo, mặt sau khắc các chữ Hán ghi cách tính sao tốt, xấu
trong năm và khắc tên thầy truyền. Cạnh của lệnh bài khắc tên thập nhị bát tú.
Ấn Ngọc Hoàng (xem ảnh 3) hình chữ nhật có chiều dài 8cm, rộng 7cm, cao
6cm. Giữa khắc chữ "Chức", hai bên khắc chữ "Tâm tướng" và "Hộ tướng".
Lệnh bài, ấn Ngọc Hoàng là những vật dụng quan trọng nhất của người thầy
cúng Sán Dìu. Chúng luôn được cất ở nơi trang trọng nhất (ban thờ) và là
những vật dụng không thể thiếu khi các thầy đi cúng.
Lễ vật trong bước này gồm 1 con lợn đã được thịt, để sống, mổ phanh
đôi đặt nằm úp trên bàn giữa, đầu quay về hướng bàn thờ chính nơi thờ 3 bức
59
tranh Tam Thanh, bốn chân lợn duỗi thẳng, mỗi chân kẹp một tờ giấy vàng.
Lá mỡ lợn được dàn mỏng căng úp lên mặt lợn, gáy cắm một con dao dựa
thẳng, gần đuôi đặt một con dao nhỏ. Xung quanh lợn bày rượu, gạo, cờ. Lễ
vật này để tỏ lòng thành của gia chủ đối với các thần thánh về dự lễ cấp sắc.
Những con dao cắm trên mình lợn để khẳng định chủ của nó, nhằm ngăn cấm
không cho ma tà quỷ dữ xâm phạm tới. Bước này được tiến hành trong thời
gian khoảng ba tiếng.
- Bước 2: Dâng sớ chính
Bước này có ba thầy điều khiển hành lễ, các thầy dâng sớ chính để báo
cáo toàn bộ công việc sẽ tiến hành trong lễ cấp sắc cho các thánh. Sau khi báo
cáo xong, các thầy tiến hành nhảy múa. Các thầy cầm cờ, tù và tiến hành múa
phất cờ, tấu nhạc, sắp xếp đội ngũ âm binh, quân binh, thánh binh để chuẩn bị
xuất trận tuần ải ngũ phương.
- Bước 3: Đại kết giới
Bước này được tiến hành nhằm đưa âm binh ra chào ngũ phương để đi
tuần ải. Các thầy trong ban lễ và thầy được cấp sắc đều phải mặc áo theo quy
định. Sau đó mọi người đi ra cổng, vừa đi vừa múa, một thầy cầm kiếm đi
trước, hai thầy chiêu binh đi sau, tiếp đến là hai thầy múa tù và xung quanh.
Người được cấp sắc mặc áo thầy cúng, đầu đội mũ phật, cầm lệnh bài, ấn và
một thủ hương nhảy múa ở giữa, các thầy khác nhảy múa vòng tròn xung
quanh. Các thầy lộn đi lộn lại hai vòng, lộn qua quỷ môn, mở đường cho ông
thầy được cấp sắc đi nhận chức. Qua bốn cửa, mỗi cửa lộn một lần, một thầy
cầm kiếm giữ cửa để trảm quỷ dữ.
- Bước 4: Tạo cầu đón thánh
Cầu dài khoảng 2m, rộng 30 cm, được làm bằng giấy, trên có hình ảnh
thiên binh vạn mã, các vị thần linh, cầu được đặt trên một tấm vải đỏ hoặc
60
trắng. Đi tiếp thánh có ông trình sớ, cùng thiên binh vạn mã bao quanh hầu
hạ. Người thụ lễ đặt một gói gạo bọc giấy đỏ để lấy phép, đồng thời có hai
người múa hát liên tục. Sau đó đưa ấn lên bàn trên, bỏ cầu và thầy thỉnh để
kết thúc bước này.
Các thánh được mời về dự lễ cấp sắc:
1. Tam Thiên Pháp Chủ Cửu
Hoàng Thượng Đế.
2. Tam Thanh Thượng Thánh Thập
Cửu cao chân.
3. Tam Thiên Du Gia Chư Phật
Như Lai.
4. Tam đàn tôn thánh lục bộ từ chân.
5. Tam thân hoá Phật tứ chi năng chân.
6. Tam thiên phù giáo đại pháp
thiền sư.
7. Tứ kinh đại đế lục hợp vạn linh.
8. Thái thanh vương mẫu liệt vị
quân tiên.
9. Trần, Lâm, Lý nãi tam vị phu nhân.
10. Pháp chủ tiên cô khương tam
thập lục nương.
11. Lữ sơn Tam án tiên quan cửu lang.
12. Giáo chủ trương triệu nhị lang.
13. Bắc cực đế chủ thập động
man vương.
14. Bình sơn hán đế thất thái
linh vương.
15. Hồng sơn tam thánh thập vị
công vương.
16. Tam tra thái tử trị bệnh công tào.
17. Man sư pháp chủ phan đàn
ngũ lang.
18. Tam đài sơn thượng cung lưu
dương tam thánh.
19. Tuyết sơn tiêu xà nhị viên
quan tướng.
20. Thiên cung ngọc phong dương
Lâm, Lý Thái Công.
21. Tam vị thái công,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_tuc_cap_sac_cua_toc_nguoi_san_diu_o_luc_ngan_bac_gi.pdf