Dạy học dựán (Project-basedlearning) là chiến lược dạy học mang tính hệ
thống nhằm lôi cuốn HS tham gia vào quá trình học tập những kiến thức cơbản 
và rèn luyện những kỹnăng sống qua quá trình điều tra khám phá mởrộng, 
được xây dựng dựa trên những câu hỏi phức tạp, xác thực cộng với các sản 
phẩm và nhiệm vụ được thiết kếmột cách cẩn trọng. Ba mục tiêu của dạy học 
dựán là: đạt được nội dung kiến thức chuẩn, rèn luyện các kỹnăng chìa khóa và 
rèn luyện khảnăng tưduy. Bảy yếu tốchính của dạy học dựán: 
 Dựa trên cơsởcác tiêu chuẩn 
 Dựa trên sự đánh giá 
 Là chiến lược dạy học hướng vào người học 
 Chú trọng sựhợp tác trong người học 
 Gắn với thực tiễn đích thực 
 Mởrộng khuôn khổthời gian và không gian học tập 
 Học tập đa phương tiện
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 97 trang
97 trang | 
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2229 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ứng dụng chiến lược PBL (problem – based learning) giảng dạy một số bài trong chương động lực học chất điểm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 xét, đánh giá
Chọn ra các giải 
pháp tốt nhất 
Tổng hợp- so sánh 
Bước 6: Nhận xét- đánh giá 
 Phân chia công việc soạn thảo bằng 
powerponit để trình chiếu, hay bằng 
văn bảng, poster, web… 
 So sánh phương án nhóm mình với các 
nhóm khác 
 Rút ra những ưu điểm, nhược điểm của 
nhóm mình và nhóm bạn 
 Học được nhiều cách giải quyết mới 
của nhóm bạn 
 HS tự đánh giá hiệu quả làm việc của 
bản thân, nhóm tự đánh giá hiệu quả 
làm việc của nhóm 
 HS đánh giá chéo hiệu quả làm việc 
của các nhóm khác 
 GV đánh giá nhóm 
 Làm bài kiểm tra, vấn đáp… 
Trong thời gian HS làm việc nhóm, GV cũng có vai trò rất quan trọng. GV sẽ 
quan sát xem các nhóm hoạt động như thế nào và tất cả thành viên trong nhóm 
có làm việc hết không hay chỉ có một vài thành viên làm việc. GV sử dụng kinh 
nghiệm đã có tương tác với HS để thúc đẩy, động viên HS làm việc cũng như 
phát triển một môi trường học tập năng động tích cực. Sự thành công của 
phương pháp này sẽ phụ thuộc vào cách thức làm việc nhóm của HS cho nên 
GV phải theo dõi tình trạng làm việc của nhóm để hiểu được và biết cách thúc 
đẩy phát triển nhóm. Một số HS có kinh nghiệm làm việc nhóm rất tốt và không 
cần sự hướng dẫn của GV nhưng không phải HS nào cũng như vậy. GV thúc 
đẩy, hướng dẫn cách làm việc nhóm trong việc giải quyết vấn đề không phải đơn 
giản là cung cấp kiến thức cho HS một cách tự do mà gợi mở và hướng dẫn cho 
HS tổng hợp thông tin sau khi đã cùng nhau thảo luận hay GV sẽ theo dõi và thu 
nhặt những kiến thức và tài liệu mà HS đã bỏ sót và giúp HS thấy được ý nghĩa 
và tầm quan trọng của chúng và hướng HS đi đúng nhiệm vụ của mình. HS có 
thể hỏi GV những câu hỏi có liên quan đến vấn đề hay có thể thảo luận những 
vấn đề phức tạp với GV, HS thì thể hiện khả năng hiểu biết của họ đối với vấn 
 đề, GV quan sát sự biểu biết của HS có thể giúp HS liên kết các vấn đề quan 
trọng với nhau. Thỉnh thoảng GV đưa ra những lời bình luận mang tính kích 
thích để mở rộng hơn chủ đề HS đang thảo luận hoặc đưa ra những câu hỏi mở 
để giúp HS suy nghĩ sâu hơn, những việc làm này sẽ giúp cho việc hoạt động 
nhóm trở nên có hiệu quả hơn. Thỉnh thoảng, HS sẽ nhờ GV giúp họ giải quyết 
khi xuất hiện các xung đột và mâu thuẩn trong nhóm. Nhìn chung khi làm việc 
nhóm nếu xuất hiện các xung đột thì bắt buộc các thành viên phải giải quyết sớm 
ở những giai đoạn đầu hơn là để cho những xung đột đó tiếp diễn. GV sẽ yêu 
cầu HS xem lại những nội quy mà cả nhóm đã thiết lập và phải tôn trọng thực 
hiện đúng những nội quy đó, HS sẽ nhận thấy nếu họ không giải quyết được 
những mâu thuẩn thì nhóm họ sẽ bị mất điểm đánh giá tiến trình làm việc hoặc 
mất điểm của chính cá nhân họ. 
Khi dạy học theo PBL chúng ta không thể sử dụng phương pháp đánh giá 
truyền thống để đánh giá HS bởi vì cách nhận xét đánh giá sẽ ảnh hưởng đến 
mục tiêu học tập cũng như tiến trình và thái độ học tập của HS. Cách đánh giá 
theo PBL bao gồm các hình thức đánh giá sau: 
 HS tự đánh giá quá trình và kết quả làm việc của mình thông qua phiếu 
đánh giá cá nhân. Cách đánh giá này sẽ cho HS cơ hội để tự đánh giá và 
phản hồi lại quá trình học tập của mình, đây là một yếu tố rất quan trọng 
trong PBL. Tự đánh giá cho phép HS đánh giá hiệu quả chiến lược giải 
quyết vấn đề của mình, cho phép HS so sánh hiệu quả làm việc của mình 
với mục đích ban đầu mà họ đã đề ra và cho phép HS phát triển khả năng 
điều chỉnh việc học của mình vượt ra khỏi môi trường học tập mang tính 
lý thuyết suôn cũng như rèn luyện cho HS khả năng học tập suốt đời 
 Sự đánh giá ngang hàng: là sự đánh giá của HS với các bạn trong nhóm 
hoặc sự đánh giá của các nhóm mình đối với các nhóm khác về tiến trình 
sán phẩm hay sự thuyết trình, trình diễn…dựa trên những tiêu chuẩn mà 
GV đã đưa ra, HS có thể có hoặc có thể không cùng với GV đưa ra tiêu 
chẩn đánh giá này. Nếu như HS có thể đánh giá lẫn nhau một cách chính 
 xác và công bằng thì cách đánh giá này có thể giúp cho HS phát triển cao 
hơn về trách nhiệm và ý thức sở hữu kết quả học tập của người khác, làm 
nâng cao nhận thức và sự hiểu biết về vấn đề đang được thảo luận, thông 
qua đó HS có thể phản hồi và so sánh với công việc của mình và nhận 
thức được khả năng của bản thân xem những điểm nào mình cần cải tiến 
cho tốt hơn, đây cũng là một yếu tố quan trọng trong việc định hướng cho 
HS phương pháp tự học. Đánh giá ngang hàng hay đánh giá chéo được 
khuyến khích như một công việc cần thiết, gần gũi và quen thuộc sau 
buổi thuyết trình hay trình diễn 
 Đánh giá của GV: đối với cách giảng dạy bằng phương pháp truyền thống 
thì chỉ có GV mới được phép đánh giá HS bằng các hình thức kiểm tra, 
chất vấn. Với PBL dựa trên những tiêu chí ban đầu đưa ra GV nhận xét 
đánh giá quá trình làm việc của HS nhằm cho HS biết họ đã đạt được bao 
nhiêu phần trăm mục tiêu ban đầu, những kiến thức kỹ năng nào họ còn 
thiếu sót để họ có cơ hội cải thiện vào những bài sau. 
 Phiếu kiểm tra, bảng câu hỏi: những HS quen với cách giảng dạy truyền 
thống thì có thể họ xem việc học theo phương pháp PBL như thảo luận, 
lên kế hoạch, tìm tài liệu, nghiên cứu thì không phải là việc học thật sự. 
Họ chỉ quen với cách thuyết giảng và làm bài kiểm tra như thông thường, 
đây là một ảnh hưởng không tốt đến động cơ học tập của HS. Với PBL, 
trong quá trình HS giải quyết vấn đề, GV có thể cho những bài tập nhỏ có 
liên quan đến vấn đề hiện tại, bài tập này sẽ được GV chấm điểm và trả 
ngay tức khắc (có thể bằng hình thức trực tuyến). Ở giai đoạn cuối HS 
được làm bài kiểm tra chính thức và lần này lại tính điểm, dạng của 
những bài kiểm tra cuối này có thể giống những bài kiểm tra đã cho hoặc 
có thể đào sâu hơn vào vấn đề. Đây cũng là một cách để đánh giá xem HS 
đã hiểu được vấn đề như thế nào, đã tìm kiếm được những thông tin gì có 
liên qua đến vấn đề đã cho. 
  Kiểm tra bằng hình thức phỏng vấn, thể hiện sản phẩm như làm áp phích 
quảng cáo (poster), tác phẩm, biểu đồ. 
1.2.5. So sánh dạy học dựa trên vấn đề-PBL, dạy học dự án (Project- based 
Learning) và dạy học dựa trên yêu cầu (Inquiry Learning) 
Dạy học dự án (Project-based learning) là chiến lược dạy học mang tính hệ 
thống nhằm lôi cuốn HS tham gia vào quá trình học tập những kiến thức cơ bản 
và rèn luyện những kỹ năng sống qua quá trình điều tra khám phá mở rộng, 
được xây dựng dựa trên những câu hỏi phức tạp, xác thực cộng với các sản 
phẩm và nhiệm vụ được thiết kế một cách cẩn trọng. Ba mục tiêu của dạy học 
dự án là: đạt được nội dung kiến thức chuẩn, rèn luyện các kỹ năng chìa khóa và 
rèn luyện khả năng tư duy. Bảy yếu tố chính của dạy học dự án: 
 Dựa trên cơ sở các tiêu chuẩn 
 Dựa trên sự đánh giá 
 Là chiến lược dạy học hướng vào người học 
 Chú trọng sự hợp tác trong người học 
 Gắn với thực tiễn đích thực 
 Mở rộng khuôn khổ thời gian và không gian học tập 
 Học tập đa phương tiện 
Dạy học khám phá (Inquiry-based learning) là chiến lược dạy học kích thích 
mong muốn khám phá, tìm hiểu kiến thức của HS thông qua bộ câu hỏi định 
hướng. HS sẽ thu thập và tổng hợp thông tin để tạo ra kiến thức mới, sau đó họ 
thảo luận và chia sẻ kinh nghiệm của mình hay tranh luận một vấn đề với các 
bạn. HS sẽ dành thời gian để nhìn lại câu hỏi, phần nghiên cứu và kết luận đã 
đưa ra, HS có thể đưa ra tóm tắt, quan sát và đưa ra phán quyết mới, câu hỏi 
mới lộ ra và một chu trình mới lại bắt đầu. 
Câu hỏi
Nghiên cứu 
Hình thànhThảo luận 
Suy ngẫm 
Chu trình của dạy 
học khám phá 
Như vậy dạy học khám phá là điểm chung của mọi quá trình học tập trong 
các chiến lược dạy học hướng vào người học. Tính chất của bộ câu hỏi định 
hướng là yếu tố quan trọng cho việc quyết định chiến lược dạy học: dạy học 
khám phá hay dạy học dự án hay PBL. Bộ câu hỏi định hướng càng có mối liên 
hệ mật thiết với thực tiễn càng kích thích ham muốn hiểu biết của HS làm họ 
tích cực tham gia vào quá trình học, nó dẫn dắt các bài học đi từ nội dung hẹp 
đến mở rộng hơn, dẫn HS từ hiểu biết nông đến sâu hơn, đưa HS vào quá trình 
phát triển hiểu biết, phát triển tư duy. Tuy nhiên ba chiến lược dạy học này có 
những điểm khác nhau: dạy học theo yêu cầu đơn thuần có thể chỉ dừng lại ở 
mục tiêu lĩnh hội kiến thức và kỹ năng, còn mục tiêu của dạy học dự án và PBL 
ngoài lĩnh hội kiến thức còn rèn luyện các kỹ năng chìa khóa và các kỹ năng tư 
duy và còn hình thành thái độ tích cực đối với việc học tập. Riêng dạy học dự án 
và PBL nhìn bề ngoài có vẻ mục đích và cách thức thực hiện thì giống nhau 
nhưng mục tiêu của PBL là chú trọng quá trình làm việc, quá trình giải quyết 
vấn đề còn dạy học dự án thì chú trọng sản phẩm tạo ra nhiều hơn. Có thể mô 
hình hóa mục tiêu của ba chiến lược như hình vẽ sau: 
PBL 
Dạy học Chú trọng sản phẩm 
Chú trọng quá trình dự án 
DH khám 
phá 
 1.2.6. Kỹ năng giải quyết vấn đề 
Có nhiều kỹ thuật để giải giải quyết vấn đề như: kỹ thuật động não 
(Brainstorming), kỹ thuật tư duy sáu chiếc mũ (Six thinking hats), kỹ thuật tư 
duy 5W1H, kỹ thuật phân tích SWOTS. Khi sử dụng PBL trong dạy học chúng 
ta sử dụng kỹ thuật động não (Baistorming) trong bước thứ 3. 
Kỹ thuật động não: 
 Khái niệm: Động não là một kỹ thuật nhằm huy động những tư tưởng mới 
mẻ, độc đáo về một chủ đề của các thành viên trong thảo luận. Các thành 
viên được cổ vũ tham gia một cách tích cực, không hạn chế các ý tưởng 
(nhằm tạo ra "cơn lốc" các ý tưởng). Kỹ thuật động não do Alex Osborn 
(Mỹ) phát triển, dựa trên một kỹ thuật truyền thống từ Ấn độ. 
 Quy tắc của động não 
 - Không đánh giá và phê phán trong quá trình thu thập ý tưởng của các thành 
viên 
 - Liên hệ với những ý tưởng đã được trình bày 
 - Khuyến khích số lượng các ý tưởng 
 - Cho phép sự tưởng tượng và liên tưởng 
 Các bước tiến hành 
- Người điều phối dẫn nhập vào chủ đề và xác định rõ một vấn đề 
- Các thành viên đưa ra những ý kiến của mình: trong khi thu thập ý kiến, 
không đánh giá, nhận xét. Mục đích là để huy động nhiều ý kiến tiếp nối 
nhau 
- Kết thúc việc đưa ra ý kiến 
- Đánh giá: 
+ Lựa chọn sơ bộ các suy nghĩ, chẳng hạn theo khả năng ứng dụng: có 
thể ứng dụng trực tiếp, ứng dụng nhưng cần nghiên cứu thêm hay 
không có khả năng ứng dụng 
+ Đánh giá những ý kiến đó lựa chọn 
+ Rút ra kết luận hành động 
  Ứng dụng 
 - Dùng trong giai đoạn nhập đề vào một chủ đề 
 - Tìm các phương án giải quyết vấn đề 
 - Thu thập các khả năng lựa chọn và suy nghĩ khác nhau. 
 Ưu điểm 
- Dễ thực hiện 
- Không tốn kém 
 - Sử dụng được hiệu ứng cộng hưởng, huy động tối đa trí tuệ của tập thể 
 - Huy động được nhiều ý kiến 
 - Tạo cơ hội cho tất cả thành viên tham gia. 
 Nhược điểm 
- Có thể đi lạc đề, tản mạn 
- Có thể mất thời gian nhiều trong việc chọn các ý kiến thích hợp 
 - Có thể có một số HS “quá tích cực", số khác thì thụ động. 
 Kỹ thuật động não được áp dụng phổ biến và nguời ta xây dựng nhiều kỹ 
thuật khác dựa trên kỹ thuật này, có thể coi là các dạng khác nhau của kỹ thuật 
động não. 
1.2.7. Kỹ năng hoạt động nhóm 
 HS trong các lớp học vật lý với phương pháp truyền thống thường bắt đầu 
giải quyết một bài toán hay một vấn đề vật lý bằng việc lao vào sử dụng những 
biểu thức vật lý, thay số vào biểu thức đó cho tới khi tìm được đáp số. Họ ít khi 
nào sử dụng kiến thức vật lý dựa trên khái niệm vật lý để phân tích định tính giải 
pháp của vấn đề hay họ không lập kế hoạch một cách có hệ thống trước khi bắt 
đầu với những biểu thức đại số. Dạy học theo PBL sẽ giúp cho HS kết hợp việc 
hiểu các khái niệm và hiện tượng vật lý với việc áp dụng các biểu thức để giải 
quyết vấn đề một cách tốt hơn và hiểu sâu sắc bản chất của vấn đề hơn. Tuy 
nhiên nếu vấn đề đơn giản thì HS dễ dàng giải quyết một mình, còn nếu vấn đề 
phức tạp và không rõ ràng (như những vấn đề phi kết cấu trong PBL) thì đòi hỏi 
 HS phải làm việc hợp tác để tìm ra giải pháp, việc học tập hợp tác hay làm việc 
nhóm có những ưu điểm sau đây: 
 Tạo điều kiện cho tất cả các đối tượng HS có cơ hội tham gia nhiều vào 
các hoạt động trong lớp 
 Cả nhóm có thể giải quyết những vấn đề phức tạp hơn cá nhân, HS sớm 
có thể phát hiện ra phương án giải quyết vấn đề khi thảo luận nhóm 
 HS có thể thấy được nhiều cách giải quyết vấn đề của các bạn qua quá 
trình làm việc nhóm để học tập và bổ sung cho những khiếm khuyết quan 
điểm sai của mình, HS nhận ra rằng có thể có nhiều câu trả lời, nhiều ý 
kiến quan điểm khác nhau cho cùng một vấn đề và ý kiến tập thể luôn tốt 
hơn ý kiến cá nhân 
 HS được rèn luyện các kỹ năng lập kế hoạch, quan sát, ra quyết định, 
điều khiển nhóm, diễn đạt…khi HS được phân công luôn phiên nhau các 
nhiệm vụ 
 Rèn luyện tinh thần hợp tác giữa HS trong lớp đồng thời tăng cường tinh 
thần trách nhiệm cá nhân trong tập thể, rèn luyện thói quen biết lắng nghe 
ý kiến của người khác 
 HS sẽ cảm thấy tự tin và mạnh mẽ hơn vì câu trả lời không phải là của cá 
nhân mà là kết quả làm việc của cả nhóm. 
Làm việc nhóm hay làm việc hợp tác là để cho HS làm việc cùng nhau trong 
những nhóm nhỏ gồm nhiều HS khác nhau, và được xây dựng một cách cẩn 
trọng. Cách làm việc này yêu cầu sự tham gia, đóng góp trực tiếp của HS vào 
quá trình học tập đồng thời yêu cầu HS phải cùng nhau làm việc để tạo ra kết 
quả chung. Kỹ năng xây dựng nhóm hay làm việc nhóm là kỹ năng quan trọng 
giúp HS làm việc hiệu quả nhanh chóng đồng thời luyện tập cho họ tính hòa 
đồng và hợp tác trong công việc. Dạy học theo PBL dựa trên cơ sở HS làm việc 
nhóm với nhau, điều trước tiên GV phải giải thích cho HS ưu điểm của làm việc 
nhóm, tại sao chúng ta cần phải làm việc nhóm và hướng dẫn cho HS các yêu tố 
và cách thức quan trọng khi làm việc nhóm như: 
  Đảm bảo mục tiêu được xác định rõ ràng và tất cả các thành viên đều thông 
qua 
 Nhận thức một cách rõ ràng sự phụ thuộc giữa các thành viên trong nhóm 
một cách tích cực 
 Khuyến khích sự tương tác một cách hiệu quả, xây dựng niềm tin giữa các 
thành viên bằng cách từng bước tạo bầu không khí cởi mở và thẳng thắng, 
tôn trọng ý kiến của các thành viên 
 Lĩnh hội một cách rõ ràng trách nhiệm của mỗi cá nhân và tinh thần hợp tác 
giữa các thành viên để đạt được mục tiêu của nhóm 
 Về mức độ tin cậy của các quyết định hay cam kết, nên để càng nhiều HS 
tham gia vào quyết định càng tốt. Càng có nhiều thành viên đóng góp các ý 
tưởng, giải pháp và các quyết định chung của nhóm thì kết quả sẽ càng có 
nhiều thành viên đồng thuận với hành động sau cùng 
 Phân công trách nhiệm rõ ràng và chi tiết cho từng thành viên, tránh để các 
nhiệm vụ chồng chéo nhau, thay đổi thường xuyên và đều đặn nhiệm vụ hiện 
tại của các thành viên để cải tiến hiệu quả làm việc của nhóm 
 Hãy đảm bảo không có sự tắc nghẽn trong quá trình giao tiếp, mọi người 
phải được thông tin một cách đầy đủ. 
Để làm việc nhóm một cách có hiệu quả cần phải nắm vững bảy kỹ năng cơ bản 
sau đây: 
1. Lắng nghe: đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất. Các thành viên 
trong nhóm phải biết lắng nghe ý kiến của nhau, kỹ năng này phản ánh sự tôn 
trọng của các thành viên trong nhóm. Lắng nghe đòi hỏi mức độ tư duy cao 
hơn nghe. Lắng nghe là một kỹ năng mà người nghe phải biết tiếp nhận thông 
tin từ người nói, phân tích, tư duy theo hướng tích cực và phản hồi bằng thái 
độ tôn trọng những ý kiến của người nói 
2. Chất vấn: qua cách thức mỗi người đặt câu hỏi, chúng ta có thể nhận biết mức 
độ tác động lẫn nhau, khả năng thảo luận, đưa ra vấn đề cho các thành viên 
khác. Chất vấn là kỹ năng thể hiện tư duy phản biện tích cực, đòi hỏi mức độ 
 tư duy cao và tinh thần đống góp ý kiến tích cực cho nhóm 
3. Thuyết phục: các thành viên phải trao đổi, suy xét những ý tưởng đã đưa ra, 
đồng thời họ còn biết tự bảo vệ và thuyết phục người khác đồng tình với quan 
điểm của mình 
4. Tôn trọng: mỗi thành viên trong nhóm phải tôn trọng ý kiến của những người 
khác thể hiện qua việc động viên, hỗ trợ nhau, nỗ lực biến chúng thành hiện 
thực 
5. Trợ giúp: các thành viên phải biết giúp đỡ nhau vì trong một nhóm có người 
mạnh lĩnh vực này nhưng lại yếu lĩnh vực khác. Nhiều khi vấn đề nhóm đang 
thảo luận cần kiến thức ở nhiều lĩnh vực, mức độ và đòi hỏi nhiều kỹ năng 
khác nhau 
6. Chia sẻ: Các thành viên đưa ra ý kiến và chia sẻ kinh nghiệm của mình khi 
gặp các tình huống tương tự trước đó, mỗi thành viên trong nhóm cần nhận 
thức tầm quan trọng của việc chia sẻ, như vậy không khí của nhóm sẽ vui vẻ 
và tích cực hơn 
7. Chung sức: mỗi thành viên trong nhóm phải đóng góp trí lực cùng nhau thực 
hiện kế hoạch đã đề ra, cả nhóm cần phải hiểu rõ mục đích của nhóm cần đạt 
được và phải có cùng chung khao khát hoàn thành nó. 
Để làm việc nhóm có hiệu quả, các thành viên trong nhóm phải được phân chia 
nhiệm vụ một cách rõ ràng và chi tiết 
Vai trò Công việc cụ thể 
Trưởng nhóm: 
 Điều khiển và hướng dẫn các hoạt 
động của nhóm 
 Giữ cho nhóm đi đúng hướng 
 Đảm bảo rằng các thành viên trong 
nhóm đều tham gia 
 Theo dõi thời gian trong suốt quá 
trình hoạt động 
“Chúng ta hãy trở lại vấn đề này 
nếu chúng ta có thời gian” 
“Chúng ta cần phải đi đến bước tiếp 
theo” 
“Bạn nghĩ gì về ý kiến này?” 
 Thư kí: 
 Ghi chép, tổng hợp lại tất cả những 
thông tin mà nhóm đã thảo luận 
 Xem xét, ghi chú các hoạt động 
của nhóm 
 Kiểm tra sự hiểu biết của các thành 
viên 
 Đảm bảo các thành viên trong 
nhóm đều đồng ý với kế hoạch 
hoạt động 
“Có phải ý của bạn là như thế này 
không…?” 
“Mọi người đã hiểu sơ đồ này 
chưa?” 
“Tất cả chúng ta đều đồng ý với ý 
kiến này phải không không?” 
Người quan sát: 
 Giúp nhóm tránh đi đến kết luận 
quá sớm 
 Đảm bảo rằng tất cả các khả năng 
đều được xét đến 
 Đề nghị nhiều ý kiến, giải pháp 
cho nhóm 
 Động viên, thúc đẩy nhóm khi gặp 
khó khăn 
“Liệu còn có những khả năng khác 
nữa hay không?” 
“Chúng ta hãy cố gắng suy nghĩ theo 
một hướng khác” 
“Tôi không chắc chúng ta đang đi 
đúng hướng” 
“Chúng ta có thể làm được” 
Người trình bày: 
 Tóm tắt lại kết quả hoạt động của 
nhóm 
 Đại diện nhóm trình bày ý tưởng 
“Kết luận cuối cùng của nhóm là 
như thế này…phải không?” 
“Chúng ta nên trình bày theo tiến 
trình này được không?” 
Một nhóm có thể gồm từ ba đến năm thành viên là tốt nhất. Theo nghiên cứu 
thì khi phân nhóm theo trình độ lộn xộn không đồng đều sẽ làm việc tốt hơn là 
phân nhóm theo trình độ đồng đều, GV có thể dựa vào quá trình làm việc của 
những lần trước hoặc dựa vào kết quả của bài kiểm tra để đánh giá trình độ của 
 HS. Sau một thời gian đủ dài để HS có thể làm việc một cách thành thạo GV sẽ 
thay đổi các thành viên trong nhóm. Trong thời gian đầu, nó rất là quan trọng để 
cho HS đăng kí nhóm và sau đó lại đổi nhóm nhưng GV có thể giải thích cho 
HS rằng mục đích của việc thay đổi nhóm thường xuyên sau mỗi lần làm việc là: 
 Chúng ta muốn được quen và biết cách làm việc của hết các bạn trong lớp vì 
vậy chúng ta sẽ thay đổi nhóm sau một thời gian làm việc. Việc này sẽ giúp 
cho chúng ta xây dựng nên một ý thức cộng đồng, chúng ta làm việc cùng 
nhau để giúp đỡ các bạn trong lớp cùng học tập môn vật lý tốt hơn 
 Chúng ta sẽ có cơ hội làm việc với nhiều người khác nhau, thấy được nhiều 
cách làm việc của họ và sẽ biết được cách làm việc dẫn đến thành công trong 
nhóm, điều này rất có ích trong tương lai, vì khi ra đời làm việc chúng ta 
không có quyền chọn đồng nghiệp của mình. 
1.3. Các tiêu chuẩn đánh giá trắc nghiệm khách quan 
 Các tiêu chuẩn đánh giá bài trắc nghiệm khách quan 
 Điểm trung bình của bài trắc nghiệm: fXX
N
  
 trong đó: X là điểm trắc nghiệm của mỗi HS 
 f là tần số của mỗi điểm trắc nghiệm 
 N là tổng số HS làm bài trắc nghiệm 
 Điểm trung bình lí thuyết: 
2
K TTBLT  
 trong đó: K là số câu trắc nghiệm 
 T là điểm may rủi của bài trắc nghiệm được 
tính bằng 
Tổng số câu trắc nghiệm 
T= 
Số lựa chọn mỗi câu 
So sánh điểm trung bình lí thuyết (TBLT) với điểm trung bình 
X cảu bài trắc nghiệm cũng là một cách để xác định độ khó 
của bài trắc nghiệm: 
 Nếu TBLT> X : bài trắc nghiệm khó đối với trình độ HS 
 Nếu TBLT< X : bài trắc nghiệm dễ đối với trình độ HS 
 Nếu TBLT X : bài trắc nghiệm vừa sức với trình độ HS 
 Độ lệch tiêu chuẩn (ĐLTC): là số đo lường sự phân tán của các 
điểm bài trắc nghiệm, tính theo công thức: 
2 21 ( )N fX fX
N
    
Nếu ĐLTC thấp: sự phân tán các điểm trắc nghiệm rất ít so với 
điểm trung bình  trình độ HS khá đồng đều 
Nếu ĐLTC cao: sự phân tán các điểm trắc nghiệm nhiều so với 
điểm trung bình  trình độ HS quá chênh lệch 
 Độ khó của bài trắc nghiệm: là tỉ số giữa điểm trung bình của 
bài trắc nghiệm so với tổng số câu trắc nghiệm 
Độ khó= X
K
Độ khó là một chỉ số càng nhỏ thì mức độ khó của bài 
trắc nghiệm càng cao. 
 Độ khó vừa phải (ĐKVP) của bài trắc nghiệm: là tỉ số giữa 
điểm TBLT so với điểm tối đa có thể có của bài trắc nghiệm 
 ĐKVP= TBLT
K
 Nếu độ khó > ĐKVP: bài trắc nghiệm dễ với trình độ 
HS 
 Nếu độ khó < ĐKVP: bài trắc nghiệm khó đối với trình 
độ HS 
 Hệ số tin cậy cảu bài trắc nghiệm tùy thuộc vào sự khác biệt 
trình độ của HS, bài trắc nghiệm có nhiều câu có độ phân cách 
cao thì HSTC cao. Công thức Kuder-Richardson: 
211
pqKr
K 
     
 
 P là tì lệ câu trả lời đúng cho mỗi câu trắc nghiệm 
Q là tỉ lệ câu trả lời sai cho mỗi câu trắc nghiệm 
2 là bình phương ĐLTC của bài trắc nghiệm của bài 
trắc nghiệm còn gọi là phương sai các điểm trắc nghiệm 
 Sai số đo lường tiêu chuẩn: được tính bằng . 1 r  
Bài trắc nghiệm có độ tin cậy cao thì sai số này thấp 
 Tiêu chuẩn đánh giá câu trắc nghiệm khách quan: 
 Độ khó câu trắc nghiệm: là tỉ lệ phần trăm người trả lời đúng 
câu trắc nghiệm 
 Độ khó= 
Độ khó càng thấp thì câu trắc nghiệm càng khó và 
ngược lại 
Số người trả lời đúng câu trắc nghiệm 
Tổng số người làm câu trắc nghiệm 
 Độ khó vừa phải của câu trắc nghiệm: là trung bình giữa phần 
trăm may rủi và 100%, cụ thể: 
 ĐKVP= 
% may rủi= 
Nếu độ khó > ĐKVP: câu trắc nghiệm dễ đối với trình độ HS 
Nếu độ khó < ĐKVP: câu trắc nghiệm khó đối với trình độ 
HS 
Nếu độ khó ĐKVP: câu trắc nghiệm vừa sức đối với trình 
độ HS 
% may rủi +100% 
2 
100% 
Số lựa chon mỗi câu 
 Độ phân cách D của câu trắc nghiệm: là khả năng phân biệt 
HS giỏi và HS khá của câu trắc nghiệm. Độ phân cách càng 
cao thì câu trắc nghiệm có phân biệt rõ rệt nhóm HS giỏi và 
HS kém. Công thức: 
g kD DD
n
 
 Dg là số người nhóm giỏi trả lời đúng câu trắc nghiệm 
 Dk là số người nhóm kém trả lời đúng câu trắc nghiệm 
N là số HS mỗi nhóm (nhóm giỏi và nhóm kém có n 
bằng nhau) 
Độ phân cách Đánh giá câu trắc nghiệm 
Từ 0,4 trở lên 
Từ 0,3 đến 0,39 
Từ 0,2 đến 0,29 
Dưới 0,19 
Rất tốt 
Khá tốt 
Tạm được 
Kém 
1.4. Kết luận chương 1 
 Qua phân tích cơ sở lý luận của việc đổi mới phương pháp dạy học thì việc 
ứng dụng PBL trong quá trình dạy học nói chung và dạy học vật lý nói riêng là 
hoàn toàn hợp lý, phù hợp với các cơ sở lí luận cũng như cơ sở thực tiễn. Vì 
PPDH gắn bó chặt chẽ với mục tiêu, nội dung, phương tiện trình độ đội ngũ GV, 
hoàn cảnh và đặc điểm của đối tượng, vì vậy ứng dụng các phương pháp mới 
trong quá trình đổi mới PPDH không chỉ phụ thuộc vào việc biên soạn lại nội 
dung SGK hay phụ thuộc vào cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học mà cần phụ 
thuộc vào việc bồi dưỡng những năng lực cần thiết của người GV để đáp ứng 
những năng lực cần thiết của người GV để đáp ứng được yêu cầu đổi mới 
PPDH. 
 Chương 2: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP PBL VÀO DẠY HỌC 
MỘT SỐ BÀI TRONG CHƯƠNG ĐỘNG LỰC HỌC 
CHẤT ĐIỀM VẬT LÝ 10 NÂNG CAO 
2.1. Cấu trúc nội dung của chương động lực học chất điểm [1] 
Sơ đồ biểu diễn các kiến thức trong chương “động lực học chất điểm”: 
Sơ đồ biểu diễn mối liên hệ giữa các nội dung có liên quan đến vấn đề: 
 2.2. Áp dụng phương pháp PBL vào dạy phần động lực học chất điểm [2] 
[3] [20] [21] [23] [32] [33] 
I. Mục tiêu giáo dục cần đạt 
1. Kiến thức: 
- Hiểu rõ hơn ý nghĩa và vận dụng của 3 định luật 
Newton nhất là định luật thứ III là định luật mà HS 
thường tranh cãi và có sự hiểu lầm 
- HS nắm bắt được được định luật vạn vật hấp dẫn và 
công thức tính lực hấp dẫn 
- Hiểu được hệ quy chiếu có gia tốc và lực quán tính 
- Hiểu được lực hướng tâm và lực quán tính li tâm 
- Hiểu rõ về trạng thái tăng, giảm, mất trọng lượng 
- Tìm hiểu được cuộc sống của các phi hành gia ở trên 
tàu vũ trụ thông qua đó hiểu được bản chất của một số 
hiện tượng vật lý và sinh học (quá trình tuần hoán 
máu…). 
2. Kỹ năng: 
- tìm kiếm, xử lí và chọn lọc thông tin 
- cộng tác làm việc nhóm 
- giải quyết vấn đề đặc biệt là các vấn đề vật lý có liên 
qua đến đời sống thực tế 
- tư duy logic và sáng tạo 
- thuyết trình 
3. Thái độ: 
- HS phải có thái độ học tập nghiêm túc, tích cực, hợp tác 
làm việc nhóm 
- HS yêu thích, đam mê nghiên cứu Vật Lý 
 - HS phải có thái độ khách quan, trung thực, có tác 
phong cẩn thận, tỉ mỉ và có ý thức liên hệ những điều 
đ
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LVVLPPDH022.pdf LVVLPPDH022.pdf