MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình( Sơ đồ, biểu đồ, tranh ảnh )
MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài . . . 1
II. Mục đích của đề tài . . . 3
III. Nhiệm vụ của đề tài. . . 3
IV. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. . . 3
V. Lịch sử nghiên cứu của đề tài. . . 3
VI. Phương pháp nghiên cứu . . . 5
VII. Đóng góp của đề tài . . . 6
VIII. Cấu trúc của luận văn . . . 7
NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ứng dụng CNTT trong thiết kế bài giảng Địa lí lớp 11
1.1. Cơ sở lý luận . . . 8
1.1.1.Quan niệm về thiết kế bài giảng và thiết kế bài giảng có sử dụng công nghệ thông tin . 8
1.1.2.Đặc điểm tâm lí, trình độ nhận thức của học sinh trung học phổ thông . .23
1.2.Cơ sở thực tiễn . 25
1.2.1.Đặc điểm chương trình sách giáo khoa Địa lí lớp 11 . .25
1.2.2.Vai trò của công nghệ thông tin trong dạy học địa lí . .30
Chương 2: Ứng dụng công nghệ thông tin trong thiết kế bài giảng
Địa lí lớp 11 . .39
2.1. Cơ sở, nguyên tắc và phương hướng thiết kế bài giảng Địa lí có ứng dụng công nghệ thông tin.
2.1.1.Cơ sở thiết kế bài giảng Địa lí. . . .39
2.1.2. Nguyên tắc thiết kế bài giảng Địa lí có ứng dụng CNTT.43
2.1.3. Phương h ướng thiết kế bài giảng Địa lí có ứng dụng CNTT. .45
2.2.Giới thiệu về các phương tiện, chương trình ứng dụng CNTT
và một số phần mềm để TKBG Địa lí ở trường THPT. . 45
2.2.1. Máy vi tính và các chương trình ứng dụng cơ bản. . 45
2.2.2. Sử dụng Microsoft Power Point và các phần mềm khác để TKBG Địa lí. . 56
2.3. Quy trình ứng dụng công nghệ thông tin trong TKBG Địa lí. .84
2.4. Ứng dụng CNTT và phần mềm tin học thiết kế bài học cụ thể trong chương trình Địa lí lớp 11 . .
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm . . 96
3.1. Mục đích thực nghiệm . 96
3.2. Nhiệm vụ thực nghiệm: . .96
3.3. Nguyên tắc tiến hành thực nghiệm . .96
3.4. Quy trình thực nghiệm . 97
3.5.Tiểu kết chương . 98
KẾT LUẬN 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO. . .108
PHỤ LỤC . . .111
124 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4517 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ứng dụng công nghệ thông tin trong thiết kế bài giảng Địa lí lớp 11 Trung học phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cụ thể cho việc áp dụng các PPDH (nói chung)
và TKBG (nói riêng) cho GV đang còn rất thiếu.
Qua một số vấn đề cơ bản mang tính lý luận và thực tiễn của quá trình
Dạy - Học môn Địa lí ở trường THPT trong đó có việc ứng dụng CNTT trong
TKBG mà chúng ta đã nhận thức được: Thực trạng và sự cần thiết phải đổi
mới việc TKBG trong giai đoạn đầu của quá trình đổi mới sẽ gặp nhiều khó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
khăn và thử thách trong hoàn cảnh chúng ta đang thiếu khá nhiều về phương
tiện dạy học cả truyền thống và hiện đại. Cần tác động trên một vài yếu tố
như: Năng lực chuyên môn của GV, trình độ nhận thức và kĩ năng học tập bộ
môn của HS, linh hoạt trong quá trình TKBG, thực hiện bài giảng tuỳ thuộc
vào những điều kiện cụ thể của chương trình, nội dung, môi trường nhà
trường, chúng ta có thể đạt được những hiệu quả nhất định.
Cần tiến hành thay thế các PPDH truyền thống bằng các PPDH tích
cực, cũng như việc thay thế TKBG truyền thống bằng việc TKBG có ứng
dụng CNTT.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
Chƣơng 2
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TRONG THIẾT KẾ BÀI GIẢNG ĐỊA LÍ LỚP 11 THPT
2.1. CƠ SỞ, NGUYÊN TẮC VÀ PHƢƠNG HƢỚNG THIẾT KẾ BÀI
GIẢNG ĐỊA LÍ CÓ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
2.1.1.Cơ sở thiết kế bài giảng Địa lí
Để có thể tiến hành TKBG đạt hiệu quả, GV phải dựa vào cơ sở chủ
yếu sau:
* Dựa vào mục đích, yêu cầu của bài học( yêu cầu về giáo dục, về lý
luận dạy học và yêu cầu của bộ môn Địa lí ):
- Về giáo dục: Nội dung bài giảng phản ánh trình độ phát triển của khoa
học Địa lí hiện nay, đáp ứng nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ tức là thông qua bài
giảng để hình thành ở HS thế giới quan khoa học, nhân sinh quan đúng đắn và
lòng yêu quê hương, đất nước.
- Về lý luận dạy học:
+ Ngoài một số điểm chung, mỗi bài giảng Địa lí đều có những cấu trúc
riêng, phụ thuộc vào nội dung, nhiệm vụ, mục đích và loại hình của nó, như:
Bài nghiên cứu kiến thức mới có những nét khác cơ bản với bài ôn tập, bài
thực hành... ở trường phổ thông hiện nay người ta thường cấu trúc các bài học
Địa lí theo các bước: Kiểm tra kiến thức cũ, trình bày kiến thức mới, khái
quát hoá, ra bài tập.
+ Bài giảng đảm bảo tính toàn diện của kế hoạch Sư phạm: Xác định rõ
ràng mục đích của bài trong sự thống nhất giữa nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo
dục và phát triển.
+ Tổ chức hoạt động nhận thức, phát huy tính tích cực của HS trong
quá trình học tập, nhằm củng cố các kiến thức đã tiếp thu và biết vận dụng
kiến thức vào cuộc sống.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
+ Lựa chọn hợp lý các phương pháp và phương tiện dạy chủ yếu và
các phương pháp và phương tiện dạy cho từng phần (đơn vị kiến thức) của
bài.
- Về yêu cầu của bộ môn: Xác định mục đích, yêu cầu của bài xuất
phát từ kiến thức khoa học, kĩ năng, kĩ xảo của chính nội dung bài học và
thông qua đó phát triển cho HS năng lực nhận thức. Vì vậy, mục đích, yêu cầu
của một bài phải bao gồm cả 3 mặt: Kiến thức, kĩ năng, nhận thức, hay nói rõ
hơn là: Mức độ nắm kiến thức, rèn luyện kĩ năng và phát triển tư duy. Cho
nên khi xác định nội dung của bài phải căn cứ vào bài học trong SGK Địa lí,
GV xác định các trọng tâm của bài, phân tích những kiến thức nào là cơ bản,
những khái niệm, quy luật cần nắm.
* Trình độ chuyên môn (kiến thức khoa học) của người giáo viên
Trình độ chuyên môn của người GV có ý nghĩa quyết định để TKBG
được tốt. Vì vậy, trước hết người GV Địa lí phải có trình độ vững vàng về
mặt khoa học Địa lí. Thời gian học tập ở trường sư phạm hạn chế, các giáo
trình không thể cung cấp đầy đủ những kiến thức trong lĩnh vực khoa học Địa
lí. Hơn nữa, trong xu thế phát triển của khoa học kỹ thuật (nói chung) và của
khoa học Địa lí (nói riêng) các kiến thức luôn luôn mở rộng phát triển. Nếu
người GV không tiếp tục nghiên cứu, học tập, tham khảo thêm những sách về
khoa học Địa lí, thì sẽ không thể tự bổ sung được những kiến thức mới và sẽ
trở thành lạc hậu.
Ngoài kiến thức về khoa học Địa lí, GV cũng cần phải có một số kiến
thức liên ngành như: Triết học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, chính trị
kinh tế học, chủ nghĩa xã hội khoa học, quan điểm đổi mới của Đảng trong
giai đoạn hiện nay và các lĩnh vực thuộc khoa học xã hội khác (Kinh tế học,
xã hội học, lịch sử, văn hoá... ).
* Khả năng sư phạm( tiềm năng nghề nghiệp ) của người giáo viên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
Nếu người GV chỉ có trình độ chuyên môn cao mà không có nghiệp vụ
sư phạm vững vàng thì việc TKBG (soạn giáo án) khó có thể tốt. Một nhà khoa
học giỏi có thể chưa phải là một GV tốt. Vì rằng, nắm vững tri thức khoa học là
một việc, việc truyền tri thức đó cho HS và tạo điều kiện cho HS lĩnh hội được
tốt (đạt được mục đích dạy học) lại là một việc khác.
Để làm được điều đó, đòi hỏi GV phải nắm được tâm sinh lí của HS,
đặc biệt là tâm sinh lí lứa tuổi. Nắm được quy luật của quá trình giảng dạy,
giáo dục thích hợp. Vì thế, muốn TKBG tốt thì người GV không chỉ cần giỏi
về khoa học Địa lí mà phải cần có khả năng (kỹ năng) sư phạm (nghiệp vụ).
Những kiến thức về lĩnh vực khoa học Sư phạm như: Tâm lý học, giáo
dục học, lý luận dạy học Địa lí và đặc biệt là xu thế phát triển của chính các
khoa học này trong giai đoạn hiện nay (những quan điểm, xu hướng dạy học
mới, việc ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong xu thế phát triển của
xã hội: Sử dụng băng video, chương trình vi tính...) người GV cũng cần phải
nắm được.
Tất cả những phẩm chất trên có ảnh hưởng rất lớn đến việc TKBG, đến
đổi mới PPDH, để nâng cao chất lượng dạy - học địa lí ở trường phổ thông,
đến sự say mê, thích thú học tập bộ môn Địa lí của HS, đến việc đáp ứng
được những nhu cầu thực tiễn của xã hội đòi hỏi đối với việc đào tạo thế hệ
trẻ. Nhưng điều có tính quyết định hơn cả vẫn là việc vận dụng những kiến
thức đó vào thực tiễn giảng dạy. Ngoài ra những công việc đúc kết trong quá
trình giảng dạy Địa lí từ năm này qua năm khác cũng giúp GV sáng tỏ thêm
các vấn đề lý luận đã nắm và có điều kiện bổ sung, phát triển thêm lý luận dạy
học (nói chung) và lý luận dạy học Địa lí (nói riêng). Song trước hết những
công việc đó sẽ giúp cho GV TKBG và thực hiện bản thiết kế đó trên lớp (bài
giảng) đạt được chất lượng cao.
* Những điều kiện về phương tiện, thiết bị kỹ thuật dạy học Địa lí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
Theo quan điểm cấu trúc hệ thống thì phương tiện dạy học là một nhân
tố quan trọng trong quá trình dạy học (nói chung) và trong TKBG (nói riêng),
nó cùng với các yếu tố khác như: Nội dung dạy học, hoạt động của GV, HS....
tạo thành một chỉnh thể và có quan hệ biện chứng trong khi TKBG và tiến
hành bài giảng đạt hiệu quả.
Ngoài ra, phương tiện dạy học còn là một bộ phận không thể thiếu được
trong khi TKBG. Nó giúp cho GV điều khiển hoạt động nhận thức của HS,
còn đối với HS là phương tiện lĩnh hội tri thức và rèn luyện kĩ năng khi tiếp
thu bài giảng.
Thông qua việc sử dụng các phương tiện thiết bị dạy học, GV còn giúp
HS đào sâu tri thức đã lĩnh hội được và kích thích hứng thú nhận thức, năng
lực quan sát, phân tích, tổng hợp để rút ra những kết luận cần thiết. Bên cạnh
đó, phương tiện dạy học cũng giúp cho GV thêm những điều kiện thuận lợi để
trình bày bài giảng một cách tinh giản, đầy đủ, sâu sắc... điều khiển hoạt động
nhận thức của HS cũng như kiểm tra, đánh giá kết quả học tập được thuận lợi
hơn, có hiệu quả hơn.
Đặc biệt, trong thời đại ngày nay với xu thế phát triển tất yếu của khoa
học, kỹ thuật, CNTT các phương tiện thiết bị dạy học hiện đại đã thâm nhập
sâu vào nhà trường, chúng không những làm thay đổi các PPDH truyền thống
mà còn làm thay đổi quan niệm về nhiều vấn đề trong dạy học... trong đó có
tác động trực tiếp đến TKBG cụ thể là vai trò của GV và HS có những điểm
khác so với TKBG trước đây. Vì vậy, có thể nói các phương tiện dạy học Địa
lí hiện đại, đồng bộ nếu được sử dụng đúng đắn không những sẽ góp phần
tích cực vào việc nâng cao hiệu quả bài giảng mà còn làm thay đổi việc soạn
giáo án hay nói cách khác làm thay đổi cấu trúc của chính bản TKBG.
* Những yêu cầu đối với việc thiết kế một bài giảng Địa lí cụ thể
- Về giáo dục:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
Phải góp phần vào việc hình thành thế giới quan khoa học, giáo dục
tư tưởng, đạo đức và những phẩm chất khác theo mục tiêu giáo dục đề ra.
Phải bồi dưỡng cho HS quan điểm duy vật lịch sử, tư duy kinh tế, tư duy sinh
thái.
-Về khoa học và phương pháp giảng dạy:
Bài giảng Địa lí phải đảm bảo toàn diện của kế hoạch dạy học, xác
định chính xác và rõ ràng mục đích của bài học trong sự thống nhất giữa các
nhiệm vụ thuộc lý luận dạy học, giáo dục và yêu cầu bộ môn. Lựa chọn đúng,
hợp lí các nguồn kiến thức, các phương tiện và những PPDH đối với từng
phần của bài.
Tổ chức tốt hoạt động nhận thức, nhằm củng cố các kiến thức, kĩ năng
đã học để tiếp thu kiến thức mới và vận dụng vào cuộc sống.
- Phát triển tư duy:
Bài giảng Địa lí phải là cơ sở hình thành, rèn luyện và phát triển năng
lực tư duy lãnh thổ và tư duy liên hệ, tổng hợp cho HS trên cơ sở kiến thức
khoa của bộ môn Địa lí "Không có nội dung, không có tri thức thì không thể
có tư duy"
- Về kĩ năng:
Kĩ năng Địa lí là một thành tố trong kiến thức địa lí. Vì vậy, HS phải
nắm được kiến thức lí thuyết rồi sau đó mới đến kiến thức thực hành và với
các cách thức thực hiện.
2.1.2. Nguyên tắc thiết kế bài giảng Địa lí có ứng dụng công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật phát triển, đặc biệt là sự đời của máy tính đã góp
phần tạo ra sự thay đổi lớn lao của xã hội. Đối với ngành GD-ĐT việc đưa
máy tính và ứng dụng tin học vào giảng dạy là một điều kiện thiết yếu để hiện
đại hoá giáo dục, đáp ứng việc thực hiện những yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ
mà ngành Giáo dục đặt ra. Đối với môn Địa lí trong nhà trường phổ thông,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy và TKBG sẽ tạo ra nhiều thuận lợi cho
việc dạy-học.
Trong chương trình Địa lí nói chung và Địa lí lớp 11 THPT nói riêng có
nhiều loại bài giảng khác nhau (Bài giảng kiến thức mới, bài thực hành, bài
ôn tập... ) nhưng để ứng dụng CNTT vào TKBG một cách có hiệu quả thì cần
phải tuân theo những nguyên tắc sau:
- Phải đảm bảo đầy đủ nội dung cơ bản của bài học theo đúng quy định
của Bộ GD-ĐT.
- Người GV phải nắm vững những điều kiện dạy học và trình độ học
vấn của HS. Có như vậy mới có thể đưa ra những phương pháp phù hợp giúp
HS đạt được những yêu cầu của bài theo mục tiêu đề ra.
- Bản TKBG phải được tiến hành trên cơ sở những định hướng mục
tiêu Giáo dục chung của đất nước. Đồng thời phải thể hiện được sự đổi mới
trong PPDH để có thể phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của HS, khơi gợi ở các em sự ham học, tình yêu quê hương đất nước và học
tập, phấn đấu vì sự phồn vinh của Tổ quốc.
- Chọn và trình bày kiến thức một cách ngắn gọn: Các kiến thức cơ bản
của bài khi đưa vào máy tính (Microsoft PowerPoint) phải được trình bày một
cách gắn gọn, dễ hiểu. Chú ý sử dụng sơ đồ, bảng biểu, các mũi tên chỉ mối
liên hệ các ô chữ nhỏ để trình bày kiến thức, tránh viết dài dòng. Đồng thời
phải lưu ý bố cục làm nổi bật tính trực quan, dễ đọc, gây ấn tượng.
- Sắp xếp các ô trình diễn (Slide) một cách khoa học: Các ô trình diễn
tiếp nối ở Microsoft Power Point phải thể hiện logic cấu trúc bài dạy học, do
đó phải bao gồm cả kênh chữ lẫn kênh hình, cả câu hỏi và nhiệm vụ giao cho
HS lẫn các đoạn kết luận, giải thích gắn gọn. Việc sắp xếp các thành phần này
như thế nào là do ý tưởng về PPDH của GV. Tuy nhiên để phát huy tính tích
cực học tập của HS cần tránh trình chiếu “ một chiều” các kiến thức. Cần phải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
thiết kế bài dạy theo một cấu trúc nội dung hợp lí xen với các câu hỏi, nhiệm
vụ một cách thích hợp để tạo điều kiện hướng dẫn HS làm việc với biểu đồ,
bảng số liệu, tranh ảnh, hình vẽ, từ đó các em rèn luyện được kĩ năng quan
sát, phân tích, tổng hợp, khái quát...
- Giới hạn mở rộng phần minh hoạ: Các hình ảnh (bản đồ, Biểu đồ, tranh
ảnh... ) và các kiến thức khác kết nối với bài học chủ yếu có tác dụng bổ sung,
mở rộng, đi sâu hoặc minh hoạ các kiến thức cơ bản của bài. GV cần lưu ý
phạm vi mở rộng, đi sâu đến đâu cũng cần phải tránh làm loãng trọng tâm của
bài học và phân tán sự chú ý của HS vào kênh chính của bài học.
- Kết hợp linh hoạt các PPDH, hình thức tổ chức dạy học với sử dụng
Microsoft Power Point.
Trình diễn Microsoft Power Point có tác dụng tốt do vậy cần phải sử
dụng Power Point kết hợp với bài giảng, trình bày, đặt câu hỏi...hướng dẫn cụ
thể của GV. Đồng thời trong bài dạy không phải chỉ sử dụng Power Point từ
đầu đến cuối giờ học mà có thể xen kẽ với các phương tiện dạy học khác như:
Phiếu học tập, Átlat địa lí, sách giáo khoa, mẫu vật... để HS trình bày kết quả
làm việc của mình trước lớp một cách thuận lợi. Các hoạt động của HS với
Power Point như cá nhân, theo nhóm nhỏ, nhóm cặp đôi, trò chơi học tập
cũng cần được sử dụng một cách linh hoạt.
2.1.3. Phƣơng hƣớng thiết kế bài giảng Địa lí có ứng dụng công nghệ thông
tin
- Tiếp tục đẩy mạnh việc tiếp tục sử dụng các phương tiện thiết bị kĩ
thuật hiện đại để phục vụ cho việc TKBG và Địa lí.
- Sử dụng có hiệu quả các PPDH để góp phần nâng cao hiệu quả
Giáo dục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
- Bản TKBG thực sự là nguồn tri thức, là phương tiện để tiến hành dạy
học chứ không phải là phương tiện trực quan.
- Cần tăng cường khả năng sử dụng máy vi tính và ứng dụng Tin học
trong TKBG cho GV Địa lí. Đồng thời nâng cao khả năng học tập với CNTT
cho HS để ngày càng nhân rộng việc học tập cũng như giảng dạy có sử dụng
CNTT.
2.2. ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG THIẾT KẾ BÀI GIẢNG
2.2.1. Giới thiệu tổng quan một số phần mềm hỗ trợ TKBG
2.2.1.1.Bộ Microsoft Office
Microsoft Office là một phần mềm bao gồm các chương trình ứng dụng
có thể sử dụng một cách riêng lẻ và được thiết kế theo nhóm. Các chương
trình ứng dụng có thể được sử dụng để tạo trao đổi thông tin và quản lí các dự
án. Phần mềm Microsoft Office này được đóng gói trong một tập hợp bao
gồm các thành phần khác nhau( Word, Excel, Access, Power point, Outlook
Express, Fontpage). Trong đó 4 phần chính của bộ Microsoft Office này là:
- Microsoft Word: Công cụ soạn thảo văn bản
- Microsoft Excel: Bảng tính điện tử
- Microsoft Access: Hệ quản trị cơ sở dữ liệu
- Microsoft Power Point: Công cụ trình chiếu
Tất cả các thành phần này đều có tiện ích trong các công đoạn của
TKBG như: Soạn thảo, tính toán, xử lí số liệu, xây dựng biểu đồ, quản lí số
liệu, trình diễn bài giảng…
2.2.1.2. Hệ thống thông tin Địa lí GIS (Geographic Information System)
Hệ thống thông tin Địa lí GIS ra đời đầu thập kỉ 70 của thế kỉ XX và
ngày càng phát triển trên nền tảng của công nghệ máy tính, phân tích dữ liệu
không gian và quản lí dữ liệu. GIS là một tổ hợp bao gồm phần cứng, phần
mềm máy tính, dữ liệu và được con người thiết kế nhằm nắm bắt, lưu trữ, cập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
nhật thông tin, điều khiển, phân tích, kiết xuất tất cả các dạng thông tin có
liên quan đến Địa lí. Vì vậy, GIS đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát
triển của khoa học Địa lí:
- Tích hợp thông tin không gian và các loại thông tin khác về không
gian trong cùng một hệ thống đơn giản. Nó đưa ra một khuôn mẫu nhất quán
để phân tích thông tin Địa lí.
- Cho phép trình bày và tính toán các kiến thức địa lí theo một cách
mới, hấp dẫn
- Cho phép nối các hoạt động có sự khác nhau về kiến thức địa lí.
GIS có những khả năng: Vị trí( Location ): quản lí và cung cấp vị trí của các
đối tượng theo yêu cầu bằng các cách khác nhau như tên địa danh, mã vị trí
hoặc toạ độ; Điều kiện( Condition ): thông qua các dữ liệu không gian cung
cấp và các sự kiện tồn tại hoặc xảy ra ở một địa điểm nhất định hoặc xác định
các đối tượng thoả mãn các điều kiện đặt ra; Chiều hướng( Trend ): Cung cấp
hướng thay đổi của đối tượng thông qua phân tích các dữ liệu trong một vùng
lãnh thổ nghiên cứu theo thời gian; Kiểu mẫu( Pattern ): cung cấp mức độ sai
lệch của các đối tượng so với kiểu mẫu và nơi sắp đặt chúng đã có từ nguồn
khác; Mô hình hoá (Modeling): Cung cấp và xác định những gì xảy ra nếu có
sự thay đổi dữ liệu hay nói cách khác xác định xu thế phát triển của các đối
tượng. Ngoài thông tin địa lí, hệ thống caanf phải có thêm thông tin về các
quy luật hoặc nguồn thông tin thống kê.
Nhập dữ liệu từ những nguồn dữ liệu khác nhau, lưu trữ và duy trì
thông tin, thao tác trên dữ liệu, tìm kiếm, tính toán, lập mô hình ứng dụng,
trình diễn sản phẩm với những dạng khác nhau như bảng biểu, hình ảnh
video, ảnh số, bản đồ số…
Với những ưu điểm trên của GIS, GV Địa lí có rất nhiều thuận lợi để
khai thác các thông tin Địa lí trong quá trình TKBG và giảng dạy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
2.2.1.3. Chương trình MapInfo
MapInfo Là một chương trình phần mềm để xây dựng các hệ thống
thông tin Địa lí. Các thông tin trong Mapinfo được tổ chức theo từng bảng
(Table), mỗi một Table là một tập hợp các File về thông tin đồ hoạ hoặc phi
đồ hoạ chứa các bản ghi dữ liệu mà hệ thống tạo ra.Tổ chức thông tin theo các
lớp đối tượng là một tập hợp các đối tượng bản đồ thuần nhất, thể hiện quản lí
các đối tượng địa lí trong không gian theo một chủ đề cụ thể, phục vụ một
mục đích nhất định trong hệ thống. Với cách tổ chức thông tin theo từng lớp
đối tượng như vậy đã giúp cho phần mềm MapInfo xây dựng thành các khối
thông tin độc lập cho từng mảnh bản đồ máy tính. Vì vậy, GV có thể sử dụng
nghiên cứu hoặc xây dựng các bản đồ, kiết xuất các bản đồ để phục vụ công
tác giảng dạy (nói chung) và TKBG (nói riêng).
2.2.1.4. Các phần mềm tra cứu
- Encarta Wold Atlat: Là phần mềm có nhiều nội dung về Địa lí. Thông
qua các phần mềm này có thể khai thác nhiều nội dung kiến thức về các nền
KT-XH, văn hoá nghệ thuật, tôn giáo. Đồng thời nó còn chứa một kho dữ liệu
ảnh phong phú về các nức trên thế giới, các đoạn video clip có thể sao chép
một cách dễ dàng. Phần mềm này cho phép GV và HS khai thác được hệ thống
dữ liệu của các quốc gia trên thế giới để nghiên cứu về đặc điểm tự nhiên, KT-
XH cũng như sự phát triển của từng quốc gia theo chương trình học tập.
- Fc Fact: Là một phần mềm Địa lí có nhiều tư liệu quý và cần thiết đối
với giáo viên Địa lí. Phần mềm dễ sử dụng không đòi hỏi người sử dụng phải
biết nhiều tiếng Anh và sử dụng những lệnh phức tạp. Trong phần mềm này,
GV có thể khai thác nhiều loại bản đồ phục vụ cho giảng dạy như: Các loại
bản đồ hành chính, tự nhiên, KT-XH, dân số hay bản đồ để trống của từng
quốc gia, khu vực và phạm vi toàn thế giới. Ngoài ra, phần mềm còn cung cấp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
các tri thức Địa lí phong phú ở nhiều lĩnh vực cả tự nhiên, KT-XH (các tháp
tuổi dân số, biểu đồ số liệu dân số, kinh tế của tất cả các nước trên thế giới,
các tư liệu tóm tắt về lịch sử, hành chính, chính trị, bảng danh mục gần 10000
địa danh trên thế giới về núi, sông, biển, hồ...sơ đồ chỉ vị trí của khoảng 4500
thành phố trên thế giới, quốc kì, quốc ca các nước...).
- Các đĩa CD - Rom: Giới thiệu về du lịch Việt Nam và thế giới như:
Địa lí Việt Nam Atlats, 990 năm Thăng Long – Hà Nội, du lịch Huế, du lịch
Hạ Long, hành trình xuyên Việt, Di sản văn hoá thế giới, 5000 bức ảnh nghệ
thuật, Atlats môi trường Việt Nam...
2.2.1.5. Internet:
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật đã tác động tới tất cả các
lĩnh vực của nền KT-XH, làm cho khối lượng kiến thức của các ngành khoa
học tăng lên nhanh chóng trong đó có cả khoa học Địa lí. Sự bùng nổ thông
tin trên toàn thế giới hiện nay đã dẫn đến nguồn tri thức ngày càng đa dạng và
vô cùng phong phú. Chúng ta có thể lấy được nguồn tư liệu cần thiết từ bất cứ
đâu và từ nhiều phương tiện khác nhau, đặc biệt là từ Internet. Internet là một
kho lưu trữ khổng lồ về thông tin, truy cập cũng rất dễ dàng và thuận tiện. Sự
phát triển của CNTT (nói chung) và mạng Interet trên phạm vi toàn cầu (nói
riêng) đã tạo ra những điều kiện vô cùng thuận lợi đối với ngành GD-ĐT.
- Ý nghĩa của Internet trong dạy học Địa lí:
Có thể nói việc sử dụng Internet đã tạo ra nhiều cơ hội có ý nghĩa to lớn
trong việc dạy học Địa lí (nói chung) và việc thiết kế bài giảng Địa lí( nói
riêng).Với ưu thế của một nguồn thông tin khổng lồ, cập nhật, phong phú về
mọi thể loại, Internet góp phần phát triển mọi năng lực, tri thức phục vụ cho
việc giảng dạy của GV và học tập của HS.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
+ GV có thể khai thác từ Internet một khối lượng thông tin phong
phú dưới dạng văn bản, hình ảnh, âm thanh...để p hục vụ cho việc TKBG
hoặc dạy học.
+ Nhờ Internet GV có thể tiếp cận với các nguồn tư liệu về Địa lí KT-
XH thế giới, trong nước, thuận tiện hơn cho việc TKBG, soạn thảo các phiếu
học tập cho HS.
+ Với nguồn tri thức phong phú đa dạng từ Internet, GV có thể tìm
được những thông tin bổ sung có giá trị để giúp HS có thể hiểu bài một cách
sâu sắc hơn, hoàn thành các bài tập ở nhà, các báo cáo...
Sử dụng Internet như là một công cụ dạy học hiện đại (ở những nơi có
điều kiện) thì chính Internet góp phần thể hiện sự phong phú trong việc đổi
mới phương pháp theo hướng tích cực, hiện đại hoá người học - tức là dạy
học bộ môn Địa lí theo hướng thầy thiết kế - trò thi công. Rõ ràng việc thiết
kế bài giảng có sử dụng Internet đòi hỏi nhiều công phu của người thầy, đồng
thời lại có thể phát huy được trí tuệ của nhiều HS trong quá trình học tập. Lớp
học sẽ được tổ chức thành nhóm với các máy vi tính được nối mạng nội bộ và
Internet, học sinh sẽ thực hiện một nhiệm vụ học tập trong một khoảng thời
gian nhất định với sự giúp đỡ của GV. GV phải có các phần TKBG linh hoạt
để hỗ trợ cho HS đồng thời giúp đỡ HS tìm kiếm, lựa chọn đánh giá thông tin
và kết quả học tập. Như vậy, sẽ tạo cơ hội cho người học vừa làm việc độc
lập, vừa hợp tác, do đó kết quả của việc dạy học sẽ cao hơn rất nhiều.
- Khai thác Internet để TKBG Địa lí:
GV có thể lấy thông tin từ Internet nhằm bổ trợ, cập nhật nội dung kiến
thức SGK (vì tính chất của SGK là luôn lỗi thời so với thời điểm dạy học). Có
thể tìm kiếm ở Internet các bản đồ, hình ảnh phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp
cho bài học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
Một ưu thế trong TKBG có sử dụng Internet là khi máy tính nối mạng
thì ngay trong quá trình dạy học GV có thể khai thác thông tin trực tiếp, nói
đúng hơn là TKBG dạng mở phục vụ cho bài học.
Trong việc học tập của HS, với cách TKBG của GV có sử dụng
Internet thì HS có thể tìm thêm, tự nghiên cứu sâu hơn vấn đề mà GV đặt ra
trong bài học, hoặc ở SGK chưa thể hiện rõ ngay trên lớp hoặc về nhà.
Tuy nhiên để có thể sử dụng hiệu quả nguồn tư liệu từ Internet trong
bài học cũng như TKBG Địa lí, GV cần phải có phương pháp và kĩ thuật tìm
kiếm, lưu trữ thông tin. Đồng thời phải nắm được những phương pháp và kĩ
thuật xử lí thông tin thu thập được. Đây là vấn đề quan trọng với khối lượng
kiến thức hết sức phong phú và đa dạng đòi hỏi người GV phải lựa chọn
thông tin cần thiết, quan trọng đối với vấn đề, nội dung bài học. Do đó người
GV phải có năng lực đọc - hiểu, vận dụng hiệu quả có chọn lọc, nhận xét, phê
phán được vào TKBG.
Như vậy, TKBG có sử dụng Internet còn góp phần nâng cao năng lực
về mọi mặt cho GV cũng như phát huy năng lực trí tuệ, kỹ năng của HS. Tóm
lại, Internet là một công cụ đặc biệt đối với việc dạy học (nói chung) và dạy
học Địa lí (nói riêng), là nguồn tư liệu vô cùng quan trọng đối với việc TKBG
theo quan điểm dạy học mới tích cực. Vì thế, cần phải đẩy mạnh việc tăng
cường những kỹ năng dạy học và làm việc với máy vi tính nối mạng Internet
cho GV và HS cũng như đầu tư thêm về cơ sở vật chất kỹ thuật cho các
trường học. Điều đó sẽ góp phần to lớn trong việc nâng cao kỹ năng dạy học
của GV và khả năng tự học của HS cũng như hứng thú với bộ môn Địa lí.
Bảng 2.1: Một số địa chỉ Website cần thiết để giáo viên tham khảo
trong quá trình TKBG
Stt Địa chỉ Website
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
1 http//www.google.com.vn
2 http//www.Yahoo.com
3 http//www.vinaseek.com/
4
5 http//www.chinhphuc.vn
6
7
2.2.1.6. Phần mềm trắc nghiệm
Kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng của quá trình dạy học, nhằm
cung cấp thông tin phản hồi về kết quả của quá trình dạy học, đảm bảo tính
khép kín của quá trình và qua đó còn phát hiện ra những lệch lạc, khiếm
khuyết trong quá trình dạy và học để có kế hoạch điều chỉnh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong thiết kế bài giảng Địa lí lớp 11 Trung học phổ thông.pdf