LỜI CẢM ƠN .i
MỤC LỤC . ii
MỤC LỤC DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT. iii
DANH MỤC CÁC BẢNG.iv
DANH MỤC CÁC HÌNH .v
MỞ ĐẦU.1
Chương 1: Tổng quan .3
1.1.Vật liệu nano và ứng dụng.3
1.2. Hiện tượng truyền năng lượng cộng hưởng huỳnh quang (FRET) .5
1.2.1. Khái niệm. .5
1.2.2. Lịch sử phát triển FRET [11].7
1.2.3. Ứng dụng hiệu ứng FRET và chấm lượng tử làm nanosensor.14
Chương 2. Kỹ thuật thực nghiệm .17
2.1. Kỹ thuật đo hấp thụ .17
2.2. Kỹ thuật đo huỳnh quang .19
2.3. Kỹ thuật đo huỳnh quang phân giải thời gian .20
2.3.1. Quang phổ phân giải thời gian và thời gian sống phát quang .20
2.3.2. Hệ đo huỳnh quang phân giải thời gian - TCSPC .23
Chương 3: Kết quả và thảo luận .27
3.1. Quá trình truyền năng lượng giữa AuNPs với phân tử Rh6G.27
3.2. Quá trình truyền năng lượng giữa Rhodamin 6G và chấm lượng tử CdSe/ZnS .33
KẾT LUẬN .38
TÀI LIỆU THAM KHẢO.39
46 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 28/02/2022 | Lượt xem: 469 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ứng dụng phương pháp quang phổ phân giải theo thời gian nghiên cứu quá trình truyền năng lượng cộng hưởng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Nếu cả
hai nguyên tử đều ở trạng thái cơ bản, lực London luôn là lực hút, hơn nữa, nếu các
nguyên tử tương tác không phải là hình cầu đối xứng có phân cực đẳng hướng, định
hướng tương đối của chúng sẽ ảnh hưởng đến sự tương tác (giống như sự phụ thuộc
định hướng của FRET). Tương tác van der Waals đơn giản (không tính đến thế năng
liên quan đến hiệu ứng Casmir theo lý thuyết của London giảm theo R6, trong đó R là
khoảng cách giữa các nguyên tử; điều này cũng giống nhau khoảng cách phụ thuộc
như FRET giữa hai phân tử huỳnh quang.
Lý thuyết của J. Perrin và F. Perrin
Mô hình J. Perrin (1925): Ông giả thuyết rằng việc truyền năng lượng kích
thích có thể nhảy từ một phân tử tới một phân tử khác thông qua tương tác giữa các
dao động lưỡng cực của các phân tử gần nhau. Theo lý thuyết cổ điển một phân tử kích
thích sẽ dao động ở tần số tương ứng với cường độ của năng lượng kích thích
9
Eexit= h, là sự sai khác giữa hai mức năng lượng. Các phân tử tương tác như trường
dipole điện Hertzian (1888);
Dipole Hertzian dao động như là một dipole tĩnh. Perrin giả định rằng nếu các
phân tử được phân cách bởi khoảng cách đủ nhỏ, năng lượng có thể được chuyển cho
phân tử acceptor không phát xạ. Ông gọi đây là ''transfert d'activation''.
Mô hình F. Perrin
F. Perrin (con trai của J. Perrin) là một trong những người tiên phong về huỳnh
quang (1929), Ông mở rộng J. Perrin lý thuyết truyền giao năng lượng bằng cách phát
triển một mô hình cơ học lượng tử (Perrin, 1932; Perrin, 1933). Tuy nhiên, ông kết
luận, cũng như J. Perrin, rằng tốc độ truyền tỷ lệ thuận với 1/R3; điều này dẫn đến việc
truyền năng lượng ở khoảng cách dài hơn đã được tìm thấy bằng thực nghiệm. F.
Perrin cũng xem xét tới va chạm giữa các phân tử huỳnh quang và các phân tử dung
môi, cũng như hiệu ứng Doppler (Perrin, 1932; Perrin, 1933). Những va chạm này mở
rộng phổ sự hấp thụ và phát xạ của các phân tử, vốn J. Perrin giả thiết là hẹp để đảm
bảo hiệu suất tương tác. Các hiệu ứng va chạm và Doppler như vậy là chủ đề của
nhiều nghiên cứu quang phổ trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ 19 và cũng đã được
Kallmann và London nghiên cứu ở pha hơi. Các mở rộng quang phổ là quan trọng vì
lý do sau đây. Năng lượng bị mất bởi donor chính xác bằng năng lượng thu được của
acceptor. Mỗi phân tử chỉ có một xác suất va chạm nhất định. Điều này làm giảm khả
năng cộng hưởng, bởi vì phải có hai lưỡng cực tương tác để có quá trình truyền năng
lượng. F. Perrin đã sử dụng lý thuyết phổ va chạm mở rộng cho truyền năng lượng ở
khoảng cách mới giảm xuống còn khoảng [(/ 2) (t/)]1/6 trong đó t là thời gian giữ
hai lần va chạm; là thời gian sống huỳnh quang
Lý thuyết của Förster's.
Trên cở sở các công trình của các nhà khoa học tiền bối Theodor Förster đã
phát triển lý thuyết truyền năng lượng cộng hưởng huỳnh quang xuất bản và công bố
qua hàng loạt công bố từ 1946-1951.
1.2.3. Cơ sở lý thuyết của hiệu ứng FRET.[9,12]
Sự kích thích trên một ion có thể lan truyền sang một ion cùng loại khác sang một
trạng thái cơ bản là một kết quả của sự truyền năng lượng cộng hưởng (FRET) khi
chúng được định xứ gần nhau. Khoảng cách giữa các ion mà tại đó xác suất của quá
10
trình huỳnh quang và năng lượng trở nên cạnh tranh nhau là cỡ vài Angstrom. Sơ đồ
của quá trình truyền năng lượnđg cộng hưởng mô tả như hình dưới:
Hình 1.2: Giản đồ Jablonski mô tả hiệu ứng FRET
Trong quá trình truyền năng lượng cộng hưởng huỳnh quang, phân tử huỳnh
quang donor hấp thụ năng lượng tưng ánh sáng tới chuyển lên trạng thái kích thích.[9]
Năng lượng kích thích này truyền cho phân tử huỳnh quang acceptor lân cận. Quá
trình truyền năng lượng này tự nó sẽ làm giảm huỳnh quang của donor (dập tắt) và
tăng cường độ huỳnh quang acceptor đồng thời giảm thời gian sống huỳnh quang
donor
D + h → D*+
D* + A → D +A*
A* →A + h’
D: donor; A: acceptor; dấu “*” kí hiệu trạng thái kích thích
Một số điều kiện cần phải được thỏa mãn để cho FRET xảy ra đó là:
(i) Phổ phát xạ huỳnh quang của các phân tử donor phải chồng lên phổ hấp
thụ hoặc kích thích của chất màu nhận. Mức độ chồng chập lên nhau được gọi là phổ
chồng lên nhau tích hợp (J).
(ii) Donor phải có cường độ huỳnh quang mạnh.
(iii) Hai chất này (donor và acceptor) phải ở khoảng cách gần nhau (thường 1
đến 10 nanomet).
11
(iv) Các lượng cực điện (dipole) của các donor và acceptor phải gần như
song song với nhau.
(v) Thời gian sống huỳnh quang của các phân tử các donor phải có khoảng
thời gian đủ để cho hiệu ứng FRET xảy ra.
Hình 1.3: Phổ hấp thụ và phổ huỳnh quang của một cặp chất Donor và
Acceptor
Hình 1.3. Phổ hấp thụ và phổ huỳnh quang của một cặp chất Donor và
Acceptor. Khu vực màu đậm là sự chồng quang phổ gữa quang phổ huỳnh quang của
các donor và phổ hấp thụ của acceptor.[9]
Hiệu suất truyền năng lượng FRET tỉ lệ với nghịch đảo mũ 6 khoảng cách
donor-acceptor
(1.1)
Trong đó R0 là bán kính Förster – là khoảng cách mà ở đó năng lượng
truyền được 50%.
Bước sóng (nanomet)
C
ư
ờ
n
g
đ
ộ
12
Hình 1.4: Hiệu suất truyền năng lượng FRET được vẽ như hàm khoảng
cách cặp donor-acceptor, khoảng cách R0 là khoảng cách mà hiệu suất truyền băng 50%
(1.2)
Bán kính Förster R0 phụ thuộc vào hiệu suất lượng tử huỳnh quang của donor
(D) khi không có mặt acceptor (fd), chiết suất của dung môi (η), góc định hướng
lưỡng cực của phân tử (K2 ) và sự chồng chập phổ của donor-acceptor (J)
(1.3)
Hiệu suất truyền năng lượng cũng có thể xác định thông qua cường độ huỳnh
quang theo biểu thức:
(1.4)
Trong đó FD là cường độ huỳnh quang của donor; FDA cường độ huỳnh quang
của donor khi có mặt acceptor
Hiệu suất truyền năng lượng cũng có thể xác định thông qua thời gian sống
huỳnh quang theo biểu thức
(1.5)
H
iệ
u
s
u
ấ
t
tr
u
y
ền
n
ă
n
g
Khoảng cách (Angstorm)
13
Trong đó DA là thời gian sống huỳnh quang của donor khi có mặt acceptor; D
là thời gian sống huỳnh quang của donor khi không có mặt acceptor
Tóm lại, tỷ lệ FRET phụ thuộc vào mức độ chồng chập quang phổ giữa các cặp
cho – acceptor (hình 1.3), hiệu suất lượng tử của các chất cho, định hướng tương đối
của các donor– acceptor, những khoảng cách chuyển tiếp lưỡng cực và khoảng cách từ
các donor tới acceptor. Bất kỳ quá trình nào có ảnh hưởng đến khoảng cách giữa các
cặp chất cho- acceptor cũng sẽ ảnh hưởng đến hiệu suất của FRET.
Phát hiện hiệu ứng truyền năng lượng cộng hưởng huỳnh quang (FRET):
Việc phát hiện và định lượng hiệu ứng FRET có thể được thực hiện trong một
số cách khác nhau. Đơn giản chỉ cần hiện tượng này có thể được quan sát bởi một mẫu
vật có chứa cả các donor và các phân tử acceptor với ánh sáng phát ra ở các bước sóng
trung tâm gần với phát xạ. Bởi vì FRET có thể dẫn đến giảm cường độ huỳnh quang
của các phân tử donor cũng như tăng cường độ huỳnh quang của acceptor, nên khi xác
định tỷ lệ số liệu của hai tín hiệu có thể phát hiện được hiệu ứng FRET có xảy ra hay
không [12].
Ưu điểm của phương pháp này là một thước đo của sự tương tác có thể được
thực hiện là độc lập với nồng độ tuyệt đối của cảm biến. Bởi vì không phải tất cả các
gốc acceptor đều phát huỳnh quang, nên chúng có thể được sử dụng như một phương
tiện để dập tắt huỳnh quang. Trong trường hợp này, những tương tác mà kết quả trong
một phân tử các chất huỳnh quang cho đến gần phân tử như vậy sẽ dẫn đến một sự mất
mát tín hiệu.
Hình 1.5: Quang phổ huỳnh quang của donor và acceptor và dung dịch
hỗn hợp của donor và acceptor
Khoảng cách (Angstorm)
C
ư
ờ
n
g
đ
ộ
14
Trong Hình 1.5, huỳnh quang của acceptor tăng gần sáu lần khi có sự hiện diện
của chất cho. Trong trường hợp, như huỳnh quang các donor trở thành 1/3 huỳnh
quang các chất cho. Sự thay đổi cường độ huỳnh quang là bằng chứng hình ảnh rõ
ràng của FRET. Các quang phổ huỳnh quang đã được ghi nhận là sự phát huỳnh quang
của donorvà nhận. Đây là hiệu ứng FRET sử dụng các chất 3-octadecyl-2[3-octadecyl-
2(3H)-benzothizolidene) metyl] benzoth) metyl] benzothiazolium perchlorate (chất
cho), Octadecyl rhodamine B (acceptor).
1.2.4. Ứng dụng hiệu ứng FRET và chấm lượng tử làm nanosensor
Nanosensor là cảm biến được xây dựng ở cấp độ nano, với mục đích chủ yếu là
để thu thập số liệu về quy mô nguyên tử và chuyển nó thành dữ liệu có thể dễ dàng
phân tích. Các cảm biến này cũng có thể được định nghĩa là “Một cảm biến hóa học,
cảm biến vật lý, cảm biến sinh học sử dụng các thành phần có kích thước nano, thông
thường là từ kích thước micromet tới nanomet”. Những cảm biến này có độ nhạy cực
kỳ cao và có thể phát hiện các hạt đơn lẻ hoặc thậm chí nồng độ cực thấp dư lượng
một chất nguy hiểm tiềm tàng còn sót lại. Vì hiện nay công nghệ này đã và đang được
nghiên cứu ở rất nhiều hướng khác nhau nên rất khó để có thể cho một định nghĩa duy
nhất về những gì chính xác là một nanosensor.[12]
• Nanosensor xác định DNA
Cũng như nguyên lý của hiệu ứng FRET, các nhà khoa học đang trong giai
đoạn tạo ra loại sensor DNA nano bằng việc sử dụng Qds để xác định các DNA. Trong
kỹ thuật này, các phát minh đã sử dụng QDs là chất CdSe-ZnS được chế tạo bằng kỹ
thuật lõi-vỏ làm donor. Trên bề mặt của chấm lượng tử được biến tính hoạt hóa bằng
chất Streptavisin. Tiếp theo cho chất huỳnh quang Cy5.5 và Biotin tác dụng với chất
Oligonucleotit tạo thành hai tác nhân hoạt hóa với vai trò khác nhau: tác nhân thông
tin (Reporter probe) và tác nhân liên kết (Capture probe). Hai nhóm phân tử chức năng
này liên kết với phân tử DNA cần xác định (mục đích DNA). Cụm phân tử hai chức
năng thông tin và kết hợp có chứa DNA, liên kết với QDs đã biến tính (Steptavidin
Conjugated QDs), tạo thành biosensor DNA nano. Biosenssor DNA nano này có nhóm
biotin kết hợp với chất Steptavidin trên bề mặt QDs. Nhờ vậy hiệu ứng FRET được
15
phát huy. Bằng phương pháp này, ta có thể kiểm chứng được DNA nhanh và độ chính
xác cao[12,13,14]. Hình 1.6 là mô hình cơ chế hoạt động của biosensor DNA nano.
Hình 1.6: Mô hình cơ chế hoạt động của biosensor DNA nano QDs (a,b)
và hiệu ứng kiểm tra (c).
Nhìn chung, biosensor nano hiệu ứng FRET dùng chất phát huỳnh quang QDs
có nhiều ưu điểm so với huỳnh quang hữu cơ. Vì vậy nhiều loại biosensor để xác định
ảnh invivo được nghiên cứu chế tạo.
• Sử dụng nanosensor trong nghiên cứu Enzim
Giáo sư Gae Baik Kim và Young-Pil Kim cùng các cộng sự taị đại học
Hanyang Hàn Quốc cũng nghiên cứu và phát triển phép phân tích Enzim Protease
bằng nanosensor sử dụng chấm lượng tử có hiệu ứng FRET. Nghiên cứu này cho thấy
việc phát triển hoạt động của protease dựa trên sự truyền năng lượng của các chấm
lượng tử. Bằng cách kết hợp một số loại protease vào thiết kế của dạng QDs có cấu
trúc truyền năng lượng cộng hưởng huỳnh quang (FRET) và truyền năng lượng cộng
hưởng phát quang sinh học (BRET), hoạt động của protease dẫn đến những thay đổi
trong hiệu suất truyền năng lượng. Đặc biệt là do đặc tính vượt trội của QDs, nó có thể
16
được xem như là một tác nhân nhận biết protease với độ nhạy cao. Người ta dự đoán
rằng QDs dựa trên FRET/BRET như một đầu dò sẽ có một tiềm năng lớn trong việc
phân tích vai trò cơ bản của protease và có khả năng chế tạo loại thuốc ức chế protease
như thuốc điều trị sinh học dạng nano [12,13,14].
FRET là kỹ thuật phổ biến nhất được sử dụng trong các ứng dụng cảm biến
sinh-hóa hiện nay bởi độ nhạy cao, khả năng phục hồi trạng thái tốt, và khả năng quan
sát trong thời gian thực. Phương pháp thông thường để phát hiện để phát hiện hoạt
động protein được dựa trên phát huỳnh quang với các liên kết peptide hữu cơ. Ví dụ
cho hoạt động protease là đầu dò tự động, đầu dò mang màu kép, và đầu dò dựa trên
các photon hiệu ứng FRET, như mô tả hình 1.7.
Tuy nhiên, việc phát huỳnh quang hữu cơ thường gặp một vài vấn đề chẳng hạn
như hình ảnh bị tẩy trắng, độ nhạy ảnh hưởng bởi môi trường, khó khăn trong việc
phân tích tổ hợp donor và acceptor. Như đã nói trên, những vấn đề trong các nghiên
cứu về FRET có thể được khắc phục khi có phổ huỳnh quang thích hợp hoặc dập tắt
được sử dụng thích hợp với chấm lượng tử (QDs).(hình 1.7). Từ QDs có dải hấp thụ
rộng và phổ phát xạ hẹp cũng như sự ổn định quang cao, sẽ có thuận lợi trong việc
theo dõi lâu dại và cho phép phát hiện, QDs thường được sử dụng như các donor trong
khi các phân tử nhận năng lượng huỳnh quang (chất dập tắt) thường là một peptide
được biến tính thích hợp [12-13-14].
Hình 1.7: Sơ đồ cảm biến FRET cơ bản để phát hiện các protease hoạt động
(A) Quá trình FRET thông thường (B) FRET sử dụng QDs. D và A là chất cho và
nhận tương ứng
17
Chương 2
KỸ THUẬT THỰC NGHIỆM
2.1. Kỹ thuật đo hấp thụ
Phổ hấp thụ là một công cụ hữu ích trong việc nghiên cứu sự tương tác của vật
liệu với ánh sáng chiếu vào, qua đó, có thể biết được thông tin về các quá trình hấp thụ
xảy ra tương ứng với các chuyển dời quang học từ một số trạng thái cơ bản ni đến một
số trạng thái kích thích nj, từ đó có thể xác định được bước sóng kích thích hiệu quả
cho quá trình quang huỳnh quang (j–i) quan tâm. Môi trường vật chất hấp thụ ánh sáng
tuân theo định luật Beer–Lambert:
I (ν) = I0(ν)e – α (ν )d (2.1)
trong đó: I0(ν) và I(ν) là cường độ ánh sáng tới và cường độ truyền qua mẫu
vật chất, d là độ dày của mẫu và α(ν) là hệ số hấp thụ vật liệu đối với photon có năng
lượng hν (hay hc/λ, với c là vận tốc ánh sáng).
Muốn xác định hệ số hấp thụ α(ν), người ta lấy in hai vế (2.1), được:
Ln [I0(ν) /(I (ν)] = α(ν)d𝛼(𝜈)𝑑 (2.2)
Phổ hấp thụ biểu diễn đồ thị hệ số hấp thụ α (hay độ hấp thụ A) theo bước sóng
hay năng lượng của photon đi qua vật chất. Như vậy, hệ số hấp thụ lớn tại một bước
sóng nào đó cho thấy photon có năng lượng tương ứng bị vật chất hấp thụ mạnh, phần
ánh sáng truyền qua có cường độ yếu. Ý nghĩa của hệ số hấp thụ bằng 1 là khi ánh
sáng truyền qua một môi trường có độ dày 1 cm, cường độ sẽ bị suy giảm đi e (~2,7)
lần. Hai đại lượng I0(ν) và I (ν) đo được bằng thực nghiệm.
Phương pháp đo phổ hấp thụ trong từng vùng phổ đòi hỏi nguồn sáng phát xạ liên
tục trong vùng phổ đó, một phổ kế hoặc là máy đơn sắc lựa chọn bước sóng hay tần số,
thiết bị thu tín hiệu để đo sự truyền qua của ánh sáng đơn sắc. Nguồn sáng thường
được sử dụng là đèn hydrogen và deuterium đối với vùng tử ngoại và đèn dây tóc
(volfram+halogen) cho vùng nhìn thấy và vùng hồng ngoại gần. Trong thí nghiệm đo
phổ hấp thụ, chúng tôi dùng đèn halogen phát xạ trong vùng nhìn thấy. Bằng cách ghi
phổ trải trong vùng năng lượng photon rộng, có thể biết được các quá trình hấp thụ xảy
ra tương ứng với các chuyển dời quang học.
18
Nguyên lý hoạt động của hệ đo: Một chùm ánh sáng được phát ra từ nguồn
sáng, là đèn phát sáng trong vùng tử ngoại UV hoặc phát trong vùng nhìn thấy VIS,
được đưa qua hệ máy đơn sắc là hệ lăng kính hoặc cách tử nhiễu xạ, để được tách ra
thành các bước sóng đơn sắc. Mỗi tia sáng đơn sắc này sẽ lần lượt được chia thành hai
tia để so sánh, có cường độ như nhau nhờ một gương phản xạ bán phần. Một trong hai
tia sáng trên truyền qua một cuvet trong suốt bằng thạch anh chứa dung dịch mẫu cần
nghiên cứu, cường độ của tia sáng sau khi truyền qua mẫu là I. Tia sáng còn lại là tia
sáng so sánh truyền qua một cuvet tương tự nhưng chỉ chứa dung môi không chứa
chấm lượng tử, cường độ của nó sau khi truyền qua dung môi là Io. Cường độ của các
tia sáng sau đó được các detector ghi lại và so sánh trực tiếp trong cùng điều kiện đo.
Hình 2.8: Máy đo phổ hấp thụ Shimazu UV2600
Hình 2.9: Sơ đồ nguyên lý của hệ đo hấp thụ quang học UV-VIS-NIR
19
Nếu mẫu không hấp thụ ánh sáng ở một bước sóng đã cho thì I = Io. Tuy nhiên
nếu mẫu hấp thụ ánh sáng thì I < Io. Các phổ có thể được vẽ dưới dạng phổ truyền
qua :
T(ν) = I(ν)/Io(ν) (2.3)
hoặc phổ hấp thụ:
A(ν) = log10[Io(ν)/I(ν)]. (2.4)
2.2. Kỹ thuật đo huỳnh quang
Hệ đo phổ huỳnh quang Cary Eclipse phân giải cao được đặt tại Viện Vật Lý,
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Nguyên tắc hoạt động của phổ kế
Cary Eclipse được cho trên hình 2.2.
Nguyên lý hoạt động của hệ đo: Nguồn kích thích của Cary Eclipse là đèn
Xenon flash có thể phát bước sóng từ 200 đến 1000nm, nguồn sáng từ đèn xenon đi
qua một máy đơn sắc để chọn bước sóng đơn sắc kích thích. Ánh sáng đơn sắc này
được đưa vào buồng mẫu và hội tụ lên mẫu đo. Tín hiệu huỳnh quang phát ra từ mẫu
được hội tụ lên lối vào của máy đơn sắc thứ hai và thu nhận ở lối ra bằng đầu thu
quang điện. Một phần của ánh sáng kích thích được trích ra đưa vào đầu thu quang
điện thứ hai để đồng bộ với tín hiệu thu. Xeno flash hoạt động ở chế độ xung nên Cary
Eclipse còn có thể đo thời gian sống huỳnh quang của mẫu có thời gian sống dài (lân
quang).
20
Với cấu hình này Cary Eclipse cho phép đo phổ huỳnh quang, phổ kích thích
huỳnh quang, thời gian sống huỳnh quang và phổ thời gian sống huỳnh quang (với
mẫu có thời gian sống huỳnh quang lớn). Toàn bộ hệ thống được điều khiển bằng phần
mềm chuyên dụng.
2.3. Kỹ thuật đo huỳnh quang phân giải thời gian
2.3.1. Quang phổ phân giải thời gian và thời gian sống phát quang
Trong khi phép đo huỳnh quang trạng thái dừng là đơn giản, phép đo phân giải
thời gian thông thường yêu cầu thiết bị đo đạc phức tạp và tốn kém. Tuy nhiên phép đo
phân giải thời gian cung cấp nhiều thông tin hơn là từ dữ liệu huỳnh quang trạng thái
dừng. Một ví dụ điển hình của phép đo phân giải thời gian cung cấp những thông tin
mà phép đo huỳnh quang trạng thái dừng không thể thực hiện được đó là thống kê
Nguồn sáng
đèn Xê-non
Máy đơn sắc
kích thích
hai cách tử
Cửa sập
Kính lọc
Tấm chia chùmc
Tấm phân cực
R
ef - Cell Môđun
quang học Máy đơn sắc
phát xạ
Buồng đựng mẫu
Điều khiển
máy đơn
sắc
Máy tính
Hiển thị
Hình 2. 10: Sơ đồ nguyên lý của máy phổ kế huỳnh quang Cary Eclipse
21
phân biệt và quá trình dập tắt động học trạng thái kích thích sử dụng phép đo thời gian
sống. [7]
Thời gian sống hay thời gian suy giảm phát quang là một thông số động học có ý
nghĩa quan trọng. Giả sử một mẫu phát quang được kích thích bằng một xung ánh
sáng, kết quả là có một độ tích lũy ban đầu ( )0n trên trạng thái kích thích. Độ tích lũy
trên trạng thái kích thích sẽ giảm dần với tốc độ suy giảm nrk + :
[22]
( )
( ) ( )nr
dn t
k n t
dt
= + (2.5)
Với ( )n t là độ tích lũy trạng thái trên trạng thái kích thích tại thời điểm t,
là tốc độ phát xạ
nrk là tốc độ suy giảm không phát xạ.
Sự phát xạ là ngẫu nhiên và mỗi trạng thái kích thích cho cùng xác suất phát xạ
trong cùng thời gian. Độ tích lũy trạng thái trên trạng thái kích thích do đó giảm dần
theo hàm exponential:
( ) ( )0 exp
t
n t n
= −
(2.6)
Với ( )
1
nrk
−
= + là thời gian sống tổng cộng trên trạng thái kích thích.
Trong thực nghiệm, chúng ta không thể quan sát được độ tích lũy trên trạng thái
kích thích nhưng chúng ta có thể quan sát thông qua cường độ phát xạ tương ứng tỷ lệ
với ( )n t . Bởi vậy phương trình trên có thể viết lại dưới dạng sự phụ thuộc vào thời
gian của cường độ phát xạ ( )I t :
( ) ( )0 exp
t
I t I
= −
(2.7)
Trong đó ( )0I là cường độ phát quang tại thời điểm ban đầu, chúng ta thường
biểu diễn thang cường độ theo thang logarithm cơ số 10, ( )log I t :
22
( ) ( ) 0
1
log log logI t e t I
= − + (2.8)
(a) (b)
Hình 2.11: (a) Phép đo thời gian sống theo phương pháp miền thời gian;
(b) Phép đo thời gian sống theo phương pháp miền tần số
Theo đó ta có thể tính được thời gian sống phát quang . Thời gian sống phát
quang được tính tại thời điểm cường độ phát quang cực đại giảm đi e lần ( 0I e )
hoặc từ độ dốc của đường thực nghiệm (hình 2.3) theo thang logarithm cơ số 10
(phương trình 2.8). Tuy nhiên thời gian sống phát quang đo được không phải khi nào
cũng có dạng đơn hàm e mũ (single exponential) như phương trình 2.7, nó có thể có
dạng đa hàm e mũ (multi exponential function) hay dưới dạng không phải đơn hàm e
mũ (non-single exponential). Do đó từ giá trị thực nghiệm chúng ta phải đưa ra các giả
thuyết phù hợp và khớp dữ liệu thực nghiệm theo nó.[7]
Thời gian sống là tổng số thời gian trung bình trên trạng thái kích thích sau khi
mẫu được kích thích. Điều này có thể được thấy được bằng cách tính thời gian trung
bình t trong trạng thái kích thích. Giá trị này được tính bằng cách lấy trung bình
thời gian qua sự suy giảm cường độ của mẫu:
( )
( )
( )
( )
( )
( )
0
0 0 0
0
0 0 0
exp exp
exp exp
tI t dt tI t dt t t dt
t
I t dt I t dt t dt
− −
= = =
− −
(2.9)
Phương trình 2.9 cho thấy đối với dạng suy giảm đơn hàm e mũ thì thời gian
trung bình trên trạng thái kích thích bằng thời gian sống:
23
t = (2.10)
Điều quan trọng cần lưu ý là phương trình 2.10 là không thật sự đúng đối với các
định luật suy giảm phức tạp, chẳng hạn như suy giảm dạng đa hàm e mũ hoặc không
phải dạng đơn hàm e mũ. Sử dụng một định luật được giả định, thời gian sống trung
bình luôn luôn có thể được tính bằng cách sử dụng phương trình 2.9. Tuy nhiên, thời
gian sống này có thể là một hàm phức tạp của các tham số mô tả cường độ suy giảm
thực tế. Một khái niệm quan trọng đó là thời gian sống được hiểu một như một thống
kê trung bình, và sự phát quang ngẫu nhiên thông qua suy giảm độ tích lũy. Đối với
một độ tích lũy lớn trên trạng thái kích thích, không phải tất cả đều có cùng thời gian
sống, một số sẽ phát xạ nhanh hơn và một số sẽ phát xạ chậm hơn thời gian sống trung
bình. Sự phân bố thời gian của photon phát xạ chính là đường suy giảm cường độ phát
quang.
Có hai phương pháp đo huỳnh quang phân giải thời gian đó là phương pháp miền
tần số và phương pháp miền thời gian [7, 17]. Phép đo phân giải thời gian có độ phân
giải cao đang được sử dụng hiện nay tại các phòng thí nghiệm quang phổ hiện đại đó
là kỹ thuật đếm đơn photon tương quan thời gian (time-correlated single photon
counting - TCSPS). Đây cũng chính là kỹ thuật được chúng tôi sử dụng trong nghiên
cứu quang phổ phân giải thời gian của vật liệu cấu trúc nano.
2.3.2. Hệ đo huỳnh quang phân giải thời gian - TCSPC
❖ Cấu tạo và nguyên lý kỹ thuật TCSPC
Trong phép đo huỳnh quang phân giải thời gian, yêu cầu ghi lại sự phụ thuộc vào
thời gian của dạng đường bao (profile) cường độ tín hiệu huỳnh quang khi đối tượng
nghiên cứu được kích thích bởi một xung ngắn của ánh sáng, thường là một xung
laser. Trong khi về nguyên tắc, người ta có thể cố gắng để ghi lại profile đường cong
suy giảm theo thời gian của cường độ tín hiệu bằng các photodiode nhanh hay các đầu
thu nhanh khác (phương pháp lấy mẫu tương tự) cùng với một bộ lấy mẫu tín hiệu và
chuyển đổi tương tự số có tốc độ cao[7, 19]. Tuy nhiên, sự suy giảm để được ghi lại là
rất nhanh, huỳnh quang đặc trưng có thể kéo dài chỉ vài trăm pico giây đến vài chục
nano giây, đây là khó khăn và giới hạn của hệ điện tử thu tín hiệu. Mặt khác, tín hiệu
huỳnh quang có thể rất yếu và không cho phép ghi nhận trực tiếp bằng phương pháp
24
lấy mẫu tương tự. Giải pháp cho những vấn đề này đó là sử dụng kỹ thuật đếm đơn
photon tương quan thời gian (time-correlated single photon counting - TCSPC).
Hình 2.12: Nguyên lý tổng quát của kỹ thuật TCSPC: một photon tín hiệu được
ghi nhận tại mỗi chu kỳ xung kích thích, nhớ vào các cột thời gian (bin time),
dựng lại biểu đồ tín hiệu theo thời gian (histogram) sẽ cho profile cường độ [17]
Nguyên lý tổng quát của kỹ thuật TCSPC được mô tả trên hình 2.4. Nguyên lý
này dựa trên sự phát xạ của từng photon là phân bố ngẫu nhiên ứng với sự hồi phục
phát xạ của độ tích lũy trên trạng thái kích thích. Trên cơ sở đó, xác định thời gian tới
của một photon tín hiệu trên mỗi chu kỳ xung kích thích, nhớ vào các cột thời gian
(bin time), và xây dựng lại biểu đồ cường độ tín hiệu theo thời gian ta sẽ thu được
profile đường cong suy giảm theo thời gian của cường độ.[7, 19]
Sơ đồ tổng quát hệ TCSPC cho trên hình 2.5, bao gồm một số khối chính:
− Nguồn kích thích: thường sử dụng laser bán dẫn pico độ rộng xung ~ 50 ps; tần
số lặp lại 4 MHz; công suất trung bình 80 W
− Khối đầu thu: Sử dụng nhân quang tấm vi kênh (microchannel plate
photonmultiplier tube MCP - PMT) MCP 3890R-50 của Hamamatsu (Nhật
bản) có thể đo trong vùng bước sonhs 185-900 nm, đáp ứng thời gian ~ 25 ps.
− Khối đếm đơn photon tương quan thời gian: PicoHarp 300 (Picoquant - Đức) có
phân giải thời gian tới 4 ps tích hợp sẵn 2 lối vào CFD START và STOP.
25
Modul nay nhận tín hiệu từ đầu thu MCP, xử lý và đưa vào máy tính thông qua
giao tiếp USB.
− Phần mền thu nhận điều khiển và xủa lý số liệu có thể điều khiển, đặt thông số
đo của của hệ đo như bước sóng, thời gian tích phân
Hình 2.13: Sơ đồ tổng quát của hệ TCSPC
Hệ TCSPC hoạt động như sau: Xung laser được qua gương chia, một phần
đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_ung_dung_phuong_phap_quang_pho_phan_giai_theo_thoi.pdf