MỞ ĐẦU . 7
1. Lý do lựa chọn đề tài . 7
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài . 8
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu . 9
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu . 9
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu. 10
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài . 10
7. Bố cục luận văn. 11
Chương 1. KHÁI LưỢC VỀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP VÀ VAI
TRÒ CỦA BÁO CHÍ ĐỐI VỚI HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC
CẤP. 12
1.1. Giới thiệu khái quát về Hội đồng nhân dân . 12
1.1.1. Vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND . 12
1.1.2. Tổ chức và hoạt động của HĐND. 15
1.1.3. Cơ cấu, tổ chức của HĐND các cấp ở tỉnh Sơn La . 16
1.2. Vai trò của báo chí đối với hoạt động của HĐND các cấp. 16
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
vai trò của báo chí. 16
1.2.2. Báo chí định hướng tư tưởng, dư luận .
1.2.3. Báo chí góp phần phát triển kinh tế - xã hội
1.2.4. Báo chí làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần.
1.2.5. Vai trò của báo chí đối với hoạt động của HĐND các cấp.
Tiểu kết chương 1.
23 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 546 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vai trò của báo chí đối với hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp ở tỉnh Sơn La, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áo chí về hoạt động của HĐND các cấp
75
7 Biểu đồ 3.6: Mẫu nội dung và hình thức tuyên truyền về
hoạt động của HĐND các cấp
76
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Các phương tiện truyền thông đại chúng nói chung, báo chí nói riêng có vai
trò quan trọng trong đời sống xã hội. Với chức năng phản ánh thông tin, định
hướng dư luận, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của cử tri, báo chí không chỉ là công
cụ quan trọng hàng đầu của công tác tư tưởng mà còn là yêu cầu không thể thiếu
trong quá trình ra quyết định cũng như giải quyết các kiến nghị của nhân dân; báo
chí cung cấp thông tin cho xã hội và quan trọng hơn, báo chí cách mạng không chỉ
là người tuyên truyền tập thể, người cổ động tập thể, mà còn là người tổ chức tập
thể, là công cụ hữu hiệu tiến hành công tác tư tưởng. Với tư cách là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương, hoạt động của HĐND có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước,
là cơ quan đại diện cho quyền lợi và nguyện vọng cũng như ý chí của cử tri, đồng
thời là cơ quan giám sát hoạt động chính quyền cùng cấp. HĐND tỉnh Sơn La
luôn tích cực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, thực hiện ngày càng
tốt hơn các nhiệm vụ, quyền hạn theo luật định, phát huy vai trò là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ
của nhân dân, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị,
thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước, duy trì ổn định phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo giữ vững quốc phòng -
an ninh, củng cố bộ máy chính quyền địa phương, Chính vì vậy, công tác tuyên
truyền về hoạt động của HĐND các cấp là cần thiết, quan trọng, là cầu nối giữa
cơ quan dân cử với cử tri và có thể thấy báo chí tuyên truyền về hoạt động của
HĐND các cấp mang tính đặc thù riêng (cử tri muốn được thông tin nhiều hơn về
hoạt động của HĐND các cấp, thể hiện rõ vai trò giám sát của cử tri đối với hoạt
động của HĐND các cấp; HĐND các cấp cũng muốn tuyên truyền về hoạt động
của mình tới cử tri, nhân dân). HĐND tỉnh Sơn La luôn tạo điều kiện thuận lợi
cho các cơ quan thông tấn, báo chí tuyên truyền đưa tin về hoạt động của mình,
đặc biệt là các kỳ họp của HĐND để cử tri và nhân dân theo dõi, thực hiện công
khai về các hoạt động của HĐND, đồng thời nâng cao trách nhiệm của các đại
biểu và cơ quan hữu quan.
Công tác tại Văn phòng HĐND tỉnh Sơn La 10 năm, với nhiệm vụ được giao
là tham mưu, giúp việc Thường trực HĐND, các Ban của HĐND tỉnh, Văn phòng
HĐND tỉnh, tôi cảm nhận rõ được những ảnh hưởng của báo chí địa phương đối
với hoạt động của HĐND các cấp. Cũng như các địa phương khác, thông tin từ báo
chí có ý nghĩa quan trọng đặc biệt trong việc nâng cao chất lượng hoạt động của cơ
quan dân cử của tỉnh Sơn La, tuy nhiên, việc nghiên cứu, phân tích và đề xuất biện
pháp nâng cao chất lượng mối quan hệ giữa báo chí với hoạt động của cơ quan dân
cử không phải lúc nào cũng thuận tiện và hiệu quả, trên thực tế còn nhiều bất cập,
như: báo chí địa phương tuyên truyền về hoạt động của HĐND các cấp chưa nhiều,
hình thức thể hiện chưa phong phú, đa dạng và còn có mặt hạn chế như là: Báo
Sơn La. Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh chưa chủ động trong việc tuyên truyền
về hoạt động của HĐND, của Thường trực HĐND, của các Ban và đại biểu HĐND
các cấp mà mới chỉ dừng ở việc tuyên truyền về hoạt động của HĐND khi được
Thường trực HĐND mời
Vì vậy, tôi chọn đề tài Vai trò của báo chí đối với hoạt động của HĐND
các cấp ở tỉnh Sơn La để nghiên cứu, được PGS.TS Đinh Văn Hường đồng tình,
ủng hộ cao. Qua việc đánh giá đúng thực trạng chất lượng, nội dung các tác phẩm
báo chí tuyên truyền về hoạt động của HĐND các cấp ở tỉnh Sơn La trên báo địa
phương và báo chuyên ngành, tác động của nó đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt
động của HĐND các cấp ra sao, qua đó rút kinh nghiệm, đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng tuyên truyền của báo chí về hoạt động của HĐND các
cấp trong thời gian tới cả về mặt ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở nước ta, Đảng đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị và Nhà nước đã ban hành Luật,
nhiều nghị định, thông tư hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của HĐND cũng như về
lĩnh vực báo chí. Các nhà nghiên cứu trong và ngoài giới báo chí cũng có một số công
trình khoa học ít nhiều đề cập đến vai trò của báo chí đối với đời sống kinh tế - xã hội.
Ví dụ: Đỗ Chí Nghĩa, Vai trò của báo chí trong định hướng dư luận xã hội, Luận án
tiến sĩ truyền thông đại chúng năm 2010; Trần Tú Mai Vai trò của báo chí trong việc
xây dựng và quảng bá thương hiệu doanh nghiệp hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học
Báo chí năm 2010; Ngô Thị Phương Thảo, Vai trò của báo chí trong việc giữ gìn và
phát huy bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam, Luận văn thạc sĩ khoa học Báo chí
năm 2001; Chu Thu Hảo, Báo chí với công tác phản ánh, bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hóa của lễ hội truyền thống, Luận văn thạc sĩ khoa học Báo chí năm 2002; Lê
Tuấn Anh, Báo chí với vấn đề phòng chống ma túy trong thanh thiếu niên, Luận văn
thạc sĩ khoa học Báo chí năm 2003; Đặng Thị Đoan Y, Báo chí với vấn đề văn hóa du
lịch thời kỳ hội nhập, Luận văn thạc sĩ khoa học Báo chí năm 2009; Vũ Thị Sáng, Báo
chí với cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Luận
văn thạc sĩ khoa học Báo chí năm 2011; Trần Thị Tuyết Vinh, Báo chí với hoạt động
truyền thông phòng, chống dịch cúm A/H5N1 và H1N1 ở người, Luận văn thạc sĩ
khoa học Báo chí năm 2011;.ngoài ra, còn một số bài viết đăng trên các báo, tạp chí
có liên quan đến vai trò của báo chí.
Đối với hoạt động của HĐND cũng đã có nhiều công trình khoa học, các
luận án, luận văn thạc sĩ, tiến sĩ luật học nghiên cứu. Ví dụ: Vũ Mạnh Thông, Nâng
cao hiệu lực giám sát của HĐND cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện
nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
1998; Bùi Đức, Tăng cường hiệu lực của HĐND để thực hiện tốt việc xây dựng địa
phương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội năm 1983; và rất nhiều bài viết trên các
phương tiện truyền thông đại chúng.
Có thể khẳng định, tất cả các tác phẩm, các công trình khoa học, các luận
án, luận văn, các công trình nghiên cứuđều đã đề cập đến vai trò của báo chí,
đề cập đến tổ chức và hoạt động của HĐND từ nhiều góc độ, nhiều khía cạnh,
nhiều cách nhìn, cách đánh giá, luận giải rất khác nhau, làm toát lên tâm huyết,
nhiệt huyết của các tác giả, các nhà nghiên cứu khoa học đối với vấn đề báo chí,
vai trò của báo chí và về HĐND. Đó là cơ sở bước đầu cho việc kế thừa để tiếp
tục nghiên cứu sâu hơn về vai trò của báo chí nói chung và vai trò của báo chí
đối với hoạt động của HĐND các cấp nói riêng. Tuy nhiên, chưa có công trình
nào nghiên cứu có hệ thống, nghiên cứu sâu về vai trò của báo chí với hoạt động
của HĐND các cấp cả về mặt lý luận và thực tiễn. Do đó, việc nghiên cứu đề tài
Vai trò của báo chí đối với hoạt động của HĐND các cấp ở tỉnh Sơn La là
nghiên cứu bước đầu, có ý nghĩa về mặt lý luận, thực tiễn trên cả lĩnh vực báo
chí, hoạt động của cơ quan dân cử và công tác xây dựng chính quyền địa
phương.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn khảo sát công tác tuyên truyền về hoạt động HĐND các cấp ở tỉnh
Sơn La của báo chí địa phương, chỉ ra những ưu, nhược điểm của công tác tuyên
truyền. Từ đó, luận văn đề xuất, kiến nghị đổi mới, nâng cao hiệu quả của báo chí
về hoạt động của HĐND các cấp ở tỉnh Sơn La.
3.2- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích trên, luận văn tiến hành thực hiện các nhiệm vụ chính sau
đây:
- Hệ thống hóa khung lý luận, lý thuyết về vai trò của báo chí về HĐND các
cấp; giới thiệu về HĐND các cấp ở tỉnh Sơn La;
- Khảo sát, đánh giá thực trạng thông tin, tuyên truyền của báo chí về hoạt
động của HĐND các cấp tỉnh Sơn La;
- Trên cơ sở thực trạng đó, luận văn đề xuất một số giải pháp, kiến nghị
nhằm nâng cao chất lượng tuyên truyền của báo chí về hoạt động của HĐND các
cấp tỉnh Sơn La.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của báo chí với hoạt động của HĐND
các cấp ở tỉnh Sơn La.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát các chuyên trang, chuyên mục, các tác phẩm
báo chí trên Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Sơn La, Báo Sơn La và các trang chuyên
ngành tuyên truyền về hoạt động HĐND từ tháng 01 năm 2014 đến tháng 6 năm 2015.
Ngoài ra, tác giả còn tham khảo một số cơ quan báo chí Trung ương và địa phương
khác để có sự so sánh, đối chiếu với báo chí ở Sơn La.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về tổ chức, hoạt động
của HĐND các cấp nói chung và vai trò của báo chí nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu lịch sử - logic,
khảo sát thực tiễn, thống kê, phân tích, so sánh, phỏng vấn, tổng hợp. Cụ thể:
- Khảo sát, phân tích các nội dung cơ bản được thể hiện trên sóng phát thanh
- truyền hình của tỉnh, Báo Sơn La từ đó tổng hợp các kết quả để đi đến đánh giá
một cách khái quát về vị trí, vai trò của báo chí với hoạt động của HĐND các cấp ở
tỉnh Sơn La.
- Sưu tầm các tư liệu, văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước có
liên quan đến tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp, liên quan đến báo chí và
vai trò của báo chí từ đó tổng hợp, phân tích.
- Thực hiện phỏng vấn sâu: Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sẽ sử dụng
phương pháp phỏng vấn sâu các đại biểu HĐND, cử tri về hoạt động của HĐND
nói chung và vai trò của báo chí tuyên truyền về hoạt động của HĐND các cấp nói
riêng.
- Sử dụng phương pháp phân tích nội dung văn bản, phân tích ngôn ngữ trên
báo in, so sánh đối chiếu để thấy được hiệu quả tuyên truyền của báo chí đối với
hoạt động của HĐND các cấp.
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử: Nghiên cứu quá trình hình thành, hoạt
động của các thông tin được đăng tải trên Báo Sơn La, phát sóng trên Đài Phát
thanh - Truyền hình tỉnh về hoạt động của HĐND các cấp.
- Phương pháp điều tra xã hội học (phát và lấy phiếu từ đại diện công
chúng).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Đưa ra góc nhìn, cách tiếp cận mới về vai trò của báo chí với hoạt động của
HĐND các cấp nói chung và công tác tuyên truyền về hoạt động HĐND các cấp ở
tỉnh Sơn La nói riêng. Với khung lý thuyết cơ bản về nguyên lý hoạt động của báo
chí và phương pháp tiếp cận hợp lý, bằng sự phân tích khá tập trung, nhất là thông
qua kết quả khảo sát ở nhiều đối tượng với các loại hình, thể loại báo chí khác
nhau, luận văn đã hệ thống hóa quá trình hình thành và phát triển của HĐND các
cấp; phân tích thực trạng vai trò của báo chí đối với hoạt động của HĐND các cấp
ở tỉnh Sơn La.
- Làm rõ thêm cơ sở khoa học và tác dụng tuyên truyền của báo chí về hoạt
động của HĐND các cấp trong các nhiệm kỳ hoạt động.
- Đề xuất một số giải pháp khả thi góp phần nâng cao chất lượng công tác
tuyên truyền về hoạt động HĐND các cấp của báo địa phương, báo chuyên ngành
nói riêng và các phương tiện truyền thông đại chúng nói chung.
- Luận văn góp thêm tài liệu tham khảo phục vụ cán bộ, sinh viên báo chí,
các phóng viên, biên tập viên các cơ quan báo chí, cán bộ phục vụ hoạt động
HĐND, cơ quan dân cử và những người quan tâm đến lĩnh vực này.
7. Bố cục luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
Luận văn được kết cấu 3 chương như sau:
- Chương 1: Khái lược về HĐND các cấp và vai trò của báo chí đối với
HĐND các cấp.
- Chương 2: Thực trạng vai trò của báo chí đối với hoạt động của HĐND các
cấp tỉnh Sơn La.
- Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của báo chí đối
với hoạt động của HĐND các cấp ở tỉnh Sơn La.
Nội dung của luận văn sẽ được trình bày theo thứ tự các chương nói trên.
Chương 1
KHÁI LƯỢC VỀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP VÀ VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ
ĐỐI VỚI HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP
1.1. Giới thiệu khái quát về Hội đồng nhân dân
1.1.1. Vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND
Vị trí của HĐND
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nhân dân ta đã đánh đổ hoàn
toàn bộ máy chính quyền cai trị của thực dân Pháp và chế độ phong kiến từ Trung
ương đến địa phương, thành lập bộ máy chính quyền nhân dân. Với tư tưởng chỉ
đạo xuyên suốt là “Thành lập một chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân”.
Ngày 02 tháng 9 năm 1945 Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà ra mắt
quốc dân đồng bào. Tiếp sau đó, Chính phủ đã xúc tiến các biện pháp nhằm thành
lập và hoàn chỉnh hệ thống cơ quan chính quyền địa phương kiểu mới. Sắc lệnh số
63 ngày 22 tháng 11 năm 1945 lần đầu tiên quy định về tổ chức chính quyền nhân
dân xã, huyện, tỉnh, kỳ và Sắc lệnh số 77 ngày 21 tháng 12 năm 1945 quy định tổ
chức chính quyền nhân dân ở thành phố, thị xã, khu phố. Theo các Sắc lệnh 63, 77
cơ quan chính quyền địa phương bao gồm HĐND do nhân dân trực tiếp bầu ra và
Uỷ ban hành chính do HĐND cử ra. Ở cấp huyện, kỳ và khu phố vào thời kỳ này
theo quy định của các Sắc lệnh chỉ có Uỷ ban hành chính không có HĐND cùng
cấp, thể lệ bầu cử của HĐND và Uỷ ban hành chính ở xã, huyện, tỉnh, kỳ được quy
định tại Nghị định số 161 ngày 29 tháng 12 năm 1946 của Bộ Nội vụ và thể lệ bầu
cử HĐND và Uỷ ban hành chính thành phố, khu phố được quy định tại Nghị định
số 31 ngày 28 tháng 01 năm 1946 của Bộ Nội vụ nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà. Có thể nói, lần đầu tiên ở nước ta, sau hơn hai tháng giành được chính quyền
về tay nhân dân lao động, việc ban hành hai Sắc lệnh số 63 và 77 đã mở ra việc
thành lập cơ quan HĐND ở các cấp, việc HĐND ra đời và các thể lệ bầu cử HĐND
đã tạo cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thành lập mới chính quyền địa phương kiểu
mới ở nước ta.
Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà, đạo luật cao nhất của nhà nước ta ra đời đã hiến định hoá cách tổ chức cơ
quan chính quyền ở địa phương trong Chương V: “HĐND và Uỷ ban hành chính”,
Điều 58 Hiến pháp 1946 quy định: “Ở các tỉnh, thành phố, thị xã và xã có HĐND
do đầu phiếu phổ thông và trực tiếp bầu ra”. Việc Hiến pháp 1946 đã dành một
chương quy định về HĐND và Uỷ ban hành chính đã nói lên tầm quan trọng và địa
vị pháp lý của HĐND, Uỷ ban hành chính trong bộ máy Nhà nước Việt Nam, lần
đầu tiên cơ quan HĐND đã được ghi nhận trong Hiến pháp. Về nhiệm vụ, quyền
hạn của HĐND cũng đã được quy định tại Điều 59 của Hiến pháp đó là: “HĐND
quyết những vấn đề thuộc địa phương mình. Những quyết nghị ấy không trái với
chỉ thị của cấp trên”. Như vậy, theo quy định của Sắc lệnh 63, 77 và Hiến pháp
1946, một hệ thống chính quyền địa phương kiểu mới được thành lập ở nước ta
gồm HĐND và Uỷ ban hành chính các cấp. Đáp ứng tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt
là: “Thiết lập một chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân”.
Hiến pháp 1959 đã thực hiện một sự đổi mới căn bản về tổ chức cơ quan
chính quyền địa phương đã được quy định trong Hiến pháp 1946. Theo Hiến pháp
1959, các đơn vị hành chính ở nước ta không còn cấp kỳ (bộ). Nước chia thành
tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc Trung ương; tỉnh chia thành huyện và tương
đương; huyện chia thành xã, thị trấn. Ở tất cả các đơn vị hành chính trên đều thành
lập HĐND và Uỷ ban hành chính. Các thành phố có thể chia khu phố có HĐND và
Uỷ ban hành chính.
Hiến pháp 1959, lần đầu tiên trong lịch sử khẳng định HĐND là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, Uỷ ban hành chính các cấp là cơ quan chấp
hành của HĐND ở địa phương trong Điều 80: “HĐND các cấp là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương”. Uỷ ban hành chính là cơ quan chấp hành của HĐND
địa phương, là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Nhiệm kỳ của HĐND
cấp tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc Trung ương là 3 năm (Điều 83); quyền
hạn của HĐND được quy định tại cá Điều 84, 85, 86. Những quy định trên đây của
Hiến pháp 1959 được cụ thể hoá trong Luật Tổ chức HĐND và Uỷ ban hành chính,
ban hành ngày 25 tháng 10 năm 1962. Lần đầu tiên Luật Tổ chức HĐND và Uỷ
ban hành chính năm 1962 được ban hành ở nước ta.
Hiến pháp năm 1980 đã bỏ khu tự trị theo Nghị quyết kỳ họp thứ 2 Quốc hội
khoá V ngày 27 tháng 12 năm 1975, nhưng lại lập mới đơn vị hành chính đặc khu -
tương đương cấp tỉnh và lập thêm cấp phường ở thành phố, thị xã. Cách thức tổ
chức HĐND, UBND, thẩm quyền cơ bản của các cơ quan này được Hiến pháp quy
định khá đầy đủ và rõ ràng trong chương IX. Điều 114, Hiến pháp quy định:
“HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương bầu
ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và chính quyền cấp trên. HĐND
quyết định và thực hiện các biện pháp nhằm xây dựng địa phương về mọi mặt, đảm
bảo phát triển kinh tế, văn hoá, nâng cao đời sống của nhân dân địa phương và
hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao”. Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND đã được
Hiến pháp quy định khá đầy đủ, rõ ràng bao gồm 12 nhiệm vụ, quyền hạn tại Điều
115 của Hiến pháp và được cụ thể hoá bởi Luật Tổ chức HĐND và UBND tháng 6
năm 1983. Nhiệm kỳ của HĐND quy định là 4 năm (Điều 114). HĐND có quyền
ra Nghị quyết. Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1989 ra đời, thay thế cho Luật
Tổ chức HĐND và UBND năm 1983 đã sửa đổi, bổ sung và đưa thêm vào cơ cấu
HĐND một cơ quan mới là Thường trực HĐND. Việc thành lập mới, lần đầu tiên
các Ban và Thường trực HĐND theo quy định của Hiến pháp 1980 và Luật Tổ
chức HĐND, UBND năm 1989 đã thể hiện rõ vai trò to lớn, địa vị pháp lý của
HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ quan có quyền ra Nghị
quyết, quyết định những vấn đề quan trọng và là cơ quan đại diện cho ý chí,
nguyện vọng của nhân dân địa phương.
Hiến pháp năm 1992 về cơ bản vẫn giữ cách tổ chức hệ thống chính
quyền địa phương như Hiến pháp 1980, bỏ đơn vị hành chính đặc khu, Điều 118
Hiến pháp 1992: “Việc thành lập HĐND và UBND ở các đơn vị hành chính do
luật định”. Điều 119 khẳng định: “HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương
bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp
trên”. Hiến pháp 1992 chỉ quy định một cách chung nhất về HĐND và UBND
trong chương IX từ Điều 118 đến Điều 125 mà không quy định việc tổ chức
HĐND và UBND ở các đơn vị hành chính như Hiến pháp 1980 trước đây. Việc
quy định một cách chi tiết cụ thể cách thức tổ chức HĐND được quy định trong
Luật Tổ chức HĐND và UBND sửa đổi năm 1994.
Luật Tổ chức HĐND và UBND sửa đổi năm 1994 đã cụ thể hoá Hiến pháp
1992 trên tinh thần là đổi mới chính quyền địa phương. Luật sửa đổi lần này đã
quy định địa vị và pháp lý, nguyên tắc hoạt động, cách thức tổ chức HĐND và
UBND, nhiệm kỳ của HĐND, mối quan hệ giữa HĐND với Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan Nhà nước cấp trên trong chương 1 từ Điều 1
đến Điều 10. Nếu như trước đây nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND được quy định
trong Hiến pháp 1980, thì lần này Hiến pháp 1992 không quy định mà để Luật Tổ
chức HĐND và UBND sửa đổi năm 1994 dành hẳn chương II từ Điều 11 đến
Điều 18 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND. Theo đó, thẩm quyền của
HĐND được thảo luận ở quyền quyết định và quyền giám sát Điều 11, Luật Tổ
chức HĐND và UBND sửa đổi năm 1994 căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình và xuất phát từ lợi ích chung của đất nước, của nhân dân địa
phương, HĐND có hai chức năng cơ bản nêu trên.
Hiến pháp năm 2013 về cơ bản vẫn giữ cách thức tổ chức chính quyền địa
phương gồm HĐND và UBND, Điều 111 Hiến pháp 2013 khẳng định: “Cấp chính
quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức
phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt do luật định”. Điều 113 Hiến pháp 2013 khẳng định: “Hội đồng nhân dân là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước
Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”. Hiến pháp 2013 chỉ quy định
chung nhất về HĐND và UBND trong một chương IX, từ Điều 110 đến Điều 116,
còn tổ chức, hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và UBND được quy định
cụ thể, rõ ràng trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (có hiệu lực
từ ngày 01 tháng 01 năm 2016).
Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 đã cụ thể hoá các quy định của
Hiến pháp năm 2013 và các chủ trương, định hướng của Đảng về chính quyền địa
phương, tạo hành lang pháp lý hoàn thiện để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của bộ máy chính quyền địa phương, bảo đảm việc tăng quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của chính quyền các cấp trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, phát
huy quyền làm chủ của Nhân dân ở địa phương, góp phần vào công cuộc đổi mới đất
nước. Theo quy định tại Điều 4 của Luật, cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND
và UBND được tổ chức ở các đơn vị hành chính: tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc
trung ương; xã, phường, thị trấn. Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND
các cấp được quy định rõ tại các Điều 18, 19, 25, 26, 32, 33, 39, 40, 46, 47, 53, 54, 60,
61, 67, 68; mặt khác, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 dành hẳn một
chương (Chương VI, từ Điều 78 đến Điều 112) nói về hoạt động của HĐND các cấp.
Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND
HĐND cấp tỉnh thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều
19 Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015.
HĐND cấp huyện thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại
Điều 26 Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015.
HĐND cấp xã thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 33
Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015.
1.1.2. Tổ chức và hoạt động của HĐND
HĐND cấp tỉnh gồm Thường trực HĐND tỉnh (Chủ tịch và 02 Phó Chủ
tịch), các Ban của HĐND tỉnh (Ban Pháp chế, Ban Kinh tế - Ngân sách, Ban Văn
hóa - Xã hội và Ban Dân tộc [Điều 18, Luật Tổ chức chính quyền địa phương
2015].
HĐND cấp huyện gồm Thường trực HĐND huyện (Chủ tịch và 02 Phó Chủ
tịch), các Ban của HĐND huyện (Ban Pháp chế, Ban Kinh tế - Xã hội) [Điều 25
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015]
HĐND cấp xã gồm Thường trực HĐND xã (Chủ tịch và 01 Phó Chủ tịch),
các Ban của HĐND xã (Ban Pháp chế, Ban Kinh tế - Xã hội) [Điều 32 Luật Tổ
chức chính quyền địa phương năm 2015]
1.1.3. Cơ cấu, tổ chức của HĐND các cấp ở tỉnh Sơn La
HĐND cấp tỉnh: Thường trực HĐND tỉnh có 03 vị gồm: Chủ tịch HĐND
tỉnh hoạt động kiêm nhiệm; 02 Phó Chủ tịch HĐND tỉnh hoạt động chuyên trách.
HĐND tỉnh thành lập 4 Ban: Ban Kinh tế và Ngân sách, Ban Văn hoá - Xã hội,
Ban Pháp chế, mỗi ban có 02 Phó trưởng ban hoạt động chuyên trách; Ban Dân
tộc.
HĐND cấp huyện: Thường trực HĐND các huyện, thành phố đầu nhiệm kỳ
có 36 vị, gồm 12 Chủ tịch HĐND hoạt động kiêm nhiệm; 24 Phó Chủ tịch hoạt
động chuyên trách. HĐND huyên, thành phố thành lập 2 ban Ban Kinh tế - Xã hội
và Ban Pháp chế.
HĐND cấp xã: Thường trực HĐND cấp xã đầu nhiệm kỳ có 204 vị. HĐND
xã thành lập 2 ban Ban Kinh tế - Xã hội và Ban Pháp chế.
1.2. Vai trò của báo chí đối với hoạt động của HĐND các cấp
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò
của báo chí
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin là những lãnh tụ thiên tài của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Là những nhà tư tưởng kiệt xuất, các ông còn là
những nhà báo xuất sắc. Tư tưởng về công tác báo chí và hoạt động báo chí của
các ông vô cùng đồ sộ và phong phú. Ngay từ những ngày đầu bước vào hoạt
động, các ông đã thấy rõ tầm quan trọng của báo chí và trong suốt cuộc đời mình
các ông đã dành nhiều thời gian, tâm huyết cho hoạt động báo chí. Các ông đều đã
từng trực tiếp tổ chức, lãnh đạo nhiều tờ báo và đã viết hàng ngàn bài báo. Dưới
ngòi bút của các ông, báo chí thực sự đã trở thành vũ khí sắc bén và vô cùng hiệu
quả, là phương tiện để tuyên truyền giác ngộ quần chúng, để xây dựng và phát
triển phong trào cách mạng. Các ông đã để lại một kho tàng rất lớn những tác
phẩm báo chí, trong đó có những tác phẩm mở đường cho một hướng đi, có những
tác phẩm mãi vẫn là tiêu biểu, mẫu mực, là cái đích để noi theo, để đạt tới.
C.Mác cũng như Ph.Ăngghen đều xem trọng vai trò của báo chí. Có thể
nói, ngay từ thời kỳ đầu hoạt động, C.Mác và Ph.Ăngghen đã lập nghiệp
bằng ngòi bút sắc bén của mình. Các bài báo của hai ông đều đòi hỏi và
đấu tranh cho quyền sống của những người nghèo khổ, chống áp bức
chuyên chế, chống quan niệm thực dụng với các hoạt động tinh thần
trong xã hội, DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Các tài liệu do Quốc hội, Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội, Chính phủ và các Bộ
ban hành
1. Báo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02050004376_5724_2006691.pdf