Luận văn Vai trò của các tổ chức phi chính phủ trong quá trình hoạch định chính sách về công nghệ thân thiện môi trường ở Việt Nam

LỜI CẢM ƠN

PHẦN MỞ ĐẦU. 1

1. Lý do nghiên cứu. 1

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu . 3

3. Mục tiêu nghiên cứu. 10

4. Phạm vi nghiên cứu. 10

5. Mẫu khảo sát . 10

6. Câu hỏi nghiên cứu . 11

7. Giả thuyết nghiên cứu . 11

8. Phương pháp chứng minh giả thuyết. 12

9. Kết cấu luận văn. 12

PHẦN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU. 12

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ

TRONG QUÁ TRÌNH HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CÔNG NGHỆ

THÂN THIỆN MÔI TRƯỜNG. 13

1.1. Các tổ chức phi chính phủ và phân loại . 13

1.1.1. Khái niệm tổ chức phi chính phủ .13

1.1.2. Phân loại các tổ chức phi chính phủ .15

1.2. Khái niệm chính sách, hoạch định chính sách. 19

1.2.1. Khái niệm chính sách.19

1.2.2. Khái niệm hoạch định chính sách và các khái niệm liên quan. 20

1.3. Khái niệm môi trường, ô nhiễm môi trường và công nghệ thân thiện môi

trường. 23

1.3.1. Khái niệm môi trường, ô nhiễm môi trường.23

1.3.2. Khái niệm công nghệ thân thiện môi trường và các khái niệm liên quan.24

1.4. Sự cần thiết tham gia của các tổ chức phi chính phủ trong lĩnh vực công

nghệ thân thiện môi trường. 28

1.4.1. Các tổ chức phi chính phủ đóng vai trò trung gian giữa Nhà nước và

doanh nghiệp trong việc thực thi chính sách công nghệ thân thiện môi

trường.27

1.4.2. Các tổ chức phi chính phủ tham gia tích cực vào các hoạt động chính

sách với tư cách là một thành tố của Xã hội dân sự.29

pdf20 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 572 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Vai trò của các tổ chức phi chính phủ trong quá trình hoạch định chính sách về công nghệ thân thiện môi trường ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phi chính phủ khi tham gia hoạch định chính sách công nghệ thân thiện môi trường ở Việt Nam............................. 522 2.4.1. Vai trò cung cấp thông tin ............................................................................. 522 2.4.2. Vai trò phân tích chính sách ............................................................................. 57 2.4.3. Vai trò điều chỉnh chính sách ........................................................................... 58 2.4.4. Các vai trò khác ..........63 CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ĐIỀU KIỆN PHÁP LÝ ĐỂ TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ THAM GIA TÍCH CỰC QUÁ TRÌNH HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CÔNG NGHỆ THÂN THIỆN MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM................................................................................ 66 3.1. Những thách thức từ vị thế của NGOs67 3.1.1 Tính chính danh của XHDS trong hệ thống pháp luật ..67 3.1.2. Sự e ngại của doanh nghiệp khi hợp tác với các tổ chức phi chính phủ 67 3.1.3. Tương lai hạn hẹp về nguồn tài chính . 68 3.2. Khuyến nghị.... 69 3.2. 1. Khuyến nghị cho các cơ quan Nhà nước ............................................ 69 3.2.2. Khuyến nghị về hoàn thiện quá trình tham gia của NGOstrong hoạch định chính sách công nghệ thân thiện môi trường .......................................... 77 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 84 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do nghiên cứu 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, việc sử dụng các công nghệ thân thiện môi trường để đảm bảo phát triển bền vững là một trong những chiến lược được nhiều quốc gia hướng tới, trong đó có Việt Nam. Trước tình trạng biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọng, các quốc gia đã nỗ lực không ngừng trong việc xây dựng khung pháp lý nhằm tăng cường áp dụng công nghệ thân thiện môi trường với các công cụ chính như luật pháp, chính sách công, các thỏa thuận môi trường đa phương và các nguồn quỹ công để hoạt động. Trong Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc (UNEP) và Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) đã chỉ ra rằng “sẽ có rất ít quốc gia chọn một công nghệ đắt tiền hơn nếu như lợi ích duy nhất mà công nghệ đó mang lại là phòng tránh những hiệu ứng xấu có thể có đối với sự thay đổi khí hậu. Mặc dù vậy, công nghệ đó có thể mang lại cho ta lợi ích có liên quan, ví dụ như giảm thiểu ô nhiễm không khí và nguồn nước”1. Những lợi ích này thường khó hoặc không thể kiểm chứng ngay được nhưng các công nghệ này sẽ giúp đảm bảo những mục tiêu phát triển bền vững, phục vụ lợi ích của cả cộng đồng, của toàn xã hội. Do đó sử dụng công nghệ thân thiện môi trường, nhằm hướng tới một môi trường sạch và phát triển bền vững không chỉ là vấn đề của tổ chức, quốc gia mà còn ở phạm vi quốc tế. Đổi mới công nghệ theo hướng áp dụng công nghệ thân thiện môi trường là hướng đi đúng và phù hợp với xu thế phát triển mới của doanh nghiệp. Tuy vậy, trong bối cảnh hiện nay, nhiều doanh nghiệp chưa ý thức được trách nhiệm về bảo vệ môi trường, sử dụng những công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm nghiêm trọng. Chính sách công nghệ thân thiện môi trường còn gặp nhiều khó khăn khi đi vào cuộc sống. Do vậy, bên cạnh vai trò quan trọng và quyết định của Chính phủ trong việc tham gia 1Nguyễn Mạnh Quân, Chuyển giao công nghệ thân thiện với môi trường –những yếu tố liên quan đến thương mại, T4/2007 2 các diễn đàn quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, hoạch định các chính sách về bảo vệ môi trường và giảm thiểu tối đa các tác động của biến đổi khí hậu, còn cần có sự quan tâm, ủng hộ của rất nhiều các nhóm xã hội, hay rộng hơn là Xã hội dân sự (XHDS). Trong đó, các tổ chức phi chính phủ (Non-Government Organizations (NGOs)) là một trong những loại hình tổ chức nòng cốt, ưu tiên triển khai các hoạt động phục vụ lợi ích cộng đồng, kêu gọi việc sử dụng năng lượng bền vững, áp dụng công nghệ thân thiện môi trường vì lợi ích chung của cộng đồng xã hội. Tại Việt Nam, đặc biệt từ những năm tiến hành đổi mới đến nay, NGOs ngày càng phát triển rộng rãi và có vai trò dần được quan tâm trong quá trình hoạch định chính sách, đặc biệt là các chính sách xã hội. Hiện có hàng trăm NGO của Việt Nam đang tăng cường và đa dạng hóa hoạt động trong lĩnh vực môi trường, đặc biệt ở cấp độ cơ sở, đóng một vai trò quan trọng trong công tác tiếp nhận, vận động tài trợ cho những chương trình, hoạt động bảo vệ tài nguyên và môi trường hướng tới sự phát triển bền vững. Các tổ chức này còn góp phần đề xuất các vấn đề chính sách, cung cấp thêm các luận cứ cho quá trình ra quyết định chính sách trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, trong quá trình tham gia hoạt động hoạch định chính sách, NGOs cũng đang gặp không ít những khó khăn do chưa có những văn bản pháp lý quy định cụ thể về vấn đề này. Xuất phát từ những phân tích trên, tác giả lựa chọn đề tài về “Vai trò của các tổ chức phi chính phủ trong quá trình hoạch định chính sách về công nghệ thân thiện môi trường ở Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ. 1.2. Ý nghĩa lý thuyết của nghiên cứu Luận văn sẽ phân tích vai trò của NGOs với quá trình tham gia hoạch định chính sách về sử dụng công nghệ thân thiện với môi trường, những thuận lợi và khó khăn đối với NGOs trong quá trình hoạch định chính sách công nghệ thân thiện môi trường. 1.3. Ý nghĩa thực tế của nghiên cứu Từ việc phân tích vai trò của NGOs trong quá trình hoạch định chính sách, đề xuất các khuyến nghị nhằm củng cố hơn nữa sự đóng góp của loại hình tổ chức 3 này vào quá trình hoạch định chính sách công nghệ thân thiện môi trường ở Việt Nam. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới Hiện nay có rất nhiều các nghiên cứu được công bố phân tích sự tham gia và đóng góp của NGOs với quá trình phát triển của các quốc gia: Năm 1992, trong tác phẩm Role of Non-Governmental Organizations in the Development of International Environmental Law, Dan Tarlock đã phân tích vai trò của NGOs trong việc phát triển của Luật Môi trường Quốc tế. Năm 1993, Wellard, K., & Copestake, J. G. và các cộng sự trong tác phẩm NGOs and the state in Africa: Rethinking roles in sustainable agricultural development đã tập trung phân tích các vai trò của NGOs trong phát triển nông nghiệp bền vững tại Châu Phi – một trong những châu lục phải đối mặt với những vấn đề xung đột môi trường, ô nhiễm môi trường. Công trình đã khẳng định sự tham gia của NGOs có vai trò quan trọng trong thực hiện các gói cứu trợ nhân đạo đối với các nhóm yếu thế chịu tác động bởi những thảm họa thiên tai. Năm 2001, Michele M. Betsill, Elisabeth Corellm và một số tác giả khác trong tác phẩm NGO Influence in International Environmental Negotiations: A framework for Analysis (Ảnh hưởng của tổ chức phi chính phủ trong cuộc đàm phán môi trường quốc tế) đã đi sâu phân tích sự tham gia của NGOs trong đàm phán quốc tế, đưa ra các vấn đề đòi hỏi không chỉ có một mà cần nhiều quốc gia quan tâm để tìm tiếng nói chung như vấn đề bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu. Đáng chú ý, năm 2008, Anjali Agarwal trong tác phẩm Role of NGO’s in the Protection of Environment đã chỉ ra các vai trò của NGOs trong bảo vệ môi trường, trong đó nhấn mạnh các tổ chức này có đóng góp tích cực cho việc xử lý các vấn đề thảm họa môi trường, vì đây là tổ chức trung gian trong việc đưa tiếng nói của cộng đồng trong các diễn đàn chính thức của quốc gia về bảo vệ môi trường. 4 Năm 2009, Inger Ulleberg trong tác phẩm The role and impact of NGOs in capacity developmentf from replacing the state to reinvigorating education lại nhấn mạnh vai trò và tác động của NGOs trong mối quan hệ tương tác với chính phủ. Đây là một tiếp cận mới. Cũng trong cùng năm này, SI Omofonmwan trong tác phẩm The Role of Non-Governmental Organisations in Community Development: Focus on Edo State–Nigeria và D Lewis trong nghiên cứu Non-Governmental Organizations and Development đưa ra tiếp cận vai trò của NGOs trong phát triển cộng đồng, phát triển bền vững trong phạm vi quốc gia. Trong năm 2011, Peter Willetts trong tác phẩm The Role of NGOs in the Global Governance tiếp cận vai trò của NGOs trong quản trị toàn cầu, nhận diện và phân tích vai trò của NGOs trong mô hình phát triển của các quốc gia, trong việc hình thành các hiệp hội mang quy mô khu vực và quốc tế về bảo vệ môi trường. Cùng năm, Sundar Vadaon trong nghiên cứu Role of NGO’s in Environmental Conservation and Development nhấn mạnh về đối thoại và phát triển môi trường trong đó nhấn mạnh tính chất “phi chính phủ” giúp NGOs thể hiện vai trò tiên phong, chủ động đối thoại với Chính phủ và các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp về các vấn đề môi trường và chính sách môi trường tại các quốc gia. Năm 2012, Nalirupa trong nghiên cứu A study on Non-Governmental Organization’s (NGO’s) in Protecting The Environment, nhận diện vai trò của NGOs trong bảo vệ môi trường với các nghiên cứu trường hợp tại một số quốc gia. Đây cũng là nghiên cứu tiếp cận trực tiếp về các hoạt động và đóng góp của NGOs trong bảo vệ môi trường. Năm 2013, Rajamanickam Srinivasan trong tác phẩm In a developing country, what role can non governmental organisations (NGOs) play in obtaining good governance?, tác giả có cách nhìn nhận chi tiết và cụ thể về vai trò của NGOs tại các quốc gia đang phát triển trong quản trị quốc gia. Gần đây nhất, năm 2016, M. Loganathan trong nghiên cứu Role of NGO’s in Protecting Environment and Health đã tập trung phân tích vai trò của NGOs trong tiếp cận về bảo vệ môi trường và ảnh hướng tới sức khỏe của cộng đồng. 5 Đáng chú ý là hai bài viết liên quan đến sự tham gia của NGO trong quá trình hoạch định chính sách công nghệ thân thiện môi trường như sau: Joachim H Spangenberg với bài viết The role of NGO’s in the German Environmental Policy: Past and Present perspectives of environmental NGO’s mô tả vai trò đang thay đổi của NGOs trong các quy trình chính sách tại Đức, được minh họa bằng vận động của môi trường. Từ việc bảo tồn thiên nhiên phi chính trị đến việc ngăn chặn sự mở rộng, hiếm khi đòi đóng cửa các nhà máy mà thường là thi hành các biện pháp xử lý chất thải và/ hoặc tăng cường giám sát việc sản xuất tại các nhà máy, nỗ lực khiến giới chính trị nhìn nhận vấn đề môi trường một cách nghiêm túc hơn. Haoming Huang trong The development of civil society and its role in policymaking in China chỉ rõ mục đích của việc thành lập NGOs là thúc đẩy việc cải cách chính sách của Nhà nước thông qua các hoạt động của họ. Tác giả có kể đến thành công của Hiệp hội năng lượng mới Trung Quốc (CREIA) trong việc xây dựng Luật năng lượng mới Trung Quốc. Đây là một ví dụ để cho NGOs Việt Nam học tập trong việc thúc đẩy công nghệ thân thiện môi trường bởi phát triển nguồn năng lượng mới sẽ thúc đẩy sự phát triển của các công nghệ mới. Như vậy, nhìn chung các nghiên cứu đều rất phong phú trong đó nhấn mạnh sự phát triển mạnh mẽ của NGOs trên thế giới, vai trò ngày càng quan trọng, tham gia đóng góp trên nhiều phương diện của NGOs với các vấn đề phát triển của quốc gia, trong đó có bảo vệ môi trường. Tuy vậy, tại mỗi quốc gia thì vai trò của NGOs có thể khác nhau, quy định bởi hành lang pháp lý về chức năng và phạm vi hoạt động của NGOs, về các lĩnh vực phát triển của quốc gia và quy mô phát triển của NGOs tại các quốc gia này. Trong một số tác phẩm về vai trò của NGOs tại các quốc gia, vai trò tham gia hoạch định chính sách cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau. 6 2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 2.2.1. Các đề tài, nghiên cứu liên quan đến sự phát triển của NGO, phân tích vai trò và tầm quan trọng của NGO Nội dung của các công trình nghiên cứu này tập trung làm sáng tỏ những vấn đề như vai trò, phương thức hoạt động, kinh nghiệm xây dựng dự án viện trợ, những đóng góp tích cực và những vấn đề đặt ra về vai trò của NGOs tại Việt Nam, cụ thể như: Năm 1993, trong tập hợp các bài viết về Các tổ chức phi chính phủ và hoạt động xã hội trên Diễn đàn của Viện Xã hội học, bước đầu phân tích khái niệm về NGOs và phạm vi hoạt động của NGOs tại Việt Nam với những đóng góp đầu tiên về thực hiện các hoạt động nhân đạo, cứu trợ và phát triển. Song nghiên cứu còn hạn chế bởi ở giai đoạn này hành lang pháp lý về NGOs còn chưa thực sự được nhận diện một cách cụ thể. Năm 2008, nhóm chuyên gia của Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường đã phân tích cụ thể vai trò của các NGO Việt Nam (VNGOs) trong tác phẩm Vài nét về các tổ chức VNGO hoạt động trong lĩnh vực phát triển nông thôn. Năm 2010, nhóm chuyên gia của Trung tâm hợp tác phát triển nguồn nhân lực tập trung phân tích về vai trò của XHDS, mà tổ chức NGO đóng vai trò nòng cốt, trong công tác xóa đói giảm nghèo trong tác phẩm Xã hội dân sự và những mô hình thành công trong xóa đói giảm nghèo với sự tham gia, giám sát của người dân, trong đó có đề cập tới vai trò của NGOs. Trong công trình nghiên cứu “Vai trò quản lý nhà nước đối với các hoạt động của NGOs ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn” (NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2008) của Nguyễn Xuân Thiêm đã đề cập một cách khá toàn diện về mặt lý luận và thực tiễn về khái niệm, đặc điểm, nội dung quản lý nhà nước (QLNN) đối với NGOs từ năm 1986 đến 2008. Đặc biệt, công trình nghiên cứu này đã đi sâu phân tích những đặc điểm khác biệt giữa cơ chế QLNN đối với NGOs trong nước và NGOs nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, công trình nghiên cứu đã nêu ra những mặt đạt được cũng như những vấn đề hạn chế, tồn tại, nguyên nhân của các mặt bất cập của các cơ chế, chính sách, đồng thời đưa ra các 7 nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả, hiệu lực QLNN đối với NGOs ở Việt Nam trong những năm tiếp theo. Năm 2009, Đỗ Sơn Hà với công trình nghiên cứu “Thực trạng và giải pháp về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, tổ chức phi chính phủ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”đã đưa ra khái niệm NGOs, vai trò của NGOs trong đời sống xã hội Việt Nam và đời sống chính trị quốc tế, thực trạng QLNN đối với NGOs song chưa đề cập tới vai trò của NGOs trong phát triển kinh tế - xã hội. Lưu Minh Văn (Tạp chí Quản lý Nhà nước số 183/4-2011) với bài viết “Bàn về thể chế quản lý các hội, tổ chức phi chính phủ của một số nước trên thế giới”, đã phân tích tính đa dạng của hệ thống về thể chế quản lý các hội, NGOs của các nước trên thế giới và khẳng định các yếu tổ tác động là thể chế chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội và truyền thống lịch sử, văn hóa, tôn giáocủa mỗi nước. Năm 2013, Đặng Ngọc Dinh trong nghiên cứu Các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam: Vai trò và sự tham gia trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước thời kỳ 1991-2012, đã phân tích cụ thể về cơ sở pháp lý và đóng góp của XHDS và những giải pháp tăng cường sự tham gia của NGOs trong đổi mới và phát triển đất nước. Đây là một nghiên cứu phân tích đa chiều và có cái nhìn tổng quát về vai trò của XHDS – đến nay vốn được coi là một thành phần không chính thức, còn nhiều tranh luận trong một thời gian dài về định nghĩa, phạm vi hoạt động, đặc biệt là trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách tại Việt Nam. Cũng trong cùng năm này, nhóm nghiên cứu của Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường đã hoàn thiện Báo cáo kết quả nghiên cứu Quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các tổ chức phi chính phủ quốc tế trong 5 năm qua và định hướng tương lai, với tiếp cận về vai trò của NGOs quốc tế với sự phát triển của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và nhu cầu phát triển nội sinh của Việt Nam trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường, đối mặt với các thách thức về vấn đề bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Gần đây nhất, năm 2015,Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường đã xuất bản tài liệu về Vận động và chiến lược vận động của các tổ chức phi chính phủ 8 Việt Nam đã đề xuất chiến lược vận động của NGOs trong quá trình hoạt động và mở rộng phạm vi hoạt động tại Việt Nam trong bối cảnh chung.Và năm 2016, Trung tâm nghiên cứu quản lý và phát triển bền vững đã tổ chức tọa đàm về vai trò của NGOs, trong Kỷ yếu tọa đàm Môi trường pháp lý thuận lợi cho hội và các tổ chức phi chính phủ đóng góp xây dựng đất nước đề cập đến vai trò của NGOs, môi trường phát triển, đặc biệt phân tích những rào cản về hành lang pháp lý quy định về phạm vi hoạt động của NGOs tại Việt Nam trong nghiên cứu so sánh với các quốc gia khác. Ngoài ra, các tài liệu khác như luận văn “Hoạt động của NGOs nước ngoài ở Việt Nam giai đoạn 1996 – 2006” của Chử Thị Thu Hà cũng đề cập một cách tổng quan về lịch sử hoạt động của NGOs ở Việt Nam trong một giai đoạn nhất định, Luận án Tiến sỹ “Huy động nguồn lực phi chính phủ quốc tế trong phát triển kinh tế - xã hội ở một số nước Châu Á đang phát triển” của Nguyễn Song Bình các đề tài này chủ yếu nghiên cứu trên tiếp cận quản lý kinh tế về sự cần thiết thiết lập quan hệ với NGOs trong huy động nguồn lực phát triển quốc gia. 2.2.2. Các đề tài, nghiên cứu liên quan đến vai trò của NGOs với lĩnh vực bảo vệ môi trường và tham gia quá trình hoạch định chính sách về công nghệ thân thiện môi trường Trong đề tài, “Luận cứ khoa học của việc xác lập và hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích hội và NGOs tham gia bảo vệ môi trường (BVMT)”, Nguyễn Ngọc Lâm đã luận giải vấn đề về hội và NGOs nói chung trong việc tham gia hoạch định chính sách về Bảo vệ môi trường (BVMT) tại Việt Nam. Năm 2009, Trung tâm nghiên cứu và phân tích chính sách (nay là Viện Chính sách và Quản lý, Trường ĐHKHXH&NV Hà Nội) đã xuất bản Kỷ yếu hội thảo quốc tế về Vai trò của công dân trong quá trình hoạch định chính sách, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội và đến năm 2011, tiếp tục xuất bản kỷ yếu về Sự đóng góp của các tổ chức chính trị-xã hội trong quá trình hoạch định chính sách ở Việt Nam, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội. Trong đó, một số học giả cho rằng NGOs là một bộ phận của XHDS có vai trò quan trọng trong quá trình hoạch định chính sách 9 ở Việt Nam, đồng thời cũng chỉ ra những đóng góp cụ thể của NGOs tại Việt Nam trong hoạch định chính sách bảo vệ môi trường, xử lý xung đột môi trường. Trong Luận văn của Lê Thị Kim Cúc (2014) về Quản lý nhà nước đối với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay, học viên đã phân tích cụ thể về vấn đề quản lý Nhà nước với NGOs và chỉ ra rằng đây là một trong những yếu tố quyết định chức năng, phạm vi hoạt động của NGOs tại Việt Nam trong vấn đề BVMT. Lê Quốc Hùng trong nghiên cứu gần đây nhất, năm 2016, về Nghiên cứu sự tham gia của một số tổ chức xã hội dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại Việt Nam đề cập không chỉ về mức độ tham gia mà còn chỉ ra những cơ hội và thách thức với NGOs trong quá trình tham gia hoạch định chính sách bảo vệ môi trường tại Việt Nam hiện nay. Như vậy, có thể thấy rằng đã có rất nhiều các nghiên cứu về vai trò của NGOs trong bảo vệ môi trường, trong quá trình hoạch định chính sách về môi trường. Tuy vậy, vẫn chưa có nghiên cứu phân tích về vai trò của NGOs với quá trình hoạch định chính sách công nghệ thân thiện môi trường ở Việt Nam. Một phần là do nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, NGOs được coi là một bộ phận của xã hội dân sự (XHDS) - một trong những thành phần trước đây được coi là “phi chính thức” với rất ít có những quy định pháp lý cụ thể về chức năng với quá trình hoạch định chính sách tại Việt Nam. Hiện nay, cách nhìn nhận về vai trò của XHDS nói chung và NGOs nói riêng đã cởi mở hơn với quan niệm đây là các đại diện tiếng nói của người dân, hoặc các nhóm cộng đồng (nhóm dễ bị tổn thương, nhóm bị thiệt) bị tác động bởi các chính sách về BVMT. Tuy vậy, NGO vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc trở thành một bộ phận quan trọng và cần thiết, tất yếu trong các nhóm xã hội tham gia quá trình hoạch định các chính sách về sử dụng công nghệ thân thiện môi trường. Trong bối cảnh Việt Nam hiện đang gặp nhiều vấn đề gay gắt về môi trường và BVMT, rất nhiều doanh nghiệp chưa ý thức được trách nhiệm về bảo vệ môi trường, do theo đuổi lợi nhuận, vẫn sử dụng những công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm 10 môi trường nghiêm trọng. Vai trò của NGO với tư cách là một tác nhân trung gian phục vụ lợi ích cộng đồng và có sức ảnh hưởng với các nhóm xã hội lại càng quan trọng và cần thiết. Chính vì vậy, học viên mong muốn qua việc thực hiện đề tài luận văn có thể xác định và củng cố vai trò của NGOs trong quá trình hoạch định chính sách công nghệ thân thiện môi trường nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam. 3. Mục tiêu nghiên cứu Phân tích vai trò của NGOs với việc hoạch định chính sách công nghệ thân thiện môi trường ở Việt Nam; đề xuất các khuyến nghị tăng cường điều kiện để NGOs tham gia hoạch định chính sách công nghệ thân thiện môi trường ở Việt Nam. 4. Phạm vi nghiên cứu - Giới hạn phạm vi về nội dung: vai trò của NGOs trong quá trình hoạch định chính sách công nghệ thân thiện môi trường . - Giới hạn phạm vi quãng thời gian diễn biến của đối tượng nghiên cứu: 2013-2016. - Giới hạn phạm vi không gian khảo sát: Việt Nam. Tác giả giành nhiều chú ý hơn vào khu vực thành thị, khu công nghiệp do đây là khu vực có nhiều các hoạt động liên quan đến hoạch định chính sách công nghệ thân thiện môi trường. Đặc biệt là thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh- nơi tập trung NGOs nhiều nhất, hoạt động sôi nổi nhất trong cả nước 5. Mẫu khảo sát NGOs hoạt động trong lĩnh vực môi trường ở Việt Nam. 11 6. Câu hỏi nghiên cứu 6.1. Câu hỏi chủ đạo của đề tài (Leading question): Phải chăng, nếu vai trò của NGOs ngày càng nâng cao trong việc hoạch định các chính sách công nghệ thân thiện môi trường ở Việt Nam thì môi trường và xã hội dân sự Việt Nam càng phát triển bền vững hơn? 6.2. Các câu hỏi cụ thể (Sub-questions): -Tại sao cần có sự tham gia của NGOs trong quá trình hoạch định chính sách công nghệ thân thiện môi trường ở Việt Nam? -Trong quá trình tham gia hoạch định chính sách công nghệ thân thiện môi trường ở Việt Nam, NGOs gặp những thuận lợi và khó khăn gì? - Có thể thực hiện những giải pháp nào để tăng cường vai trò của NGOs trong quá trình tham gia hoạch định chính sách công nghệ thân thiện môi trường ở Việt Nam? 7. Giả thuyết nghiên cứu 7.1. Giả thuyết chủ đạo: Vai trò của NGOs ngày càng nâng cao trong việc hoạch định các chính sách công nghệ thân thiện môi trường ở Việt Nam sẽ thúc đẩy nền sản xuất theo hướng bền vững đồng thời nhấn mạnh hơn nữa vai trò không thể thiếu của xã hội dân sự vào quá trình phát triển của đất nước 7.2. Các giả thuyết khác - Cần có sự tham gia của NGOs trong quá trình hoạch định chính sách sử dụng công nghệ thân thiện môi trường xuất phát từ (1) Nguyên nhân khách quan: Môi trường tự nhiên (nơi trực tiếp xảy ra các biến đổi môi trường) và môi trường thiết chế (những văn bản chính sách khuyến khích hoạt động của các tổ chức phi chính phủ). (2) Nguyên nhân chủ quan: Phạm vi và chức năng hoạt động của NGOs hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thân thiện môi trường tại Việt Nam. - NGOs có điều kiện về tài chính, chuyên môn (được sự hỗ trợ từ các chuyên gia nước ngoài, có vốn tài trợ quốc tế) trong thực hiện các dự án công nghệ thân thiện môi trường, hoặc có khả năng đóng góp các ý kiến/ý tưởng chính sách, tham gia phản biện, vận động chính sách. Tuy nhiên, NGOs gặp phải các khó khăn về cơ 12 sở pháp lý quy định vai trò tất yếu và cần thiết trong các diễn đàn chính sách của quốc gia cũng như có vị thế yếu trong nhận thức của xã hội. - Để tăng cường vai trò của NGOs trong quá trình hoạch định chính sách sử dụng công nghệ thân thiện môi trường cần hoàn thiện khung pháp lý tạo thuận lợi cho việc tham gia vào hoạch định chính sách công nghệ thân thiện môi trường của NGOs, đồng thời NGOs cần nỗ lực hơn nữa để tự hoàn thiện bản thân. 8. Phương pháp chứng minh giả thuyết - Nghiên cứu tài liệu: các nguồn tài liệu sơ cấp và thứ cấp, cả trong nước và nước ngoài. - Phỏng vấn sâu: Tác giả tiến hành phỏng vấn sâu với 22 chuyên gia, các nhà nghiên cứu, đại diện của cơ quan ban hành và thực thi chính sách và NGOs. Người tham gia nghiên cứu được thông báo đầy đủ về mục đích của nghiên cứu và về các quy tắc bảo mật thông tin cho người trả lời. Họ được lựa chọn tham gia nghiên cứu thông qua cách chọn mẫu có chủ đích để mẫu nghiên cứu có thể bao gồm những người thuộc các giới tính, nghề nghiệp, độ tuổi và khu vực sinh sống khác nhau như trình bày trong phụ lục 1. Tác giả sử dụng phương pháp phân tích theo chủ đề để phân tích thông tin định tính. Theo đó, nội dung của các phỏng vấn sâu được chia thành 3 nhóm tương ứng với các câu hỏi nghiên cứu cụ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf02050004623_9252_2006145.pdf
Tài liệu liên quan