Tổng cục du lịch cùng Uỷ ban kế hoạch nhà nước, Bộ xây dựng và các Bộ, Ngành có liên quan và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố tiến hành ngay việc lập quy hoạch tổng thể phát triển du lịch trong cả nước và từng vùng, trước tiên là vùng thành phố Hồ Chí Minh – Biên hoà - Vũng tàu, vùng Thừa thiên Huế – Quảng nam - Đà nẵng và vùng Hà nội – Hải phòng – Quảng ninh; lập kế hoạch đầu tư, cải tạo, nâng cấp, xây mới các cơ sở hạ tầng và khách sạn trong cả nước và từng địa phương, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch trước mắt và lâu dài.
74 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2645 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vai trò của Nhà nước đối với hoạt động Du lịch nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g nhân hay khách công vụ. Có khoảng từ 6 đến 60 phòng. Vị trí thường nằm ở các đô thị hoặc tại các danh lam thắng cảnh nổi tiếng.
+ Khách du lịch lớn và các cơ sở kinh doanh qui mô lớn. Đối tượng phục vụ là khách du lịch nhiều tiền hay thương nhân. Có trên 60 phòng thường nằm ở các trung tâm đô thị hoặc tại các khu du lịch nổi tiếng. Các khách sạn du lịch lớn gồm nhiều loại, như khách sạn phục vụ các thương gia hay khách du lịch quá cảnh, các khách sạn nghỉ ngơi (3 dến 5 sao) nhằm đón các khách du lịch đến nghỉ trong thời gian ngắn, các làng du lịch (từ 3 đến 5 sao) nhằm phục vụ khách du lịch đến nghỉ trong từng thời gian ngắn. Ngoài các cơ sở ăn uống, lưu trú trên, trong thành phần của chúng còn bao gồm cả hệ thống nhà kho, nhà bảo quản, nhà bếp. Trang thiết bị và trang trí nội thất phải được bố trí hợp lý, tạo được bầu không khí thoải mái, dễ chịu cho khách du lịch. Ngoài ra, các cơ sở này còn là nơi vui chơi giải trí cho họ, vì vậy chúng còn có thể có hệ thống công trình trang thiết bị phục vụ chơi giải trí như dàn nhạc, sàn khiêu vũ, phòng xem video, trò chơi điện tử ...
Màng lưới cửa hàng thương nghiệp:
Là một thành phần trong cơ cấu cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Mục đích của chúng là đáp ứng nhu cầu về hàng hoá của khách du lịch (trong nước cũng như quốc tế) bằng việc bán các mặt hàng đặc trưng cho du lịch, hàng thực phẩm và các hàng hoá khác.
Cơ sở vật chất kỹ thuật này bao gồm 2 phần: một phần thuộc các trung tâm dịch vụ du lịch là chủ yếu. Phần khác thuộc mạng lưới thương nghiệp địa phương với nhiệm vụ phục vụ nhân dân địa phương, đồng thời cũng đóng vai trò quan trọng đối với việc phục vụ khách du lịch, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch ở nơi đó.
Do khách du lịch đông, lại từ nhiều nơi đến nên nhu cầu về hàng hoá của họ rất phong phú, đa dạng, tuỳ theo đặc điểm tiêu dùng như tính truyền thống, tính dân tộc ... Từ đó cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng nhu cầu trên cũng phong phú, đa dạng, từ cửa hàng bán thực phẩm, rau quả, cửa hàng bán đồ lưu niệm đến các cửa hàng bán đồ chuyên dùng cho du lịch, bán hàng tiêu dùng (bằng ngoại tệ hay nội tệ ...)
Các cửa hàng có thể được bố trí trong khách sạn, tại khu du lịch, đầu mối giao thông.
Cơ sở thể thao:
Là một bộ phận của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Chúng có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho kỳ nghỉ của khách du lịch, làm cho nó trở nên tích cực hơn. Các cơ sở thể thao gồm có các công trình thể thao, các phòng thể thao hay trung tâm thể thao với nhiều loại khác nhau, các thiết bị chuyên dùng cho mỗi loại (bể bơi, xe đạp nước, cầu trượt nước, cho thuê ô tô...).
Ngày nay, công trình thể thao là một bộ phận không thể tách rời khỏi cơ cấu vật chất kỹ thuật của các trung tâm du lịch. Chúng làm tăng hiệu quả sử dụng của khách sạn, camping... và làm phong phú thêm các laọi hình hoạt động du lịch.
Cơ sở y tế:
Nhằm mụcđích phục vụ du lịch chữa bệnh và cung cấp dịch vụ bổ sung tại các điểm du lịch. Cơ sở vật chất kỹ thuật ở đây bao gồm các trung tâm chữa bệnh (bằng nước khoáng, ánh nắng mặt trời, bùn, các món ăn riêng ...), các phòng y tế với các trang thiết bị trong đó (phòng tắm hơi, massage ...).
Các cơ sở y tế luôn gắn liền với các công trình thể thao và có thể được bố trí ngay trong khách sạn.
Các công trình phục vụ hoạt động thông tin văn hoá: phục vụ du lịch nhằm mục đích nâng cao, mở rộng kiến thức văn hoá xã hội cho khách du lịch, tạo điều kiện giao tiếp xã hội, tuyên truyền về truyền thống, thành tựu văn hoá của các dân tộc.
Các công trình này bao gồm trung tâm văn , thông tin, phòng chiếu phim, nhà hát, câu lạc bộ, phồng triển lãm ... Chúng có thể được bố trí trong khách sạn hoặc hoạt động một cách độc lập tại các trung tâm du lịch.
Hoạt động văn hoá thông tin có thể được tổ chức thông qua các buổi dạ hội hữu nghị, hội hoá trang, đêm ca nhạc, tuần lễ biển, buổi gặp gỡ trao đổi giữa khách giữa những khách du lịch có cùng một nghề, buổi chiếu phim, xem kịch, tham quan viện bảo tàng ...
Tuy các công trình này có ý nghĩa thứ yếu đối với quá trình phục vụ du lịch, nhưng chúng giúp cho khách du lịch sử dụng thời gian rỗi một cách hợp lý, làm cho họ cảm thấy thoải mái trong kỳ nghỉ của mình tại khu du lịch.
Cơ sở dịch vụ và các dịch vụ bổ sung khác:
Các công trình này là điều kiện bổ sung, giúp cho khách du lịch sử dụng triệt để hơn tài nguyên du lịch, tạo ra những tiện nghi cho họ đi lại và lưu trú tại điểm du lịch.
Bộ phận này bao gồ trạm xăng dầu, thiết bị cấp cứu (ở biển hoặc núi), xưởng sửa chữa dụng cụ thể thao, phòng rửa, tráng phim ảnh, hiệu cắt tóc, hiệu sửa đồng hồ, bưu điện....
Các công trình này được xây dựng thường là để phục vụ nhân dân địa phương là chủ yếu, còn đối với du lịch chúng có vai trò thứ yếu. Nhưng tại các điểm du lịch chúng góp phần làm tăng tính đồng bộ của hệ thống dịch vụ du lịch. Các bộ phận trong cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra và thực hiện toàn bộ sản phẩm du lịch. Chúng tồn tại một cách độc lập song đồng thời lại có mối quan hệ khăng khít với nhau, góp phần năng cao tính đồng bộ của sản phẩm du lịch, tính hấp dẫn của điểm du lịch.
Trong những năm qua nhờ chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước, Sự cố gắng của những người làm du lịch và sự phối kết hợp có hiệu quả của các ngành nội vụ, hải quan, hàng không, văn hoá ... du lịch Việt Nam có sự tiến bộ rất nhanh cả về số lượng và chất lượng. Sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam đã tạo ra những cơ sở cực kỳ quan trọng để hoà nhập du lịch nước ta với du lịch vùng và du lịch thế giới.
Chương II Tác động của nhà nước trong hoạt động du lịch trong thời gian qua
I Tác động của nhà nước thông qua hệ thống văn bản hiện hành về quản lý du lịch.
Nghị quyết 45-CP của Chính phủ về đổi mới quản lý và phát triển ngành du lịch.
Tại phiên họp ngày 21 tháng 4 năm 1993 Chính phủ đã quyết nghị về những chủ trương biện pháp đổi mới quản lý và phát triển ngành du lịch trong thời gian tới, theo phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đề ra.
Du lịch là một ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Du lịch là một ngành kinh tế mang tính chất tổng hợp, có tác dụng góp phần tích cực thực hiện chính sách mở của; thúc đẩy sự đổi mới và phát triển của nhiều ngành kinh tế khác, tạo công ăn việc làm, mở rộng giao lưu văn hoá và xã hội giữa các vùng trong nước và giữa nước ta với nước ngoài, tạo điều kiện tăng cường tình hữu nghị, hoà bình và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc.
Nước ta có tiềm năng lớn về nhiều mặt để phát triển du lịch, có điều kiện thiên nhiên phong phú, có nhiề danh lam, thắng cảnh nổi tiếng, có truyền thống văn hoá lâu đời với nhiều lễ hội, phong tục, taqạp quán tốt đẹp và độc đáo, nhiều di tích lịch sử, ttôn giáo, kiến trúc nghệ thuật đạc sắc, giàu bản sắc nhân văn, nguồn lao động dồi dào, thông minh, cần cù và giàu lòng nhân ái.
Trong những năm gần đây, ngành du lịch đã có những đổi mới từng bước phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo điều kiện bước đầu thu hút khách nước ngoài và kiều bào về thăm Tổ quốc; giới thiệu đất nước, con người, và tinh hoa của dân tộc Việt Nam với bạn bè quốc tế; đáp ứng một phần nhu cầu tham quan, nghỉ ngơi, giải trí của nhân dân trong nước, bước đầu đã thu được kết quả nhất định về kinh tế.
Song do nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, tính chất và tác dụng nhie4èu mặt về kinh tế, chính trị, xã hội của hoạt động du lịch, nên công tác quản lý nhà nước còn bị buông lỏng. Điều đáng lưu ý là chúng ta chưa có chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển du lịch trong cả nước và từng vùng, từng điạn phương; chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành trong sự nghiệp phát triển du lịch; chưa có quy điịnh cụ thể nhiệm vụ, trách nhiệm của từng ngành; cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch còn yếu kém, cơ sở vật chất, tràng thiết bị trong ngành du lịch còn thiếu thốn, lạc hậu; nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử có giá trị chưa được tu bổ, tôn tạo, khai thác; nội dung hoạt động du lịch còn nghèo nàn, chất lượng phục vụ kém, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ, nhân viên du lịch chưa đáp ứng được nhu cầu, nhiệm vụ. Vì vậy hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động du lịch những năm qua còn thấp, chưa tương ứng với tiềm năng du lịch và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng đất nước trong tình hình mới. Từng lúc, từng nơi đã có những tác động xấu về trật tự và an ninh xã hội.
Phương hướng, mục tiêu phát triển du lịch.
Trong sự nghiệp đổi mới quản lý và phát triển ngành du lịch theo định hướng mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội do Đảng và Nhà nước đề ra, cần nhất quán những quan điểm sau:
Là một ngành kinh tế mang tính chất tổng hợp, việc phát triển ngành du lịch phải lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm mục tiêu chính. Đồng thpời, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, giữu gìn và páht huy truyền thống văn hoá, bản sắc dân tộc và nhân phẩm của con người Việt Nam.
Tính đa ngành của hoạt động du lịch đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các ngành, các cấp dưới sự chỉ đạo tập trung thống nhất của Nhà nước.
Thực hiện cơ cấu kinh tế có nhiều thành phần kinh tế tham gia kinh doanh du lịch nhưng Nhà nước làm là chính nhằm khai thác triệt để mọi khả năng về tiền vốn, kỹ thuật, tri thức và lao động ở trong và ngoài nước để phát triển du lịch.
Đẩy mạnh phát triển du lịch quốc tế, coi đó là một hướng chiến lược, đồng thời chú trọng phát triển du lịch nội địa, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân về tham quan, du lịch trong nước và ngoài nước, góp phần nâng cao dân trí, phục hồi sức khoẻ, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta.
+ Phương hướng phát triển du lịch.
Không ngừng nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các sản phẩm du lịch, tạo sự hấp dẫn, thu hút khách du lịch quốc tế để làm cho ngành du lịch Việt Nam phát triển nhanh, sớm đuổi kịp ngành du lịch của các nước phát triển ở trong vùng và trên thế giới, đưa du lịch nước ta trở thành một ngành kinh tế quan trọng, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác trong nước, tạo công ăn việc làm cho xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân về tham quan, du lịch.
Những chủ trương và biện pháp thực hiện.
Tăng cường quản lý Nhà nước về du lịch trên phạm vi cả nước và từng vùng lãnh thổ.
Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chế độ, chính sách về du lịch để bảo đảm quản lý nhà nước chặt chẽ, thống nhất, đồng bộ trên phạm vi cả nước.
Nhanh chóng kiển toàn Tổng cục du lịch; xúc tiến thành lập các sở du lịch ở các tỉnh, thành phố là trung tâm du lịch; quy địng rõ chức năng, nhiệm vụ và tiêu chuẩn cán bộ của ngành du lịch.
Sắp xếp lại hệ thống kinh doanh du lịch theo hướng chuyên môn hoá nghề nghiệp du lịch và khách sạn để nang cao chất lượng các dịch vụ du lịch;
Thực hiện đấu thầu hoặc cổ phần hoá một số khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ... nhằm khuyến khích và huy động vốn của các thành phần kinh tế trong nước tham gia hoạt động du lịch
Triển khai quy hoạch tổng thể phát triển du lịch trong cả nước và quy hoạch ba vùng du lịch trọng điểm.
Tổng cục du lịch cùng Uỷ ban kế hoạch nhà nước, Bộ xây dựng và các Bộ, Ngành có liên quan và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố tiến hành ngay việc lập quy hoạch tổng thể phát triển du lịch trong cả nước và từng vùng, trước tiên là vùng thành phố Hồ Chí Minh – Biên hoà - Vũng tàu, vùng Thừa thiên Huế – Quảng nam - Đà nẵng và vùng Hà nội – Hải phòng – Quảng ninh; lập kế hoạch đầu tư, cải tạo, nâng cấp, xây mới các cơ sở hạ tầng và khách sạn trong cả nước và từng địa phương, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch trước mắt và lâu dài.
Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học phát triển du lịch.
Tổng cục du lịch chủ trì Uỷ ban kế hoạch nhà nước, Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ khoa học – công nghệ và môi trường phối hợp xây dựng đề án về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học cho ngành du lịch theo hướng sau đây:
Căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ và chức danh tiêu chuẩn, công chức, viên chức để tiến hành soát xét, xác định số cán bộ, nhân viên cần đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ quản lý và nghiệp vụ kinh doanh về nghiệp vụ, kỹ thuật, ngaọi ngữ bằng nhiều hình thức phù hợp nhằm sớm ứng dụng được kiến thức khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ và quản lý hiện đại vào ngành du lịch.
Nhanh chóng củng cố, sắp xếp kiện toàn lại các trường du lịch, đào tạo đội ngũ giáo viên giỏi lý thuyết, thực hành, nghiên cứu hoàn chỉnh nội dung chương trình, từng bước xây dựng mô hình đào tạo “trường – khách sạn” để gắn quá trình đào tạo với thực hành, đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch của đất nước trước mắt và lâu dài.
Tranh thủ sự giúp đỡ, tài trợ của các tổ chức quốc tế và trong nước để xây dựng các dự án, đề tài nghiên cứu khao học cấp nhà nước, cấp ngành và chọn chử cán bộ, nhân viên, học sinh đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài.
Phát triển nhanh cơ sở vật chất, kỹ thuất và cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển du lịch.
Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển du lịch trong cả nước và từng vùng du lịch, Tổng cục du lịch phối hợp cùng với Uỷ ban kế hoạch nhà nước, Uỷ ban nhà nước về hợp tác đầu tư, Bộ tài chính, Ngân hàng nhà nước, và một số Bộ, Ngành liên quan lập đề án huy động nguồn vốn của mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài tham gia đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất cho ngành du lịch theo hướng sau đây:
Tổng cục du lịch cùng các Bộ, Ngành có liên quan và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố sớm lập đề án trình chính phủ phê duyệt kế hoạch đầu tư xây dựng một số cơ sở hạ tầng, khách sạn lớn ở những vùng trọng điểm du lịch.
Tổng cục du lịch phối hợp với Bộ tài chính, Bộ xây dựng kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ tài sản cố định hiện có của ngành du lịch (bao gồm cả các cơ sở thuộc các ngành, các đoàn thể và địa phương) để có điều kiện tính đúng, tính đủ trong hạch toán, tính đúng khấu hao theo thực tế và có kế hoạch sửa chữa, cải tạo, nâng cấp đáp ứng yêu cầu kinh doanh.
Tổng cục du lịch phối hợp với Bộ tài chính, Bộ xây dựng, các Bộ, Ngành liên quan và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phồa soát các nhà khách, nhà nghỉ, công sở của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể có thể sử dụng ngay hoặc có thể sửa chữa nâng cấp thành khách sạn đón khách du lịch – chuyển các cơ sở này sang kinh doanh theo pháp luật hiện hành của nhà nước.
Bộ giao thông vận tải phối hợp với Tổng cục du lịch xây dựng đề án từng bước việc mở rộng, nâng cấp một số sân bay, nâng cấp đường quốc lộ 1A và một số trục đường quan trọng trên cac tuyến du lịch trọng điểm, cải tạo nâng cấp tuyến đường sắt Bắc – Nam, mở rộng các tuyến đường sắt liên vận quốc tế, mở rộng, nâng cấp một số cảng biển, cảng sông và mở một số tuyến tàu biển chở khách du lịch; từng bước hình thành những cửa khẩu quốc tế hiện đại của đất nước để đón khách du lịch quốc tế.
Tổng cục Bưu điện xây dựng đề án hiện đại hoá hệ thống thông tin liên lạc trong nước và hệ thống viễn thông quốc tế phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, trong đó có nhu cầu phát triển du lịch.
Bộ văn hoá - thông tin, Bộ xây dựng và Bộ tài chính cùng Tổng cục du lịch và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố phối hợp xây dựng trình chính phủ đề án tôn tạo, bảo dưỡng các di tích lịch sử, công trình văn hoá, danh lam thắng cảnh, tạo ra các điểm hấp dẫn khách du lịch.
Bộ văn hoá - thông tin, Bộ quốc phòng, Tổng cục thể dục thể thao cùng Tổng cục xây dựng đề án đưa các loại hình văn hoá, nghệ thuật dân tộc, thể thao truyền thống phục vụ các hoạt động vui chơi giải trí trong du lịch để loại bỏ những tiêu cực tác động vào đời sống kinh tế xã hội.
Cải tiến các thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh.
Bộ ngoại giao, Bộ nội vụ, Tổng cục hải quan phối hợp cùng Tổng cục du lịch sửa đổi, bổ sung các thủ tục xuất, nhập cảnh, quá cảnh của khách du lịch cho phù hợp với tình hình thực tế của ta và thông lệ quốc tế, vừa tạo điều kiện thuận lợi để thu hút khách du lịch vào nước ta, đồng thời đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái.
Bộ văn hoá - thông tin, Tổng cục hải quan cùng Tổng cục du lịch trình chính phủ những qui định về quản lý kinh doanh trong nội địa và xuất, nhập văn hóa phẩm, đồ giả cổ... tạo điều kiện cho khách du lịch mua, bán và mang ra, mang vào những phẩm vật này một cách thuận tiện, đúng pháp luật.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, tuyên truyền quảng cáo du lịch.
Xúc tiến việc ký các hiệp định hợp tác du lịch với các nước, nhất là các nước trong khu vực châu á - Thái bình dương, có kế hoạch hợp tác chặt chẽ với các nước có chung biên giới với nước ta để xây dựng và phát triển tuyến du lịch liên hoàn giữa nước ta với những nước đó.
Tổ chức việc mở đại diện du lịch của nước ta ở nước ngoài, trước hết chú trọng những nước hiện đang là đầu mối giao luau quốc tế; đồng thời chủ động xây cất nhà cho các hãng du lịch nước ngoài thuê để mở văn phòng đại diện Việt Nam nhằm mở rộng tuyên truyền quốc tế, thu hút khách du lịch và vốn đầu tư nước ngoài, tranh thủ vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ nhiều nguồn và bằng nhiều hình thức.
Bộ thương mại, Bộ văn hoá - thông tin phối hợp với tổng cục du lịch và các ngành có liên quan đẩy mạnh việc tuyên truyền quảng cáo cho du lịch Việt Nam trên các phương tiện thông tin đại chúng và nhiều hình thức khác.
2)Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 – 2010.
2.1Bối cảnh phát triển.
Nằm ở khu vức Đông nam á - một khu vực đang diễn ra những hoạt động du lịch sôi động, Việt Nam có một vị trí địa lý kinh tế và giao lưu quốc tế thuận lợi để sớm hoà nhập với trào lưu phát triển du lịch của khu vực và thế giới.
a)Đầu tư phát triển du lịch Việt Nam là phù hợp với xu thế chung, phù hợp với chính sách của Đảng và nhà nước.
Trên phạm vi thế giới, du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống xã hội và phát triển với tốc độ ngày càng nhanh.
Trong vòng 30 năm (1960 – 1991) số khách du lịch trên thế giới tăng khoảng 64 lần, thu nhập từ du lịch đã tăng khoảng 38 lần. Với nguồn thu nhập gia tăng như vậy, nhiều nước như Singapore, Thái lan, Malaysia... đã coi du lịch như một ngành kinh tế mũi nhọn, hướng chủ yếu trong chiến lược khai thác tiềm năng, tạo việc làm, mở rộng giao lưu để phát triển kinh tế – xã hội của mình.
Hiện nay, nhịp độ tăng trưởng về số khách quốc tế và thu nhập từ du lịch của khu vực Đông á - Thái bình dương thuộc loại hàng đầu thế giới. Dự kiến đến năm 2010 số khách du lịch đên Đông Nam á sẽ đạt khoảng 72 triệu người; thu nhập tù du lịch tăng khoảng 15,6%. Vai trò, vị trí của ngành du lịch trong nền kinh tế quốc dân cũng ngày càng tăng và được khẳng định.
Với nguồn tài nguyên thiên nhiên hiện có và sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, chúng ta hoàn toàn có đủ các điều kiện thuận lợi để phát triển, sớm đưa du lịch của nước ta hoà nhập vào trào lưu phát triển du lịch của khu vực và thế giới.
b)Tiềm năng du lịch của nước ta phong phú và đa dạng.
Nằm ở vị trí cửa ngõ giao lưu quốc tế, Việt Nam có điều kiện để phát triển giao thông cả về đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không nối với các quốc gia trên thế giới.
Tài nguyên du lịch Việt Nam đa dạng, giàu bản sắc cả về thiên nhiên (bãi biển, hang động, nước nóng, nước khoáng, đảo, lớp phủ thực vật và thề giới động vật quí hiếm, nhiều cảnh quan tự nhiên độc đáo, điển hình... ) lẫn nhân văn (các di tích lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc, những phong tục tập quán, các làng nghề và truyền thống văn hoá đặc sắc của các dân tộc...)
Tạo điều kiện cho chúng ta phát triển nhiều loại hình du lịch phong phú, hấp dẫn như: nghỉ dưỡng, thể thao, nghiên cứu khoa học, hội chợ, hội nghị, festival... dài ngày và ngắn ngày.
Tài nguyên du lịch nước ta được phân bố thành từng cụm, hình thành các môi trương du lịch điển hình trong toàn quốc. Mỗi vùng, mỗi khu vực du lịch có một sắc thái riêng, tạo nên các tuyến du lịch xuyên quốc gia, không lặp lại giữa các vùng làm nhàm chán khách du lịch. Những tài nguyên du lịch này nằm gần các đô thị lớn, các cửa khẩu quốc tế quan trọng, thuận lợi cho việc đi lại, tham quan và ăn nghỉ của du khách. Nhiều vùng như Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh và vùng phụ cận Hà Tây, Ninh Bình, Vĩnh Phú, Hoà Bình..., vùng biển Hạ Long – Cát Bà - Đồ Sơn (Quảng Ninh – Hải Phòng) vùng Đại Lãnh – Văn Phong, Nha Trang (Khánh Hoà), Đảo Phú Quốc (Kiên Giang), Huế - Đà Nẵng, thành phố HCM, Lâm Đồng - Đà Lạt và vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long..., nếu được qui hoạch và đầu tư thích đáng sẽ trở thành những trung tâm du lịch lớn có khả năng cạnh tranh với các nước khác trong khu vực và thế giới.
Trong tương lai không xa, việc nối tour đường bộ tới Malaysia – Singapore và Mianma với tuyến du lịch đông dương (Việt Nam – Lào – Campuchia) thực hiện sẽ khép kín lộ trình của khách du lịch quốc tể Đông Nam á và sẽ tạo ra tuyến du lịch hấp dẫn trong khu vực, mở ra cho nước ta nhiều cơ hội để khai thác và phát triển du lịch với nhiều hình thức hấp dẫn theo phong cách và truyền thống văn hoá Việt Nam.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, du lịch Việt Nam còn kém phát triển. Nếu so sánh với 5 nước Đông Nam á trong cùng thời điểm năm 1988, Việt Nam chỉ đón được lượng khách du lịch quốc tế bằng 1/10 Philipin, 1/15 Inđonesia và xấp xỷ 1/40 Malaysia, Thái Lan hoặc Singapore.
Mấy năm gần đây nhờ sự đổi mới đất nước thu được kết quả quan trọng: kinh tế, tư tưởng, chính trị ổn định, đường lối ngoại giao đa dạng hoá, đa phương hoá, ngành du lịch Việt Nam có những bước tiến bộ. Nhịp độ tăng trưởng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam hàng năm đạt trên dưới 40%. Năm 1990 Việt Nam mới đón 250 nghìn khách quốc tế, thì năm 1994 đã đạt trên 1 triệu, thu hẹp dần khoảng cách đón khách quốc tế so với 5 nước Đông Nam á. Số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam năm 1994 đã bằng 2/3 số khách du lịch quốc tế đến Philipin, bằng 1/4 Indonesia và xấp xỷ bằng 1/6 số khách du lịch quốc tế đến Thái lan, Singapore hoặc Malaysia.
Lực lượng lao động trực tiếp trong ngành dulịch tăng nhanh (1992 có 21.510 người lao động trong khu vực nhà nước, đến năm 1993 đã có 36 851 lao động, tăng 72% so với 1992). Nhìn chung lao động trong ngành du lịch chưa được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ một cách hẹ thống. Một số liên doanh đã tự đào tạo dươcí hình thức tại chỗ hoặc ở nước ngoài. Hiện nay đã có những mạng lưới đào tạo du lịch từ công nhân kỹ thuật đến đại học, tuy nhiên còn thiếu những có sở đào tạo có quy mô hiện đại để đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành.
Kết cấu hạ tầng tuy đã có những bước phát triển nhất định, song nhìn chung còn ở tình trạng thấp kém, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch. Hiện nay việc phát triển du lịch nước ta còn phân tán và đơn điệu, mới chỉ tập trung vào việc xây dựng khách sạn. Việc xây dựng các khu du lịch, các khách sạn chưa được tính toán kỹ lưỡng cả về qui hoach và thiết kế nên dẫn đến tình trạng xây dựng tràn lan, nhiều nơi, đặc biệt là ở các vùng ven biển, vùng có khả năng xây dựng phát triển các loại hình du lịch, đã gây lên những tác động tiêu cực đối với cảnh quan, môi trường. Mặt khác, sự chuẩn bị để hoà nhập với du lịch thế giới về nhận thức, tổ chức bộ máy, con người, có sở vật chất kỹ thuật, kinh nghiệm và hiểu biết về qủan lý điều hành du lịch chưa đáp ứng yêu cầu, có mặt chưa tốt; sự phối, kết hợp giữa các cấp, các ngành trong quản lý, thúc đẩy phát triển du lịch chưa chặt chẽ, trong khi sự cạnh tranh du lịch trong vùng lại ngày càng gay gắt. Mâu thuẫn giữa sự tăng trưởng khách du lịch với năng lực phục vụ như: khách sạn, cơ sở lưu trú, dịch vụ kỹ thuật, giữa phát triển du lịch với phát triển kết cấu hạ tầng, giữa mở cửa thu hút khách với việc đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội đang là những trở ngại và thách thức đối với ngành du lịch.
c)Vị trí, vai trò của du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.
Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, du lịch được xác định là “ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước” (nghị quyết số 45-CP ngày 22 tháng 6 năm 1993 của chính phủ) và “là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước” (chỉ thị số 46-CP/TW ngày 14/10/94). Vì vậy đòi hỏi mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi địa phương và tổ chức xã hội, với trách nhiệm của mình, trong đó ngành du lịch là nòng cốt, phải có nhận thức và tư duy mới nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực của đất nước để “phát triển mạnh du lịch, hình thành ngành công nghiệp du lịch có quy mô ngày càng tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của nước ta” mà nghị quyết lần thứ VII của BCHTW Đảng khoá VII đề ra.
Trước tình hình đó, việc xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển du lịch đã trở nên cấp thiết để đề xuất một sự tiếp cận quốc gia đối với tương lai của ngành du lịch Việt Nam.
2.2 Những mục tiêu và chiến lược phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 – 2010.
a)Những mục tiêu.
+ Mục tiêu về kinh tế:
Tối ưu hoá sự đóng góp của ngành du lịch vào thu nhập quốc dân, góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm để bước vào thập kỷ đầu của thế kỷ 21 du lịch trở thành một ngành công nghiệp tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36.doc