MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 3
6. Những đóng góp khoa học của luận văn 3
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn 4
8. Kết cấu của luận văn 4
Chương 1. DÂN CHỦ VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THỰC HIỆN DÂN CHỦ 5
1.1. DÂN CHỦ - KHÁI NIỆM VÀ TIỀN ĐỀ 5
1.1.1. Khái niệm dân chủ 5
1.1.2. Những tiền đề của dân chủ 12
1.2. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THỰC HIỆN DÂN CHỦ 15
1.2.1. Nhà nước với việc thực hiện dân chủ trong lịch sử 15
1.2.2. Vai trò của nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện dân chủ 22
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG VIỆC THỰC HIỆN DÂN CHỦ HIỆN NAY 28
2.1. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 28
2.1.1. Những thành tựu đã đạt được 28
2.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 33
2.2.1. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 33
2.2.2. Nâng cao vai trò của nhà nước trong việc thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc 40
2.2.3. Mở rộng hợp tác quan hệ quốc tế 45
2.2.4. Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân 50
KẾT LUẬN 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 64
108 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5057 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vai trò của nhà nước trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh tựu như vậy thì trong bản thân bộ máy nhà nước của chúng ta vẫn còn một số tồn tại yếu kém, một số chức năng nhà nước chưa được thực hiện tốt gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực thi dân chủ ở nước ta.
Thứ nhất, cơ cấu bộ máy của các tổ chức trong hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian, công việc chồng chéo và có khi cản trở lẫn nhau, hoạt động còn kém hiệu quả, thiếu thống nhất, không thông suốt, gây phiền hà, chậm trễ trong công việc, lại làm tăng thêm biên chế và chi phí hành chính là một trong những nguyên nhân làm phát sinh nhiều tiêu cực.
Việc xây dựng luật của Quốc hội còn chậm và chưa đáp ứng được yêu cầu cần phải có luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới đang phát sinh hàng ngày trong cuộc sống.
Thẩm quyền, trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức, người đứng đầu ở các cấp, các ngành chưa được chế định đồng bộ chặt chẽ. Đặc biệt việc phân định chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp giữa cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết, chậm khắc phục sự trùng lặp, chồng chéo, vướng mắc về chức năng, thẩm quyền làm ảnh hưởng đến sự thống nhất quyền lực và hiệu quả hoạt động của nhà nước.
Thứ hai, hệ thống cơ chế và chính sách về quản lý nhà nước chưa được cải tiến kịp với quá trình đổi mới theo cơ chế quản lý của nền kinh tế thị trường. Một mặt, hệ thống cơ chế và chính sách hiện nay vẫn tồn tại những kẽ hở để bọn xấu lợi dụng buôn lậu, tham nhũng và làm ăn phi pháp vừa tinh vi, vừa trắng trợn. Một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức thoái hoá biến chất, lợi dụng quyền thế để đục khoét tài sản công, đòi và nhận hối lộ, móc nối và bao che kẻ xấu để cùng làm giàu phi pháp. Tệ lãng phí xa hoa bằng tiền công còn rất nghiêm trọng. Đặc biệt là bọn ăn cắp, hám lợi, lừa đảo thông đồng trong - ngoài để rút ruột tài sản nhà nước và làm giàu bất chính. Mặt khác còn nặng về lối tư duy cũ, cơ chế xin - cho ban phát và bảo trợ từ ngân sách nhà nước, từ các mệnh lệnh theo ý muốn chủ quan của các cơ quan quản lý cấp trên. Do vậy quyền tự chủ, tự quyết định của các cơ quan và chính quyền cấp dưới bị tước bỏ, quyền tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về những quyết định cũng không còn. Điều đó vừa gây tâm lý ỷ lại nặng nề, dựa dẫm vào sự bảo trợ của nhà nước, vừa triệt tiêu sự năng động, sáng tạo của các cơ quan chính quyền cấp dưới.
Thứ ba, bệnh quan liêu còn phổ biến và nghiêm trọng. Tuy gần đây có một số tiến bộ, nhưng ở các cơ quan hành chính ở Trung ương cũng như ở địa phương vẫn còn nhiều biểu hiện thiếu trách nhiệm, xa thực tế, cửa quyền, thiếu dân chủ và ý thức phục vụ, kể cả đối với dân và các doanh nghiệp cũng như đối với cấp dưới và cơ sở. Nhiều thông tin cần thiết không được công bố, phổ biến, hướng dẫn đầy đủ để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Mặc dù phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đã được Đảng và Nhà nước đề ra và quán triệt sâu sắc, nhưng trên thực tế thì rất có nhiều việc người dân chỉ làm, mà không được biết, không được bàn và do đó cũng không được kiểm tra, thậm chí dân có biết nhưng không thể nào kiểm tra được!
Thứ tư, công cuộc cải cách nền hành chính tiến hành còn chậm, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Thời gian qua tuy đã có một số bước tiến về xây dựng thể chế, giảm bớt nhiều thủ tục phiền hà, nhưng hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở vẫn còn nhiều yếu kém, bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức chưa ngang tầm với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Cải cách hành chính chưa đi liền với đổi mới đồng bộ hệ thống chính trị, nên kết quả bị hạn chế. Nhiều luật đã ban hành, có hiệu lực nhưng chậm cụ thể hoá và hướng dẫn thực hiện. Hệ thống bảo vệ pháp luật chưa đủ sức thiết lập và duy trì từ trật tự kỷ cương. Toà án kinh tế, Toà án hành chính chậm được tăng cường để xử lý các tranh chấp dân sự và giải quyết các vụ khiếu kiện cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức. Tình hình đó đang là trở lực của tiến trình đổi mới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nguyên nhân những yếu kém trên bắt nguồn từ những điều kiện khách quan. Trước hết, đó là do điều kiện kinh tế. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quyền dân chủ không thể cao hơn trình độ phát triển kinh tế văn hoá. Hiện thực lịch sử của đất nước ta đi lên CNXH xuất phát từ một nước nông nghiệp, sản xuất nhỏ nghèo nàn, lạc hậu. Vì vậy, cơ sở vật chất cho nhà nước bảo đảm các quyền cho công dân còn rất hạn chế. Hơn nữa nước ta quá độ đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, chưa trải qua chế độ nhà nước pháp quyền tư sản và xã hội công dân nên còn thiếu kinh nghiệm lý luận và thực tiễn để tạo điều kiện cơ sở cho nhà nước thực hiện vai trò của mình trong việc thực hiện dân chủ trong xã hội.
Thứ hai, chúng ta xây dựng CNXH từ một xã hội mang nặng dấu vết của một xã hội thực dân phong kiến, chưa có tập quán và truyền thống của một xã hội dân chủ, chưa trải quả nền dân chủ tư sản, do đó trình độ nhận thức về văn hoá dân chủ, văn hoá pháp luật còn nhiều hạn chế. Hơn nữa nhân dân ta lại phải chịu ảnh hưởng nặng nề của truyền thống dân chủ nông thôn, một tổ chức sinh hoạt của cộng đồng, làng xóm cư xử sao cho "trong ấm ngoài êm" mặc dầu về bản chất nó không được ấm êm như vậy. Do ảnh hưởng của Nho giáo trong đời sống nên dân ta có thói quen đặt tình cao hơn lý trong xử lý mọi vấn đề. Điều đó chứng tỏ nhân dân ta chưa quen sống trong thiết chế pháp lý dân chủ. Ngoài ra một bộ phận dân cư không nhỏ có trình độ học vấn thấp, đời sống kinh tế khó khăn, người dân chỉ lo kiếm sống, ít quan tâm đến vấn đề chính trị, văn hoá xã hội nên họ chưa biết cách tiếp cận đến quyền dân chủ. Đứng trước những bất công, họ không biết nhờ vả vào ai, không biết sử dụng quyền dân chủ như thế nào.
Khi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược nước ta, thay cho sự thâm nhập các nhân tố có giá trị tích cực của dân chủ tư sản, chúng lại duy trì và khoác cho trật tự đẳng cấp phong kiến một cái áo khoác mới, hình thành một truyền thống bảo thủ, trái với nội dung dân chủ trong một xã hội công dân mà chúng ta cần xây dựng.
Hơn nữa chúng ta lại phải đương đầu với các cuộc chiến tranh xâm lược rất tàn khốc cũng như sự chống phá rất thâm độc của kẻ thù từ bên ngoài. Nhà nước ta đã được thiết lập hơn 60 năm qua về bản chất là nhà nước thực thi quyền lực của nhân dân, nhà nước dân chủ hơn bất cứ nhà nước nào. Nhưng về cơ cấu tổ chức và vận hành, về những hình thức thực hiện dân chủ còn có những mặt hạn chế. Bởi vì nhà nước nói riêng và hệ thống chính trị nói chung đã được thiết lập ở nước ta trên cơ sở công hữu và kế hoạch hoá một cách hình thức, trong điều kiện chiến tranh nên cần phải tập trung quyền lực nhưng lại thiếu cơ chế cân bằng và kiểm soát quyền lực. Trên một ý nghĩa nào đó có thể nói, đó là nền dân chủ quân sự thời chiến, nghiêng về tập trung và hạn chế dân chủ. Đó là nguyên nhân cơ bản nảy sinh quan liêu, tham nhũng tha hoá quyền lực, gây ra các hiện tượng mất dân chủ.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền và nền dân chủ XHCN ở nước ta trong điều kiện đa dạng hoá các thành phần kinh tế, khuyến khích tư bản nước ngoài đầu tư vào trong nước dưới nhiều hình thức khác nhau, đã tạo ra nhiều kẽ hở cho chủ nghĩa đế quốc lợi dụng vấn đề dân chủ và tự do kinh doanh để chống phá sự nghiệp, cách mạng của chúng ta bằng nhiều phương thức, thủ đoạn mới tinh vi hơn và khó nhận biết hơn. Cựu Tổng thống Mỹ Bin Clinton đã từng tuyên bố: "Bằng việc giúp đưa Việt Nam hoà nhập cộng đồng các dân tộc, việc bình thường hoá còn phục vụ lợi ích của chúng ta trong việc phấn đấu còn phục vụ lợi ích của chúng ta trong việc phấn đấu cho một nước Việt Nam tự do" và "tôi tin rằng việc bình thường hoá và tăng cường các cuộc tiếp xúc giữa người Mỹ và người Việt Nam sẽ thúc đẩy sự nghiệp tự do ở Việt Nam như đã từng diễn ra ở Đông Âu và Liên Xô trước đây" (Tuyên bố của Tổng thống Mỹ Bin Clintơn về việc bình thường hoá quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam ngày 11-7-1995). Điều này khiến chúng ta phải cảnh giác, cần có bước đi thận trọng trong vấn đề thực thi dân chủ sao cho các thế lực chống đối không thể lợi dụng để phá hoại nền dân chủ XHCN.
Nguyên nhân chủ quan, xét về mặt lý luận, chúng ta nhấn mạnh quá lâu tính năng cai trị giai cấp của nhà nước mà không có điều kiện nên dẫn đến việc coi nhẹ chức năng xã hội, chức năng phục vụ. Cũng như vậy là cách hiểu nhà nước hiển nhiên sở hữu toàn bộ quyền lực mà không thấy đó là quyền lực được uỷ nhiệm. Từ đó nảy sinh ra thái độ ban phát, quan hệ xin- cho trong hành xử công quyền. Ngoài ra, sự phân công giữa các cơ quan quyền lực nhà nước chưa rõ ràng và mang tính hình thức dẫn đến bộ máy nhà nước cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả, tệ quan liêu, hình thức giấy tờ vẫn còn tồn tại, trình độ đội ngũ cán bộ công chức chưa ngang tầm với nhiệm vụ, một bộ phận cán bộ suy thoái đạo đức, tham ô, cửa quyền, sách nhiễu dân xa rời thực tế, đặc biệt là một bộ phận không nhỏ những người có chức có quyền mặc dù đã có sự hiểu biết về pháp luật, thậm chí có những người còn nắm giữ những chức vụ quan trọng trong ngành pháp luật nhưng vẫn có thái độ coi thường pháp luật, tự đặt mình cao hơn pháp luật để mưu lợi ích cho cá nhân làm thất thoát tài sản của nhà nước, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
- Các cấp chính quyền nhà nước chưa làm tốt việc cụ thể hoá nghị quyết của Đảng về xây dựng nhà nước để có các chủ trương và giải pháp xử lý kịp thời những vấn đề mới phát sinh trong quá trình đổi mới. Đặc biệt là những vấn đề ngày càng bức xúc như tình trạng quan liêu, tham nhũng, thiếu trách nhiệm trong bộ máy nhà nước các cấp, thiếu những biện pháp tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương kiên quyết, hợp lý, đủ mạnh để tạo chuyển biến tích cực nhằm khắc phục những yếu kém vẫn còn đang tồn tại. Mặt khác các cơ quan nhà nước các cấp chưa phát huy được trách nhiệm trong việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn, bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động ở các cơ quan đơn vị.
2.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.2.1. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Dân chủ là một thứ quyền và giá trị văn hoá và bởi vì là quyền và là giá trị tinh thần cho nên, nói như Mác, quyền không bao giờ có thể ở một mức độ cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định Do đó, sự phát triển của kinh tế, đòi hỏi của kinh tế là áp lực dẫn đến sự ra đời và phát triển của dân chủ. Muốn thực thi dân chủ, mở rộng dân chủ phải tạo ra cơ sở kinh tế, phải xuất phát từ kinh tế. Đây cũng chính là nhiệm vụ và vai trò hàng đầu của nhà nước.
Trong quan hệ với các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng dân chủ cũng như chính trị chi phối trực tiếp các yếu tố đó, nó làm nhân tố trung gian để kinh tế tác động đến các yếu tố khác. Song cũng bị tác động trở lại của các yếu tố khác một cách tích cực. Vì thế, thành quả của nó có được trước hết là do sự phát triển kinh tế, sau đó là sự phát triển của khoa học, đạo đức, văn hoá, thông tin v.v..
Về mặt lý luận, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế nên có ảnh hưởng tác động trở lại đối với kinh tế rất to lớn, mạnh mẽ. Chính trị mà dân chủ thì thúc đẩy kinh tế phát triển, chính trị thiếu dân chủ hoặc không dân chủ thì kìm hãm kinh tế.
Thực tiễn lịch sử cho thấy cơ sở kinh tế của dân chủ là một nền kinh tế thị trường, nền kinh tế hàng hoá, nhân tố bảo đảm cho kinh tế thị trường phát triển là dân chủ, là sự quy định và bảo đảm về mặt pháp lý cho quyền tự do và bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh.
Sự phát triển kinh tế thị trường rất cần thiết ở nước ta vì có lợi nhiều mặt
- Giải phóng lực lượng sản xuất, khai thác và sử dụng hợp lý, có hiệu quả các yếu tố sản xuất, các nguồn lực của đất nước (vốn, đất đai, rừng, biển, tài nguyên, sức lao động, ngành nghề truyền thống...) để phát triển kinh tế, tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng, phong phú nhằm đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
- Nền kinh tế thị trường dựa trên sự cạnh tranh cao độ đòi hỏi sự năng động, tự làm chủ của các chủ thể sản xuất và kinh doanh, khắc phục tình trạng trông chờ, ỷ lại vào sự ban phát kém năng động của cơ chế cũ. Phát triển kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội, phát triển ngành nghề, tạo thêm nhiều việc làm, tăng thêm thu nhập cho người lao động.
- Phát triển kinh tế thị trường làm cho mọi đơn vị sản xuất kinh doanh có tính tự chủ cao, họ phải tự chịu trách nhiệm về hàng hóa do mình làm ra, lãi được hưởng, lỗ phải chịu, phải quan tâm đến việc sản xuất hàng hóa, phù hợp với nhu cầu xã hội để tiêu thụ được hàng hóa từ đó mới có thu nhập.
- Nền kinh tế thị trường có tác dụng kích thích cải tiến kỹ thuật, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ mới vào sản xuất, kích thích tiết kiệm, giảm chi phí sản xuất, nâng cao trình độ tay nghề của người lao động và trình độ quản lý của người lãnh đạo,... làm cho hàng hóa sản xuất ra ngày càng rẻ, chất lượng được cải tiến để bán được nhiều, thu được nhiều lãi. Ngoài ra, kinh tế thị trường còn kích thích người sản xuất thường xuyên quan tâm đến việc đổi mới hình thức, mẫu mã của hàng hóa làm cho hàng hóa đẹp hơn, phù hợp hơn với sở thích, thị hiếu người tiêu dùng.
- Phát triển kinh tế thị trường cũng là điều kiện để nước ta chủ động hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới.
- Phát triển kinh tế thị trường làm cho nền kinh tế đất nước tăng trưởng nhanh và bền vững, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế tăng nhanh và ổn định, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Ở nước ta, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng ta khẳng định "phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối"; đồng thời chỉ rõ, trong nền kinh tế đó "có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế", trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm tạo khung pháp lý thuận lợi và môi trường chính trị, xã hội ổn định, môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng, thông thoáng để tất cả các thành phần kinh tế hoạt động tốt nhất, củng cố và không ngừng nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội...; thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu; đồng thời dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh, phân phối và phân phối lại một cách hợp lý các nguồn thu nhập, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo; tăng cường vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước; giữ vững độc lập, tự chủ về kinh tế, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế...
Chúng ta coi kinh tế thị trường là phương tiện, là cách thức để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội gắn với việc không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, chứ tuyệt nhiên không phải với mục đích giành lấy lợi nhuận tối đa bằng mọi giá như chủ nghĩa tư bản làm. Nói cách khác cụ thể hơn, nếu dưới chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường tồn tại như một thể chế kinh tế được chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bảo vệ một cách vô điều kiện vì sự sinh tử của chính nó nhằm phục vụ giai cấp tư sản thì dưới chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường được sử dụng như một phương tiện để đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế nhằm phục vụ toàn thể nhân dân lao động. Đó là sự khác biệt về chất giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta đã, đang xây dựng và phát triển.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường, nhưng phải bảo đảm phát triển bền vững. Đó là nền kinh tế dựa trên cơ sở nội lực và tận dụng mọi nguồn lực từ bên ngoài; bảo đảm tăng trưởng về khoa học - công nghệ, trình độ quản lý vĩ mô và vi mô, bảo đảm khả năng cạnh tranh, hạn chế được các rủi ro, tiêu cực, bảo vệ môi trường sống, môi trường sinh thái, sử dụng có hiệu quả tài nguyên và các nguồn lực khác. Mặt khác, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập, nhưng phải bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm vững chắc bản chất xã hội, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Vai trò, chức năng của nhà nước trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa được xác định xuất phát từ những yêu cầu nêu trên. Mặt khác vai trò chức năng của nhà nước còn được xác định từ những căn cứ sau đây:
- Kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu và có ý nghĩa quyết định, bởi vì xây dựng và phát triển kinh tế sẽ tạo lập cơ sở vật chất cho CNXH, mới bảo đảm thực hiện dân chủ được tốt hơn.
- Phải bảo đảm thể hiện được bản chất dân chủ của nhà nước XHCN, đồng thời phải căn cứ vào tình hình, đặc điểm của đất nước và thế giới, bảo đảm cho nhà nước ta thực hiện được các nhiệm vụ cụ thể đặt ra trong từng giai đoạn.
Từ những căn cứ nêu trên và xuất phát từ thực tiễn những năm đổi mới vừa qua, vai trò của nhà nước ta đang trong quá trình chuyển đổi từ chỗ là người trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh, phân phối sang một nhà nước có vai trò định hướng, điều tiết, phối hợp, hướng dẫn một cách có kế hoạch nền kinh tế thị trường. Nhà nước đang trở thành người bảo vệ, bà đỡ, tạo lập môi trường và các điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế, ngăn chặn, hạn chế những mặt tiêu cực và khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ lợi ích của nhân dân và của xã hội.
2.2.1.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách - pháp luật tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển bình đẳng
Sự thay đổi căn bản cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội đặt ra yêu cầu bức thiết phải đổi mới pháp luật kinh tế cho phù hợp với tình hình mới, phù hợp với việc cải cách nền hành chính và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
Trong cơ chế thị trường không thể có và cho phép tồn tại các quan hệ kinh tế mà trong đó một bên luôn luôn được hưởng những quyền năng động rộng rãi và những lợi ích vật chất ưu đãi, còn bên kia phải gánh vác nghĩa vụ và hưởng những lợi ích vật chất mang tính ban phát, tặng cho. Các quan hệ kinh tế thị trường chỉ tồn tại và phát triển trong môi trường bình đẳng, ngang quyền giữa các bên tham gia quan hệ, không phân biệt chủ thể đó thuộc thành phố kinh tế nào và hình thức sở hữu nào. Đấy chính là nhu cầu trực tiếp cần tới sự điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ kinh tế thị trường.
Các quan hệ kinh tế thị trường phong phú, đa dạng, nhiều hình nhiều vẻ, đan xen, liên kết, liên doanh giữa các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Nội dung của quan hệ lại rất phức tạp, với các quyền và nghĩa vụ nhiều chiều, rất năng động trong hình thức thể hiện và thực hiện. Sự phong phú, đa dạng, phức tạp và năng động của các quan hệ kinh tế thị trường lại phải tồn tại và phát triển trong trạng thái điều chỉnh để loại bỏ các yếu tố ngẫu nhiên, tùy tiện, thiết lập trật tự, kỷ cương, kỷ luật, ổn định và thống nhất.
Một trong những phương tiện điều chỉnh hữu hiệu chính là pháp luật. Bằng sự điều chỉnh luật mà tạo ra môi trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế. Vì thế không phải ngẫu nhiên mà trong nền kinh tế thị trường tư bản, các quan hệ kinh tế thường được thể hiện và thực hiện dưới dạng các quan hệ pháp luật.
Nền kinh tế thị trường ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa làm nảy sinh nhu cầu phải hạn chế các yếu tố bóc lột, hạn chế phân hóa xã hội, đảm bảo sự phát triển cân đối hài hòa, phân phối theo nguyên tắc lao động, kết hợp với các chính sách xã hội khác v.v.. Đặc điểm mới ấy của nền kinh tế thị trường ở nước ta đòi hỏi chất lượng điều chỉnh bằng pháp luật cao hơn so với việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Rõ ràng sự điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ kinh tế thị trường là một đòi hỏi khách quan, bắt nguồn trực tiếp từ các nhu cầu của kinh tế, từ đặc điểm của các quan hệ kinh tế, nó hoàn toàn không phải là nhu cầu chủ quan, duy ý chí của nhà nước. Do đó, tuân thủ các quy định của pháp luật kinh tế cũng là một đòi hỏi khách quan. Nó hoàn toàn đối lập với quan niệm tuân thủ pháp luật là bó tay người sản xuất kinh doanh vốn đã tồn tại trong cơ chế hành chính quan liêu buộc họ phải dẫn tới tình trạng "xé rào" bất chấp pháp luật kinh tế không phù hợp với các đòi hỏi khách quan của cơ chế thị trường. Pháp luật chỉ trở thành phương tiện quản lý của nhà nước khi luật pháp ấy quy phạm hóa đúng đắn, đầy đủ quy luật vận động nội tại của chính các quan hệ kinh tế, phù hợp với các đòi hỏi khách quan của chúng.
Pháp luật chính là phương tiện thể chế hoá đường lối của Đảng, làm cho đường lối đó có hiệu lực và thực thi trên quy mô toàn xã hội. Pháp luật là phương tiện tổ chức và hoạt động của nhà nước, là sự ghi nhận về mặt pháp lý trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội và cá nhân công dân. Đối với mỗi cá nhân, pháp luật là phương tiện ghi nhận và thể chế hoá các quyền con người, quyền công dân và đảm bảo về mặt pháp lý cho các quyền đó được thực hiện. Vì thế mức độ hoàn thiện pháp luật và tuân thủ pháp luật trở thành một tiêu chí để đánh giá trình độ pháp quyền của một nhà nước. Ở đây, việc cai trị và quản lý xã hội bằng pháp luật được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật cũng chính là đặc tính của nhà nước XHCN. Nhà nước XHCN là nhà nước có thể đảm bảo bằng cơ sở pháp lý, mọi quyền hành và lợi ích đều thuộc về nhân dân, nhân dân uỷ quyền mà không mất quyền vì trong nhà nước XHCN luật pháp thể hiện đầy đủ ý chí của đại đa số nhân dân, phản ánh và bảo vệ lợi ích nhân dân.
Nhà nước có nhiệm vụ quản lý xã hội bằng pháp luật thì pháp luật phải có tính ổn định, phải có đời sống lâu dài để bảo đảm an toàn pháp lý cho sinh hoạt của nhân dân. Các chính sách, cơ chế của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế, đối với các chủ thể sản xuất và kinh doanh phải đảm bảo tính nhất quán, tránh tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn về lợi ích trong các văn bản quyết định hành chính. Quản lý nhà nước còn phải nhất quán từ trung ương đến địa phương, phải có chế tài xử lý những trường hợp địa phương ban hành những quyết định trái với chủ trương chung của nhà nước gây thiệt hại cho môi trường đầu tư. Bởi vì, sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta đang rất cần sự đầu tư của cả trong nước và từ bên ngoài, một chính sách của một địa phương về đầu tư nếu không đúng sẽ có thể làm tổn hại đến uy tín của chủ trương chung của nhà nước.
Các chính sách phải có tính minh bạch tức là phải được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và phải rõ ràng, mạch lạc để người dân dễ hiểu, dễ biết mà thực hiện.
Tính công bằng của pháp luật rất cần thiết cho các doanh nghiệp. Trong giai đoạn hiện nay, pháp luật về kinh doanh của chúng ta nhiều khi chưa công bằng với các thành phần kinh tế. Do đó các doanh nghiệp thiếu một môi trường bình đẳng cho hoạt động của mình. Họ rất cần đến pháp luật để tạo ra một "sân chơi" bình đẳng. Pháp luật phải tạo ra một hành lang pháp lý công bằng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Biểu hiện trước đây của sự thiếu dân chủ ở ngay trong chính sách kinh tế của nhà nước đối với các thành phần kinh tế khác nhau đã được thừa nhận trong thực tiễn. Các thành phần kinh tế được thừa nhận là các bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Song chính sách của nhà nước đối với các thành phần kinh tế này chưa thực bình đẳng. Sự bất bình đẳng đó thể hiện rõ trong chính sách cho vay vốn, chính sách ưu đãi thuế, chính sách thị trường nguyên liệu, chính sách bao tiêu sản phẩm... các doanh nghiệp nhà nước và một số doanh nghiệp có đặc quyền giành ưu thế. Điều này thực tế đã đưa đến một môi trường cạnh tranh không bình đẳng, chưa tạo được động lực để phát triển.
Nhà nước phải đề ra cơ chế và chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế yên tâm đầu tư sản xuất kinh doanh; bảo vệ được các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của họ trong kinh doanh; giải quyết các tranh chấp, bảo đảm các lợi ích của các bên trong tranh chấp và lợi ích của nhà nước, của xã hội. Pháp luật phải bảo vệ quyền sở hữu không những đối với tài sản, đất đai, nhà máy và các sản phẩm hữu hình khác mà còn bảo hộ cả sở hữu trí tuệ. Ngay cả trong trường hợp giải thể, phá sản doanh nghiệp cũng phải có những quy định của pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của người lao động, người chủ doanh nghiệp cũng như các chủ thể có liên quan khác.
Môi trường pháp lý thuận lợi không chỉ thể hiện trên nội dung, điều kiện thuận lợi trong những quy định của pháp luật liên quan đến việc đăng ký kinh doanh, phá sản doanh nghiệp; mà còn phải được thể hiện trong các quy trình
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai trò của nhà nước trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay.doc