MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA SINH THÁI TRUYỀN THỐNG Ở VÙNG NÚI ĐÔNG BẮC NƯỚC TA 10
1.1. Giá trị văn hóa sinh thái - một số vấn đề lý luận 10
1.2. Một số giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta 26
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA SINH THÁI TRUYỀN THỐNG Ở VÙNG NÚI ĐÔNG BẮC NƯỚC TA HIỆN NAY 47
2.1. Thực trạng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay 47
2.2. Giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay 59
KẾT LUẬN 68
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
76 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1987 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất (hoạt động thực tiễn).
1.2.2.1. Tư tưởng sống hòa hợp với tự nhiên
Tư tưởng sống hòa hợp với thiên nhiên là một giá trị ưu trội, đặc trưng của văn hóa phương Đông, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, tư tưởng sống hòa hợp với thiên nhiên của đồng bào các dân tộc vùng núi Đông Bắc nước ta cũng có những nét đặc thù riêng, phù hợp với các điều kiện thiên nhiên và kinh tế - xã hội của vùng.
Để tồn tại và phát triển, con người và xã hội loài người cần được cung cấp một lượng vật chất nhất định. Để có được lượng vật chất này, con người phải khai thác, cải biến, "nhào nặn" tự nhiên, nghĩa là con người phải có sự liên hệ, tác động trực tiếp tới tự nhiên. Trong quá trình tác động qua lại với tự nhiên, tùy thuộc vào trình độ nhận thức của mỗi con người, vào điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của mỗi dân tộc mà thái độ đối xử của con người đối với tự nhiên có sự khác nhau: con người hoặc sống hòa đồng với tự nhiên, thuận theo tự nhiên, coi tự nhiên như người bạn của mình; hoặc sống đối lập với tự nhiên, khai thác tự nhiên một cách bừa bãi, coi tự nhiên như nô lệ của mình. ở khu vực miền núi Đông Bắc nước ta, từ ngàn đời, con người luôn có tư tưởng sống hòa hợp với tự nhiên, nương nhờ tự nhiên và thuận theo tự nhiên. Sở dĩ con người nơi đây có tư tưởng sống như vậy, bởi vì:
- Do điều kiện tự nhiên ở đây tương đối khắc nghiệt: khí hậu chênh lệch hai mùa rất lớn, địa hình bị chia cắt mạnh bởi các dãy núi cao, có độ dốc lớn, xen giữa các dãy núi là khá nhiều sông, suối. Điều này cản trở việc cải biến tự nhiên theo ý muốn chủ quan của con người. Mặt khác, đứng trước tự nhiên hùng vĩ, với núi rừng trùng điệp như vậy, con người cảm thấy mình bị nhỏ bé trước tự nhiên, do đó, đã bị tự nhiên chinh phục. Sống trong hoàn cảnh và với tâm lý như vậy, con người không còn cách nào khác là phải tuân theo tự nhiên, coi tự nhiên như người bạn của mình, như một phần cuộc sống của mình.
- Điểm xuất phát trong sản xuất của con người ở đây từ đời xưa đến nay về cơ bản là tồn tại nền sản xuất nông nghiệp với hình thức canh tác nương rẫy là chủ yếu. Một trong những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, nhất là trong trồng trọt, đó là sự phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên, trước hết là đất đai canh tác và nguồn nước tưới tiêu phục vụ cho sản xuất. Để hoạt động trồng trọt đạt được hiệu quả cao, bắt buộc con người phải quan tâm tới những điều kiện của tự nhiên có ảnh hưởng tới sản xuất như: khí hậu, thời tiết, thời vụ,... nghĩa là con người phải quan hệ chặt chẽ với tự nhiên, phải quan sát tự nhiên thật kỹ lưỡng để rút ra những kinh nghiệm cần thiết trong cách ứng xử với tự nhiên. Chính điều này làm cho con người nơi đây có sự gắn bó chặt chẽ với tự nhiên và hòa hợp với tự nhiên hơn.
- Nền kinh tế ở vùng núi Đông Bắc nước ta còn thấp kém, đời sống của con người còn nhiều khó khăn và lạc hậu. Trong khi đó, người dân vùng này lại ít được tiếp cận với các thành tựu khoa học mà loài người đã đạt được, nên có thể thấy rõ sự nhận thức về các quy luật của tự nhiên, sự hiểu biết về tự nhiên của họ rất hạn chế. Con người ở đây không có đủ khả năng để giải thích các hiện tượng tự nhiên dựa trên những cơ sở khoa học nhất định. Từ đó, họ đã phụ thuộc tuyệt đối và mù quáng vào thiên nhiên, tôn thờ thiên nhiên, họ đã đồng nhất thiên nhiên với thần linh nên đã coi các hiện tượng tự nhiên diễn ra xung quanh cuộc sống của con người là do sự tác động của thế giới thần linh, có thể đó là do sự trừng phạt của thần linh đối với con người khi họ đã xâm phạm vào tự nhiên. Do đó, theo quan niệm của con người vùng này thì con người không được phép chống đối lại tự nhiên, mà phải hòa hợp, tuân theo tự nhiên một cách tuyệt đối.
Tư tưởng sống hòa hợp với tự nhiên, gắn bó, nương nhờ và tận dụng tự nhiên là một giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ưu trội của người Việt Nam nói chung, của các dân tộc vùng núi Đông Bắc nước ta nói riêng. Điều khẳng định này là hoàn toàn có cơ sở của nó:
Tư tưởng này đã có ở đây từ lâu đời và trường tồn theo thời gian, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nó còn thể hiện được những nét đặc trưng riêng mang tính bản sắc của vùng phù hợp với điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh kinh tế - xã hội nơi đây.
Với tư tưởng này, ở một khía cạnh nhất định, nó đã thể hiện được cái đúng, cái có lý của con người đối với tự nhiên trong hoàn cảnh cụ thể bởi vì sống hòa hợp với tự nhiên nghĩa là con người phải sống hợp với lẽ Trời, tức là hợp với quy luật của tự nhiên và xã hội mặc dù sự phù hợp này chỉ là do kinh nghiệm sống của con người đúc kết lại chứ chưa phải là kết quả do con người nhận thức được các quy luật của tự nhiên một cách tự giác. Từ thời xa xưa, đồng bào ở đây đã biết dựa vào các hiện tượng tự nhiên, thông qua những biểu hiện bên ngoài của giới động vật, thực vật hoặc qua một số hiện tượng tự nhiên khác ở xung quanh con người để phán đoán thời tiết. Ví dụ: vào đầu năm từ tháng 1 đến tháng 4 nếu vào rừng gặp con ong rừng làm tổ ở các lùm cây thấp gần mặt đất thì năm đó sẽ có gió bão hoặc mưa to có ảnh hưởng đến năng suất thu hoạch của cây trồng; thấy hoa rau muống rừng nở đỏ rực là dấu hiệu trời ấm áp không rét trở lại, có thể gieo cấy sớm; thấy loại cây dây leo leo lên cây nở hoa màu vàng, thì thời vụ sang tháng năm âm lịch cần tiến hành các công việc gieo lúa nương, cấy lúa mùa;... hay các kinh nghiệm chọn đất làm nương rẫy du canh du cư trước đây cũng được đồng bào phản ánh qua các câu tục ngữ, ca dao như: "Trồng ngô chọn đất chân đồi, trồng lúa chọn đất cuối khe";... hay kinh nghiệm về thời vụ sản xuất như: "Ruộng cấy tháng 6 gãy đòn gánh, ruộng cấy tháng 7 nhà bán vợ",...
Tư tưởng sống hòa hợp với tự nhiên đã làm cho con người có một lối sống sinh thái lành mạnh, có sự tôn trọng và bảo vệ các điều kiện tự nhiên cần cho sự sống, ít ảnh hưởng đến cảnh quan môi trường bởi vì "Thiên - Nhân hòa đồng" có nghĩa là con người đã coi bản thân mình là một phần của giới tự nhiên, là thuộc về giới tự nhiên; và ngược lại, giới tự nhiên cũng được coi như là thân thể vô cơ của con người, nó gắn liền với sự sinh tồn của con người. Chính vì vậy, để tồn tại và phát triển thì con người không còn cách nào khác là phải tôn trọng và bảo vệ tự nhiên như bảo vệ chính cuộc sống của mình. Từ đó, đã hình thành cái thiện, cái nhân văn của con người đối với tự nhiên. Con người vùng này do nhận thức được tầm quan trọng của các yếu tố trong tự nhiên như rừng, đất, nước,... nên việc bảo vệ những yếu tố này đã trở thành truyền thống lâu đời được truyền lại qua các thế hệ kế tiếp nhau. Đồng bào ở đây quan niệm rằng, mọi vật đều có "linh hồn" và từ thời xưa đã có những khu rừng thiêng do thần linh cai quản, do vậy, con người không được xâm phạm. Điều đó đã góp phần bảo vệ được những khu rừng nguyên sinh, nhất là rừng đầu nguồn. Còn đối với nguồn nước phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt, theo tập quán của người Dao vùng này, cuối năm mỗi gia đình cử một người đi tu sửa, khơi dòng lấy nước ở đầu nguồn. Người Dao có quy ước: nếu bắt được ai thả các súc vật chết, vật bẩn vào nguồn nước ăn, người đó phải làm lại máng nước và khơi nguồn nước khác cho người bị hại. Họ cũng quy định không được chôn cất người chết gần nguồn nước. Người Dao ở Hà Giang còn có quy định bảo vệ thủy vực như: sông, suối chảy qua địa phận làng nào thuộc quyền quản lý của làng đó. Nguồn lợi thủy sản (tôm, cua, cá,...) mọi người đều được hưởng, nhưng phải tuyệt đối tuân thủ quy định của làng như: cấm dùng hình thức duốc cá bằng lá độc, thuốc độc;...
Sống hòa hợp với tự nhiên còn có nghĩa là phải có sự kết hợp khéo léo và hài hòa giữa con người với tự nhiên. Điều đó được thể hiện qua trang phục, đặc biệt là trang phục của phụ nữ. Nói đến vùng này, người ta không thể không nhắc đến những thiếu nữ với bộ trang phục váy áo bằng vải thổ cẩm, màu sắc sặc sỡ được trang trí rất công phu, thể hiện trình độ thêu thùa và bộ óc thẩm mỹ cao trước tự nhiên của những cô gái người Mông, người Dao; hay những bộ trang phục màu chàm giản dị, hòa lẫn trong màu xanh của núi rừng bao la của những cô gái người Tày, người Nùng.
Tư tưởng sống hòa hợp với tự nhiên không những là một giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng núi Đông Bắc mà còn là giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của cả nước nói riêng cũng như của cả phương Đông nói chung. Tư tưởng này trường tồn cùng với thời gian và đến ngày nay nó vẫn còn những giá trị nhất định. Tuy nhiên, trong thời gian qua, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và của công nghiệp, tư tưởng này đã bị con người sao nhãng. Vì chạy theo lợi nhuận, chạy theo "chủ nghĩa tiêu thụ" con người đã tàn phá tự nhiên một cách tàn nhẫn, đã gây ra thảm họa ô nhiễm môi trường đe dọa đến sự sinh tồn của loài người. Do vậy, việc khôi phục và phát huy tư tưởng sống hòa hợp với tự nhiên là một việc làm không thể không thực hiện ở miền núi Đông Bắc, tư tưởng sống hòa hợp với tự nhiên hiện nay cũng phần nào bị giảm sút do sự xuất hiện của nền kinh tế thị trường nên nó cũng cần phải được bảo tồn và phát huy. Đặc biệt, cần nhận thức được rằng, nội dung hòa hợp với tự nhiên ở vùng này hiện nay phải có những nét khác so với trước kia. Trước kia, con người vùng này hòa hợp với tự nhiên một cách vô điều kiện, thông qua kinh nghiệm thực tế mà họ tiếp cận được các quy luật của tự nhiên một cách tự phát, họ sống hoàn toàn thụ động nương nhờ vào tự nhiên, không có sự vận dụng quy luật để cải tạo và biến đổi tự nhiên một cách tự giác. Còn hiện nay, con người phải hòa hợp với tự nhiên theo nghĩa con người không những hiểu được các quy luật của tự nhiên mà còn phải biết vận dụng một cách đúng đắn, chính xác những quy luật đó vào hoạt động thực tiễn cải tạo và biến đổi giới tự nhiên theo mục đích của mình.
1.2.2.2. Lòng yêu thiên nhiên của con người
Trong cuộc sống của mình, con người bắt buộc phải có mối quan hệ với tự nhiên. Đối với người dân vùng núi Đông Bắc nước ta, do điều kiện sống của mình, mối quan hệ của họ đối với thế giới thiên nhiên xung quanh càng được gắn bó chặt chẽ hơn. Chính sự gắn bó đó đã làm cho con người nơi đây nảy sinh tình yêu rộng lớn, sâu sắc đối với thiên nhiên. Con người không chỉ hòa đồng với tự nhiên, hòa mình cùng với tự nhiên mà cao hơn nữa con người còn có tình cảm sâu đậm đối với tự nhiên. Đó là một thứ tình cảm trong sáng, thuần khiết, không có sự ngăn cách giữa con người và tự nhiên. Sở dĩ con người vùng này có tình yêu rộng lớn đối với thiên nhiên, bởi vì:
- Do tự nhiên ở vùng này có những vẻ đẹp riêng của nó. Đứng trước cảnh núi rừng trùng điệp với màu xanh ngút ngàn, vô tận, con người đã thực sự rung động vẻ đẹp hùng vĩ của nó, lúc này con người đã cảm thấy mình thực sự được hòa nhập vào thế giới bao la, bất tận đó. Trước cảnh mây mờ che phủ các đỉnh núi cao, con người lại cảm thấy tâm hồn mình thật lãng mạn, thật nhẹ nhàng, thơ mộng. Tất cả những cảm giác đó đã làm nảy sinh một tình yêu bao la của con người đối với tự nhiên. Vùng này còn có nhiều cảnh sơn thủy hữu tình gắn liền với các câu chuyện cổ tích, huyền thoại như khu vực hồ Ba Bể (Bắc Kạn), hồ Núi Cốc (Thái Nguyên), Thác Mơ (Tuyên Quang),... đã tạo ra những cảm hứng tuyệt vời của con người đối với tự nhiên, nếu ai đã đến những nơi này dù chỉ một lần cũng không thể nào quên được. Sống trong cảnh quan như vậy, con người không thể thờ ơ mà với cảm hứng thẩm mỹ sâu sắc của mình con người nơi đây tất yếu phải có sự rung động thật sự trước những vẻ đẹp tuyệt vời đó. Tất cả những sự rung động đó chính là tiền đề tạo ra một tình yêu vô bờ bến của con người vùng này đối với thiên nhiên.
- Qua thực tiễn cuộc sống của nhiều thế hệ đã cho con người vùng núi Đông Bắc nước ta hiểu được rằng, tự nhiên chính là cội nguồn, là một phần thân thể của họ: "con người chính là tạo vật hoàn hảo nhất của tự nhiên". Tự nhiên còn là tất cả những gì gần gũi, thân thương nhất xung quanh con người từ con sông, con suối đến những cánh rừng bạt ngàn hay những ngọn núi cao chót vót,... tự nhiên chính là nguồn của cải vật chất vô tận để nuôi sống con người. Tự nhiên và đặc biệt là rừng núi còn là nơi che chở, bảo vệ con người thoát khỏi những hiện tượng thiên tai, tránh được sự xâm lăng, càn quét của giặc ngoại xâm... Với tất cả sự hiểu biết về tính hữu ích của tự nhiên của con người nơi đây đã hình thành trong họ một tình yêu sâu sắc đối với thiên nhiên. Và tình yêu này ngày càng được phát triển, được bồi đắp ở những thế hệ tiếp theo vì con người ngày càng có sự hiểu biết về tầm quan trọng của tự nhiên nhiều hơn.
Tình yêu của con người đối với thiên nhiên đã trở thành một giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta. Đó là một thực tế đã được thừa nhận và minh chứng trong thực tiễn:
Tình yêu đó không phải gần đây mới xuất hiện mà nó đã được hình thành từ thuở con người mới khai thiên lập địa và không ngừng được bồi dưỡng, hoàn thiện ở những thời kỳ sau. Do điều kiện tự nhiên và sự hiểu biết về tự nhiên của con người ở đây có những đặc trưng riêng của nó đã làm cho tình yêu thiên nhiên của họ, một mặt luôn tồn tại cùng với thời gian, mặt khác lại có những đặc điểm riêng mang bản sắc của địa phương nơi đây.
Tình yêu thiên nhiên trước hết được thể hiện ở sự hiểu biết sâu sắc của con người về thiên nhiên, bởi vì có tấm lòng yêu thương, con người mới có sự quan tâm, chú ý tới tự nhiên, mới có nhu cầu khám phá, tìm hiểu tự nhiên. Người dân ở vùng này từ thời xa xưa đã nhận thức được tầm quan trọng của tự nhiên đối với cuộc sống của mình nên luôn tìm mọi cách tiếp cận và khám phá tự nhiên, họ đã dần dần tích lũy được những kinh nghiệm về cách ứng xử với tự nhiên cần thiết cho sinh hoạt và sản xuất. Họ đã tự xây dựng những luật tục để khai thác và sử dụng tự nhiên một cách hợp lý nhất. Ví dụ như, người Dao Đỏ ở xã Hồ Thầu (Hoàng Su Phì, Hà Giang) có quy định ai cố tình phát đốt nương rẫy thuộc rừng đầu nguồn thì phải chịu hình phạt rất nặng. Trước đây người phạm lỗi phải mổ một con lợn to mang đến nhà trưởng bản, và mỗi gia đình có một người đàn ông đến nhà trưởng bản để nghe ông ta công bố tội trạng của người đó. Tiếp theo, người phạm lỗi đứng trước đại diện các gia đình xin lỗi. Sau đó, mọi người ở lại ăn uống, gọi là bữa cơm tạ lỗi.
Yêu thiên nhiên, con người ở đây không chỉ biết tôn trọng tự nhiên, biết khai thác tự nhiên một cách hợp lý mà còn biết bảo vệ tự nhiên, bù đắp cho tự nhiên những phần mình đã khai thác, đã có ý thức tái tạo lại tự nhiên trong chừng mực khả năng có thể của mình vì sự phát triển của thế hệ mai sau. Chính tư tưởng này đã thể hiện rõ tính nhân văn cao cả của con người nơi đây đối với tự nhiên. Người La Hủ ở Hà Giang trong khi hái lượm cây rừng để làm thuốc đã có tập quán nếu lấy cả cây để làm thuốc thì phải trồng lại bằng mầm hoặc củ con; nếu lấy rễ cây thì chỉ được bới lấy một đoạn rồi lấp đất lại cho cây tiếp tục sống.
Tình yêu thiên nhiên của con người vùng núi Đông Bắc còn được thể hiện ở sự cảm hứng thẩm mỹ sâu sắc của họ trước vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Đứng trước một tảng đá hình người vô hồn, với sự cảm nhận sâu sắc, tinh tế, với tình yêu thiên nhiên vô bờ của người dân vùng này, tảng đá đó đã được thổi linh hồn vào, đã trở thành hòn đá Vọng Phu gắn liền với truyền thuyết về nàng Tô Thị thủy chung mòn mỏi đứng đợi chồng mà hóa đá. Nó đã trở thành biểu tượng cho lòng chung thủy của con người Việt Nam. Nó còn thể hiện sự sáng tạo của con người vùng này trước sự kì vĩ của thiên nhiên. Nói đến vùng này, người ta cũng không thể quên được những khu thiên nhiên với cảnh sơn thủy hữu tình như: thác Cô Tiên (huyện Vị Xuyên, Hà Giang), hồ Ba Bể (Bắc Kạn), thác Bản Giốc (Cao Bằng), hồ Núi Cốc (Thái Nguyên),... đã thấm sâu vào tâm hồn của con người và được thể hiện qua những áng thơ văn hay những tác phẩm nghệ thuật ca ngợi vẻ đẹp tuyệt vời của nó của hàng bao thế hệ. Tình yêu thiên nhiên và cảm xúc vô bờ của người dân nơi đây trước những cảnh đẹp của tự nhiên còn được thể hiện trong cách trang trí trang phục của họ, nhất là của phụ nữ người Dao, người Mông,... thông qua việc họ đã sáng tạo ra hàng vạn mẫu họa tiết, hoa văn hết sức phong phú phản ánh được tính đa dạng trong cuộc sống, trong thiên nhiên, biểu hiện được thế giới vũ trụ quan của con người với phong cách nghệ thuật cách điệu cao, giàu tính biểu cảm.
Cùng với tư tưởng sống hòa hợp với tự nhiên, tình yêu của con người đối với thiên nhiên đã trở thành giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta. Lòng yêu thiên nhiên của con người là một giá trị văn hóa sinh thái đã được hình thành từ lâu đời, cùng với thời gian, nó ngày càng được củng cố và nâng cao. Đến ngày nay, nó vẫn còn nguyên giá trị, vẫn còn ý nghĩa to lớn ảnh hưởng đến sự sinh tồn của chính con người. Miền núi Đông Bắc nước ta hiện nay đang đứng trước tình trạng môi trường sống bị mất cân bằng sinh thái, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác bừa bãi do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường. Điều đó đòi hỏi vùng này phải bảo tồn và phát huy một giá trị văn hóa sinh thái truyền thống đang có nguy cơ bị mai một, đó chính là tình yêu thiên nhiên của con người mà trước hết được thể hiện ở việc khai thác, sử dụng tài nguyên một cách hợp lý và phải có ý thức tái tạo lại tự nhiên trong chừng mực có thể, để tạo ra một sự phát triển bền vững của vùng này nói riêng cũng như của cả nước nói chung.
1.2.2.3. Con người luôn tìm cách hòa hợp với môi trường tự nhiên trong sinh hoạt và sản xuất
Một trong những mục tiêu cao nhất của con người trong mọi hoạt động sống chính là hiệu quả công việc. Trong khi đó, để tiến hành các hoạt động sống, con người không thể không có mối quan hệ với tự nhiên thông qua việc con người phải tác động, khai thác và cải biến tự nhiên theo mục đích của mình. Vì vậy, để đạt được mục tiêu đó con người phải tạo ra được mối quan hệ tốt với tự nhiên. Trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên thì nhân tố con người bao giờ cũng đóng vai trò là nhân tố chủ thể tích cực, còn tự nhiên chỉ là nhân tố khách thể bị động. Tự nhiên không thể tự cải tạo mình để thích ứng với con người mà ngược lại, con người phải luôn tìm cách thích ứng với môi trường tự nhiên để mọi hoạt động sinh hoạt và sản xuất đạt được hiệu quả cao nhất. Đối với đồng bào vùng núi Đông Bắc nước ta, quan điểm này lại càng có ý nghĩa quan trọng, càng phải được tuân theo do ở đây có những lý do riêng của nó:
- Điều kiện tự nhiên ở đây rất phức tạp nên đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất và sinh hoạt hàng ngày của con người. Với địa hình chủ yếu là núi cao có độ dốc lớn, thậm chí ở một số vùng còn toàn núi đá đã gây khó khăn cho con người trong quá trình canh tác nương rẫy. Đồng bào ở đây không thể canh tác đất đai như ở đồng bằng mà đòi hỏi phải có phương thức canh tác riêng cho phù hợp với thực tế. Sống trong môi trường núi cao như vậy, trong sinh hoạt thường ngày của đồng bào cũng không thể theo cách sinh hoạt của vùng đồng bằng, bắt buộc con người ở đây muốn tồn tại thì phải tìm ra những cách thức sinh hoạt cho phù hợp. Cùng với núi cao, khí hậu ở đây cũng rất khắc nghiệt, mùa hè thì lũ lụt, mùa đông thì hanh khô, nhiệt độ giảm, thậm chí có vùng cao nhiệt độ đã hạ tới 00C. Điều này đòi hỏi con người cũng phải có cách thức sinh hoạt khác hẳn với các vùng khác. Với tất cả những yêu cầu đó đã làm cho con người ở đây luôn phải có ý thức tìm cách thích ứng với môi trường tự nhiên trong sinh hoạt và sản xuất.
- Đời sống kinh tế - xã hội ở vùng này còn thấp kém, trình độ của những công cụ, phương tiện phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất của con người rất lạc hậu, cho nên đã hạn chế rất lớn khả năng cải biến tự nhiên của con người. Từ xa xưa, con người vùng này chủ yếu sống thích ứng với môi trường tự nhiên một cách bị động, chạy theo sự biến đổi của tự nhiên, chịu sự chi phối của tự nhiên và hầu như chưa có sự chinh phục lại tự nhiên một cách chủ động. Tất nhiên, đây là một thực tế hoàn toàn có lý đối với vùng này - một vùng còn thấp kém về kinh tế, lạc hậu về xã hội. Sống trong hoàn cảnh đó, đã nảy sinh một cách tự phát là con người phải tìm mọi cách thích ứng được với môi trường tự nhiên.
- Do khó khăn về giao thông, liên lạc, con người ở đây ít được tiếp xúc với các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại. Điều này làm cho con người vùng này nhận thức về tự nhiên còn rất hạn chế. Từ đó xuất hiện tâm lý con người phải tuân theo tự nhiên, phải tìm mọi cách để thích ứng với môi trường tự nhiên. Mặc dù tâm lý này ở thời kỳ hiện đại đã bộc lộ những mặt trái, mặt tiêu cực của nó, nhưng đối với đồng bào miền núi vùng Đông Bắc ở thời kỳ trước kia thì nó vẫn có tính ưu việt nhất định. Chính tâm lý này đã tạo điều kiện để con người vùng này có thể sinh tồn và phát triển cho đến ngày nay.
Lối sống con người luôn tìm cách thích ứng với môi trường tự nhiên trong sinh hoạt và sản xuất đã trở thành một giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng núi Đông Bắc nước ta. Đây là một nhận định hoàn toàn có thể chấp nhận được, bởi vì:
Đối với đồng bào vùng này, việc phải tìm mọi cách để thích ứng được với môi trường tự nhiên trong mọi hoạt động sống đã có từ lâu đời, nó do hoàn cảnh sống ở đây tạo nên. Trong sản xuất và sinh hoạt hàng ngày, con người vùng này từ xa xưa đã có thói quen hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên, tuân theo tự nhiên. Tuân theo tự nhiên, đối với họ có nghĩa là không chống lại tự nhiên, đi ngược lại với tự nhiên mà phải tìm cách thích nghi được với môi trường tự nhiên ở trong mọi hoàn cảnh. Đây là một lối sống mang tính truyền thống được đồng bào thực hiện từ lâu đời và nó còn tồn tại cho đến tận ngày nay với những biểu hiện cụ thể trong thực tế mang đậm dấu ấn, bản sắc riêng của vùng này.
Để thích nghi với điều kiện tự nhiên, người dân ở đây đã tìm ra cho mình lối sống sinh thái phù hợp, những phương thức canh tác hữu hiệu nhất, cùng với nó là thế giới vật nuôi, cây trồng phù hợp. Điển hình như: người Mông ở vùng cao Đồng Văn (Hà Giang) canh tác trên núi đá với những nương đá xếp và đã sáng tạo ra phương thức canh tác thổ canh hốc đá; người Nùng ở Hoàng Su Phì (Hà Giang) canh tác trên núi đất với những triền ruộng bậc thang chạy lên đỉnh đồi cùng hệ thống nước tưới tự chảy; người Tày ở Tuyên Quang, Lạng Sơn canh tác theo kiểu kết hợp trồng lúa nước ở các thung lũng và nương rẫy trên đồi,... Với các kiểu canh tác đa dạng như vậy, công cụ lao động trong cải tạo đất đai của đồng bào cũng rất đa dạng, tùy thuộc vào hình thức canh tác của từng nơi. Người Mông do sống ở trên đỉnh núi có địa hình phức tạp, đất cằn sỏi đá nên trong canh tác nông nghiệp, chủ yếu họ sử dụng loại cày dáng thô, thân to khỏe, bắp cong, mập gắn chặt vào thân cày tạo thành khối vững chắc, lưỡi cày to, dày, mũi hơi tù. Người Nùng do sống ở triền đồi, làm ruộng bậc thang nên trong canh tác nông nghiệp chủ yếu họ sử dụng cuốc. Còn người Tày do sống ở các thung lũng nên trong canh tác nông nghiệp chủ yếu họ sử dụng loại cày dáng nhỏ hơn, lưỡi cày nhỏ và mũi cũng nhọn hơn,... Về giống cho sản xuất nông nghiệp, đồng bào vùng này cũng tùy điều kiện thời tiết, khí hậu của mỗi địa phương mà sử dụng những loại giống lúa khác nhau, ví dụ như: người Dao ở vùng núi cao xã Quyết Tiến (Quản Bạ, Hà Giang) hay dùng các giống lúa đỏ, lúa trắng, lúa nếp; còn người Dao ở thung lũng như xã Vĩnh Hảo (Bắc Quang, Hà Giang) lại hay dùng các giống lúa mộc tuyền, chân trâu lùn,...
Trong sinh hoạt thường ngày, con người nơi đây cũng có những cách thức riêng để thích nghi với tự nhiên. Chính thông qua những cách thức riêng đó đã tạo ra những nét riêng biệt, thể hiện bản sắc riêng của vùng này. Tuy cùng là người Tày nhưng người Tày ở phía Tây Lạng Sơn và Cao Bằng thường dựng nhà ở theo nếp nhà sàn cổ truyền kiến trúc kiểu 4 mái, bằng các vật liệu tre, gỗ, lá với kết cấu kỹ thuật thuộc loại nhà khung cột (cột, kèo, xà chịu lực). Kiểu nhà này phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng là rừng vẫn còn nhiều, tre gỗ còn phong phú và nơi này vẫn còn nhiều thú dữ nên cần phải đề phòng. Trong khi đó người Tày ở phía Đông lại dựng nhà ở theo kết cấu sườn tường (nhà nửa sàn, nửa đất, không chỉ có khung cột mà còn có sườn tường trình), tường trình bằng đất dày từ 60 - 80 cm, xung quanh nhà có hệ thống cửa kiên cố, có cánh cửa và song gỗ bảo vệ, kiểu nhà này thích hợp với điều kiện tự nhiên của vùng là rừng đã bị khai thác cạn kiệt, tre gỗ hiếm; khí hậu rất lạnh về mùa đông lại thường xuyên có giặc ngoại xâm và trộm cướp cần phải phòng thủ. Về cách lấy nước dùng cho sinh hoạt ở đây cũng có sự khác biệt so với vùng xuôi để thích nghi với môi trường tự nhiên ở vùng núi cao, đồi núi nhấp nhô, đường sá đi lại khó khăn. Người dân địa phương chủ yếu dùng hệ thống máng dẫn bằng thân cây dẫn nước từ đầu nguồn trên núi về chứ không sử dụng thùng gánh lấy nước từ các giếng đào, giếng khoan như ở vùng xuôi vì ở đây sử dụng thùng gánh nước sẽ rất vất vả, tốn nhiều công sức.
Để thích nghi được với điều kiện tự nhiên, trong điều kiện kinh tế - xã hội còn lạc hậu, chủ yếu là hình thức kinh tế tự cung, tự cấp khép kín, người dân ở đây còn có những cách thức nấu ăn, chế biến thức ăn độc đáo, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Do vùng này mùa đông rét đậm kéo dài nên đồng bào địa phương thích dùng nhiều thịt, mỡ, thích chế biến thức ăn kiểu xào, rán, quay, hầm, dùng nhiều gia vị cay, chua, ngọt, đắng vì chế biến thức ăn theo kiểu này sẽ tạo ra nhiề