MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 6
1.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước là yêu cầu tất yếu khách quan 6
1.1.1. Khái niệm quyền lực nhà nước - kiểm soát quyền lực nhà nước 6
1.1.2. Cơ sở khoa học của việc kiểm soát quyền lực nhà nước 8
1.1.3. Tư tưởng về kiểm soát quyền lực nhà nước trong lịch sử tư tưởng chính trị 11
1.2. Các phạm trù về kiểm soát quyền lực nhà nước, các cấp độ và hình thức kiểm soát quyền lực 32
1.2.1. Giám sát mang tính quyền lực nhà nước 32
1.2.2. Giám sát không mang tính quyền lực nhà nước 36
1.2.3. Hoạt động thanh tra 40
1.2.4. Hoạt động kiểm tra 42
1.2.5. Kiểm tra của Đảng 50
1.2.6. Kiểm sát 52
Chương 2: KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN 57
2.1. Thực trạng của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay 57
2.1.1. Giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân 57
2.1.2. Giám sát của Mặt trận Tổ quốc 68
2.1.3. Giám sát của cơ quan tài phán 70
2.1.4. Giám sát của công dân đối với bộ máy nhà nước thông qua tổ chức thanh tra nhân dân và thực hiện quyền khiếu nại - tố cáo 73
2.1.5. Kiểm soát việc thực hiện thẩm quyền hành chính nhà nước 81
2.1.6. Kiểm soát các hoạt động tư pháp 84
2.1.7. Công tác kiểm tra cấp ủy đảng các cấp 87
2.1.8. Thanh tra, kiểm tra cơ quan nhà nước thẩm quyền chung 90
2.2. Những giải pháp cơ bản để thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước 95
2.2.1. Đổi mới nhận thức tổ chức và hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước 95
2.2.2. Hoàn thiện giám sát của Quốc hội 97
2.2.3. Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực phải dựa trên cơ sở hoàn thiện cơ chế quản lý 100
2.2.4. Đổi mới giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành pháp nhà nước 103
2.2.5. Hoàn thiện mô thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với hoạt động tư pháp 104
2.2.6. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân 106
2.2.7. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp 108
2.2.8. Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan xét xử hành chính nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của cơ chế tài phán hành chính đối với hoạt động ban hành các quyết định của cơ quan quản lý nhà nước 109
2.2.9. Đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra, góp phần hoàn thiện cơ chế kiểm soát thực hiện quyền lực nhà nước 111
2.2.10. Đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 114
2.2.11. Hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng 118
2.2.12. Đổi mới nhận thức và xác định rõ phạm vi hoạt động của kiểm toán nhà nước 119
2.2.13. Đổi mới hoạt động tiền điều tra của Cảnh sát kinh tế, An ninh kinh tế thuộc lực lượng công an nhằm tránh chồng chéo, trùng lặp với hoạt động thanh tra kinh tế của các tổ chức thanh tra 120
KẾT LUẬN 124
NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ 127
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 128
133 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 11645 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc xem xét, thông qua hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản luật, quyết định đến chương trình dự án quốc gia.
Bên cạnh đó còn những vấn đề chưa có hiệu quả cao, thể hiện là những kiến nghị thông qua giám sát thì các cơ quan có trách nhiệm giải quyết chưa kịp thời nhất là việc giám sát việc sửa đổi văn bản lỗi thời, trái quy phạm pháp luật. Đây là vấn đề bức xúc ở các ngành mà cần được giải quyết thỏa đáng, giúp cho hoạt động của nền hành chính nhà nước có hiệu lực, hiệu quả.
Một hoạt động giám sát quan trọng của Quốc hội là cử các đoàn đi giám sát, kiểm tra thực tế ở các địa phương:
Các đoàn đi giám sát, kiểm tra thực tế ở địa phương do lãnh đạo Quốc hội hoặc ủy viên UBTVQH làm trưởng đoàn.
Với nội dung giám sát, việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội của địa phương trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội - quốc phòng và an ninh, chẳng hạn giám sát việc thi hành Luật đất đai, giám sát công việc chuẩn bị cho bầu cử đại biểu HĐND các cấp; giám sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân...
Các đoàn giám sát của Quốc hội đã kết hợp giữa nghe báo cáo của các cơ quan hữu quan địa phương, với việc trực tiếp xem xét, quan sát tại chỗ, phỏng vấn thu thập thông tin từ phía các đương sự có liên quan đến nội dung giám sát.
Hoạt động các đoàn đi giám sát ở địa phương của các cơ quan của Quốc hội đem lại kênh thông tin quan trọng vào việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội. Nhiều kiến nghị các đoàn đã được Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, VKSNDTC tiếp thu. Nó trở thành một trong những căn cứ thực tiễn để UBTVQH ban hành, sửa đổi, bổ sung các dự án, pháp lệnh, hoặc các ủy ban Quốc hội tiến hành thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh đó. Do có các thông tin thu được từ thực tiễn cuộc sống một cách độc lập, không phụ thuộc vào cơ quan trình dự án luật, pháp lệnh mà các báo cáo thẩm tra của các ủy ban Quốc hội trình đã có tính thuyết phục để được Quốc hội, UBTVQH chấp thuận.
Hạn chế hoạt động của các đoàn giám sát ở địa phương hiện nay là: Các báo cáo giám sát này ít được thảo luận, một số báo cáo tuy có mở rộng diện trao đổi, thảo luận sau đó cũng chỉ dừng lại ở mặt chừng mực nhất định (báo cáo trao cho cá nhân trưởng đoàn giám sát). Đây là hạn chế mà làm cho kiến nghị qua giám sát chưa được đối tượng bị giám sát tiếp thu để khắc phục những thiếu sót trong quá trình thực hiện nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho cơ quan địa phương ở cơ sở.
* Hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu và đại biểu Quốc hội.
Đoàn đại biểu Quốc hội, là tổ chức hợp thành từ các đại biểu Quốc hội được bầu trong một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Căn cứ vào các Nghị quyết của Quốc hội, chương trình kế hoạch công tác của Quốc hội và tình hình thực tế của đại phương, ý kiến của cử tri, các đoàn đại biểu Quốc hội thực hiện hoạt động giám sát trên cơ sở quy định trong qui chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội.
Về tiếp xúc cử tri: Theo hình thức chuyên đề với nhiều đối tượng để nắm tình hình thi hành pháp luật. Hoạt động giám sát của các đoàn đại biểu và đại biểu Quốc hội trước hết là yêu cầu phải nắm bắt được những vấn nổi cộm ở địa phương cần tập trung nghiên cứu, giải quyết, từ đó xác định nội dung giám sát và biện pháp thực hiện giám sát.
Hình thức giám sát là: Tổ chức làm việc chính thức giữa đoàn đại biểu Quốc hội với lãnh đạo các ngành: Tòa án, Viện Kiểm sát, Thanh tra Nhà nước, Công an, Tư pháp. Các cơ quan này phải báo cáo tình hình phối hợp giám sát thực hiện những vấn đề nổi cộm trong công tác xét xử, giam giữ, tạm giam, tạm tha, các vụ án chống tham nhũng...
Tổ chức khảo sát hiệu quả và tác dụng của thi hành các đạo luật, các nghị quyết của Quốc hội tại địa phương và cơ sở...
Tổ chức làm việc giữa Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội với các cơ quan có liên quan ở địa phương để xác định nội dung phối hợp công tác trên các lĩnh vực xây dựng và tuyên truyền pháp luật, tổ chức công tác giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Trong tổ chức hoạt động giám sát của nhiều đoàn đại biểu Quốc hội đã quan tâm cải tiến phương pháp và hình thức giám sát, đã phối hợp tham gia với đoàn kiểm tra của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh.
Tuy vậy, việc giám sát của đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội hiệu quả chưa cao, mới chỉ dừng lại ở mức độ là phát hiện, phân tích, nhắc nhở các cơ quan có trách nhiệm giải quyết hoặc nghe báo cáo rồi nhận xét, kiến nghị chưa thực sự chủ động để có sự phối hợp, đôn đốc, kiểm tra và giải quyết, xử lý những vụ việc lớn, phức tạp.
* Hoạt động giám sát của UBTVQH, Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội
Giám sát của UBTVQH: Bằng các hình thức giám sát như xem xét các báo cáo công tác của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC và các cơ quan nhà nước khác; tổ chức các đoàn đi giám sát ở địa phương, cơ quan... Các hoạt động giám sát của UBTVQH tập trung vào các vấn đề như: giám sát việc thi hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và giám sát hoạt động của HĐND các cấp.
Giám sát việc thi hành Hiến pháp, pháp luật: Có thể nói, các hoạt động giám sát của UBTVQH đã bao quát các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngoài việc xem xét các báo cáo của Chính phủ, các cơ quan hữu quan, UBTVQH còn tổ chức các đoàn công tác hoặc giao cho Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội cử các đoàn giám sát đến các địa phương để nắm tình hình cụ thể. Theo kế hoạch từng năm việc giám sát đó có thể được tập trung vào những vấn đề trọng điểm. Việc phân bổ, thu, chi ngân sách nhà nước, các hoạt động xuất nhập khẩu, vấn đề xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn nhà nước, tình hình tiền lương, chính sách đối với người có công với nước, vấn đề phát triển kinh tế gắn với củng cố Quốc phòng, An ninh quốc gia...
Trên cơ sở kết quả giám sát, UBTVQH kiến nghị về các giải pháp để giúp địa phương khắc phục khó khăn, UBTVQH đã nhiều lần góp ý kiến hoàn thiện dự án và thông qua Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất; góp phần giải quyết khó khăn cho một số doanh nghiệp, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Về công tác giám sát của UBTVQH đối với hoạt động của HĐND các cấp: Trên cơ sở các quy định của pháp luật, UBTVQH đã tổ chức các hoạt động giám sát của mình nhằm bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND. Việc giám sát đối với HĐND đã được tiến hành ngay từ khâu bầu cử đại biểu HĐND các cấp, giám sát việc ban hành nghị quyết của HĐND. ủy ban Thường vụ Quốc hội thường cử một số đoàn công tác về địa phương để tham dự các kỳ họp của HĐND, trực tiếp nghe Thường trực HĐND báo cáo về tình hình tổ chức các hoạt động của HĐND. Các ủy ban của Quốc hội đã có nhiều cố gắng trong việc giám sát hoạt động của HĐND, nhưng các hoạt động giám sát của UBTVQH, các cơ quan của Quốc hội đối với HĐND chưa được thường xuyên, nên kết quả giám sát còn có hạn chế nhất định.
Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân: Để góp phần bảo đảm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân được tốt hơn, UBTVQH phân công một bộ phận chuyên trách theo dõi về công tác này. Đồng thời chỉ đạo, điều hòa phối hợp Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội theo dõi, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Ngoài ra, còn trực tiếp xem xét cho ý kiến về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; tổ chức các đoàn giám sát việc xử lý khiếu nại - tố cáo tại các địa phương. UBTVQH phối hợp với Chính phủ và các cơ quan hữu quan để thực hiện công tác dân nguyện. Hoạt động giám sát này của Quốc hội trong những năm gần đây tăng lên rõ rệt. Mặt khác, cũng cần nhấn mạnh rằng, áp lực thực tế của hoạt động này rất lớn, nhưng UBTVQH chưa dành được nhiều thời gian, nguồn lực cho công tác này và kết quả đạt được chưa cao.
Giám sát của Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội: Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức Quốc hội và các văn bản pháp luật khác đã quy định rõ vai trò, chức năng giám sát của Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội là chủ thể độc lập có quyền tiến hành các hoạt động giám sát về vấn đề liên quan đến lĩnh vực do mình phụ trách.
Các hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội thường được tiến hành theo các hình thức như tổ chức các đoàn đi giám sát ở địa phương, cơ quan; xem xét các báo cáo của các cơ quan, tổ chức hữu quan... trung bình mỗi năm Hội đồng dân tộc, mỗi ủy ban của Quốc hội tổ chức được từ 4-6 đoàn đi giám sát ở địa phương, cơ quan. Các hoạt động giám sát chủ yếu tập trung vào việc triển khai thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội và UBTVQH. Căn cứ vào quy định của pháp luật mà Hội dồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội giám sát về việc thi hành pháp luật có liên quan đến lĩnh vực mình phụ trách. Đó là các vấn đề có liên quan đến dân tộc và miền núi; việc thực hiện các chương trình kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số và thực hiện ngân sách trong lĩnh vực này theo tinh thần các nghị quyết của Quốc hội; giám sát tình hình, kết quả thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với dân tộc và miền núi. ủy ban pháp luật đã tiến hành giám sát việc thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, UBTVQH về vấn đề đất đai, tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND; về hoạt động của các cơ quan tư pháp trong việc bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án; giám sát việc giải quyết một số vụ án dân sự phức tạp; giám sát việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội về đấu tranh chống tham nhũng, chống buôn lậu; giám sát việc ban hành văn bản pháp quy của một số cơ quan nhà nước.
Hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội còn có hạn chế nhất định, nhất là giám sát việc ban hành văn bản của cơ quan hữu quan chưa làm được nhiều. Các kiến nghị qua các đợt giám sát đôi khi chưa được cơ quan hữu quan thực hiện.
Giám sát của HĐND: HĐND thực hiện việc giám sát đối với các đối tượng sau đây:
Thường trực HĐND; chủ tịch, phó Chủ tịch HĐND.
UBND (gồm cả các cơ quan chuyên môn thuộc UBND).
HĐND cấp dưới.
TAND, VKSND.
Các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang và công dân ở địa phương.
Cần lưu ý rằng, không phải HĐND mỗi cấp thực hiện việc giám sát với thẩm quyền như nhau đối với hoạt động của mọi đối tượng chịu sự giám sát. Đối tượng, phạm vi mức độ giám sát của HĐND phụ thuộc vào vị trí, vai trò và sự phân cấp quản lý cho HĐND các cấp, tính chất và mối quan hệ giữa HĐND và đối tượng chịu sự giám sát và một số yếu tố khác.
Giám sát tại kỳ họp là hình thức quan trọng nhất của HĐND, tại kỳ họp HĐND xem xét các báo cáo của các cơ quan nhà nước về mọi mặt hoạt động ở địa phương. Chất vấn cơ quan, người có trách nhiệm trong trường hợp cần thiết, HĐND xem xét và ra nghị quyết về vấn đề giám sát cụ thể. Giám sát thông qua thường trực HĐND, các ban của HĐND, Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND.
Giám sát thông qua hoạt động của các đại biểu HĐND.
Đối với đại biểu HĐND, ngoài việc tham gia giám sát tại kỳ họp của HĐND, đại biểu HĐND còn thực hiện việc giám sát ngoài kỳ họp thể hiện trong các quy định về quyền yêu cầu các cơ quan đơn vị chấm dứt việc làm trái pháp luật, đôn đốc theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và trách nhiệm tương ứng của các cơ quan đơn vị này.
Hiện nay, chức năng giám sát của HĐND có xu hướng được tăng cường, hoàn chỉnh và rõ ràng hơn, mặc dù vậy giám sát của HĐND còn có một số hạn chế trên hai phương diện pháp luật và thực hiện pháp luật.
* Về phương diện pháp luật
- Trong các văn bản pháp luật quy định về giám sát của HĐND chủ yếu là các quy định về các vấn đề thuộc giám sát như quyền hạn giám sát, trách nhiệm của cơ quan nhà nước, người có trách nhiệm liên quan, thẩm quyền xử lý việc làm sai trái. Quy định pháp luật về thủ tục còn hết sức sơ sài. Trên thực tế hoạt động giám sát của HĐND, việc thực hiện hầu như tiến hành theo kinh nghiệm, theo ý thức của các bên tham gia quan hệ giám sát. Đây là một trong những nguyên nhân của tình trạng HĐND có quyền giám sát, mà trên thực tế quyền này khó thực hiện hoặc thực hiện kém hiệu lực, hiệu quả.
Hoạt động giám sát của HĐND được quy định trong các văn bản nêu ở trên, tuy đó đều là các văn bản quản lý có giá trị pháp luật cao, nhưng về mặt hình thức, các quy định về giám sát của HĐND vẫn có khiếm khuyết quan trọng thể hiện trên một số điểm sau đây: các quy định còn tản mạn, thiếu tính thống nhất, chưa điều chỉnh đầy đủ các vấn đề giám sát cần thiết để bảo đảm tính khả thi của các quy định về thẩm quyền giám sát của HĐND.
Về phương diện thực hiện pháp luật giám sát của HĐND: HĐND nhiều địa phương đã tích cực thực hiện việc giám sát và đạt được kết quả nhất định đối với các việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở ở nông thôn, góp phần tích cực vào việc giải quyết các vụ việc tham ô, vi phạm chi tiêu tài chính, hối lộ, buôn lậu... có liên quan đến bộ máy hành chính ở địa phương. Nhưng tồn tại có tính chất cố hữu từ khi cơ quan HĐND được thành lập đến nay chưa được khắc phục tốt, đó là tính hình thức trong hoạt động giám sát.
+ Công tác giám sát của HĐND chưa được thật sự chú ý cả ở tầm trung ương lẫn địa phương.
+ Công tác tổ chức giám sát nói chung của HĐND các cấp chưa thật tốt, việc xây dựng các chương trình giám sát, cách tổ chức việc giám sát, việc bảo đảm tính khách quan, chính xác trong giám sát, xử lý kết luận giám sát...
+ Trình độ của đại biểu HĐND còn nhiều bất cập, chưa tương xứng với yêu cầu về người đại biểu trong tình hình mới. Theo một kết quả điều tra ý kiến của người dân về năng lực, phẩm chất của người đại biểu quốc hội nhân dân địa phương ở ba cấp tỉnh, huyện, xã thuộc đề tài KX.04.08 cuối năm 2002 thì trong tổng số 1.034 người được hỏi thì chỉ có 230/ 1.034 (22,2%) người cho rằng, đại biểu HĐND đáp ứng được yêu cầu. Còn lại, 579 (56%) người cho rằng năng lực, phẩm chất của người đại biểu còn hạn chế, 108 người (10,4%) người đánh giá rất hạn chế. Trong thực tế, có không ít đại biểu không biết cách sử dụng đúng quyền giám sát của mình, do trình độ hiểu biết pháp luật chưa tốt, do chưa quen với chức năng đại biểu... (tất nhiên, sự không hoàn chỉnh của pháp luật cũng là lý do của tình hình hiện nay).
2.1.2. Giám sát của Mặt trận Tổ quốc
Để thực hiện nhiệm vụ giám sát, những năm vừa qua MTTQ Việt Nam đã triển khai thực hiện hoạt động giám sát trên một số lĩnh vực như sau:
- Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật
Những năm gần đây trung bình mỗi năm ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tham gia góp ý kiến khoảng 20 dự án luật, pháp lệnh và nghị định, trong đó có những dự án luật được Trung ương mời tham gia Ban soạn thảo, Tổ biên tập như (Luật MTTQ, bộ luật Dân sự, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội (năm 1997), Luật Tổ chức HĐND và UBND, Luật Bầu cử HĐND các cấp, Luật Khiếu nại tố cáo v.v...). Những dự án luật, pháp lệnh mà MTTQ Trung ương trực tiếp tham gia đều là những văn bản pháp luật có liên quan đến các lĩnh vực sau:
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Các tầng lớp do MTTQ trực tiếp vận động như: nhân sĩ, trí thức, chức sắc tôn giáo, già làng trưởng bản, người Việt Nam ở nước ngoài.
Tổ chức bộ máy nhà nước, quyền và trách nhiệm của MTTQ Việt Nam.
Việc MTTQ Việt Nam tham gia góp ý kiến vào các dự án luật, pháp lệnh ngay từ khi soạn thảo có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam; góp phần làm cho pháp luật có tính khả thi và giảm những sai sót, sơ hở trong xây dựng và ban hành pháp luật.
- Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp
Việc giám sát trong lĩnh vực hoạt động tư pháp chủ yếu là giám sát quá trình thực hiện pháp luật về tố tụng.
Bộ luật tố tụng hình sự có quy định: MTTQ Việt Nam... có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong các giai đoạn của tố tụng hình sự, nếu MTTQ và các tổ chức thành viên của Mặt trận phát hiện những hành vi trái pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng thì có quyền kiến nghị với các cơ quan có quyền quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Các cơ quan đó phải xem xét, giải quyết và trả lời cho Mặt trận và các tổ chức thành viên của Mặt trận đã kiến nghị biết.
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định:... ủy ban MTTQ, các tổ chức thành viên của MTTQ Việt Nam... có quyền kiến nghị Tòa án cấp trên xem xét những việc làm trái pháp luật của Tòa án cấp dưới. Tòa án phải xem xét, giải quyết và trả lời người đã kiến nghị.
Thông qua việc lựa chọn giới thiệu Hội thẩm nhân dân để Thường vụ Quốc hội cử và HĐND bầu và thông qua việc theo dõi giúp đỡ Hội thẩm mà MTTQ giám sát hoạt động xét xử của TAND.
- Trong lĩnh vực giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo
Trong lĩnh vực này, MTTQ Việt Nam đã giám sát việc tiếp dân và tham gia giải quyết đối với đơn thư khiếu nại, tố cáo có liên quan đến những đối tượng do MTTQ trực tiếp vận động, đến cán bộ của MTTQ Việt Nam và những trường hợp vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam hàng năm tiếp hàng nghìn lượt người dân và hàng nghìn bản kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét giải quyết dứt điểm đối với những vụ kiện đang tồn tại nhiều năm. ủy ban MTTQ các địa phương đều tổ chức tiếp dân tại trụ sở và tham gia Ban tiếp dân, Ban chỉ đạo việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của chính quyền địa phương.
- Trong lĩnh vực hoạt động của đại biểu dân cử
ủy ban MTTQ các cấp đã thực hiện rất nghiêm túc những quy định của pháp luật. Kết quả công tác dân chủ pháp luật của ủy ban MTTQ 61 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì hàng năm MTTQ đều tổ chức các cuộc tiếp xúc trước và sau mỗi kỳ họp đại biểu Quốc hội và HĐND. Việc tiếp xúc với cử tri, và MTTQ đã tập hợp những ý kiến và kiến nghị của cử tri, với các cơ quan nhà nước hữu quan xem xét giải quyết và trả lời cho cử tri biết. Cũng thông qua việc tiếp xúc cử tri mà MTTQ các cấp đã nắm được những hoạt động của đại biểu để kịp thời nhận xét, góp ý kiến với HĐND cùng cấp. Hiện nay nhiều tỉnh đã ban hành quy chế phối hợp giám sát giữa ủy ban MTTQ Việt Nam với đại biểu Quốc hội, HĐND các cấp.
- Trong lĩnh vực thực thi chính sách, pháp luật
MTTQ Việt Nam giám sát việc thi hành chính sách, pháp luật chủ yếu quan trọng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vận động nhân dân thi hành chính sách, pháp luật thông qua các phong trào "đền ơn đáp nghĩa", "xóa đói giảm nghèo", "toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc", các chương trình giúp nhau làm kinh tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương, chăm sóc giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn v.v... Nhất là cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư" với 5 nội dung toàn diện bao hàm nhiều mục tiêu đã được hầu hết các khu dân cư trong cả nước hưởng ứng. Thông qua các cuộc vận động mà MTTQ đã phát hiện những chính sách, pháp luật có được thực thi hay không, pháp luật có phù hợp với thực tiễn hay không. Trên cơ sở đó, MTTQ đã đề nghị với Nhà nước xem xét để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành chính sách pháp luật cho phù hợp với thực tiễn của đời sống xã hội.
2.1.3. Giám sát của cơ quan tài phán
Vấn đề giám sát của Tòa án đối với hoạt động quản lý hành chính nhà nước, chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà nước trong hoạt động quản lý. Thực chất đây là vấn đề kiểm soát quyền lực của tư pháp đối với hành pháp nhằm đảm bảo cho quyền lực nhà nước luôn nằm trong quỹ đạo đã định và thực thi tốt nhất quyền dân chủ của công dân phục vụ lợi ích chung của xã hội, của đất nước có hiệu quả, làm cho pháp luật được tôn trọng, pháp chế và kỷ cương được giữ vững.
Tòa án thực hiện việc giám sát đối với hoạt động quản lý hành chính bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau, có thể phân ra hai phương thức kiểm soát như sau:
Phương thức kiểm soát có tính thụ động: qua xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, tòa án phát hiện hoạt động hành chính có sai sót và xử lý sai sót đó.
Phương thức kiểm tra có tính chủ động: trên cơ sở giải quyết khiếu nại, tố cáo của cá nhân tổ chức, tòa án xét xử tranh chấp hành chính và đưa ra quyết định về tính hợp pháp của quyết định, hành vi hành chính.
Hiện nay, Tòa án được trao quyền quyền xét xử các khiếu kiện đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính thì phải trao cho Tòa án những quyền hạn nhất định, là một trong những quyền không thể thiếu được, đó là: quyền hủy quyết định hành chính hoặc buộc cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước phải thực hiện chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu kiện mà Tòa án xác định là trái pháp luật...
Mặc dù Tòa án không có quyền ra một quyết định hành chính thay thế cho cơ quan quản lý nhà nước mà chỉ có quyền phán quyết và yêu cầu cơ quan này ra quyết định phù hợp với luật.
Thực trạng xét xử hành chính của Tòa án:
Qua một số nét về hoạt động xét xử hành chính hiện nay tại một số địa phương có thể thấy, Tòa hành chính chưa phát huy được hiệu quả hoạt động như mong đợi; số lượng vụ việc được thụ lý giải quyết rất nhỏ, trong khi đó khiếu kiện hành chính lại rất nhiều và phần lớn lại không đủ điều kiện để giải quyết theo luật định. Có thể thấy một số nguyên nhân của tình trạng trên như sau:
Một là, xét xử hành chính là một hoạt động mới mẻ, chúng ta chưa có kinh nghiệm. Tổ chức bộ máy chưa ổn định, ở một số địa phương có nhiều khó khăn về tổ chức nhân sự và cơ sở vật chất, nhất là ở các tỉnh miền núi vùng sâu, vùng xa, gây tâm lý làm việc tạm bợ, thiếu tập trung của cán bộ thẩm phán.
Hai là, công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về tố tụng hành chính nói riêng chưa được thực hiện tốt trong phạm vi cả nước. Nhiều người không biết rõ phạm vi thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính nên đã khởi kiện khi vụ việc chưa đủ điều kiện hoặc không thuộc thẩm quyền của Tòa án Hành chính. Bên cạnh đó có một bộ phận nhân dân không biết đến sự ra đời của cơ chế xét xử hành chính, nên khi quyền và lợi ích bị xâm phạm đã không biết khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thực tiễn cho thấy, ngay cả thẩm phán hành chính cũng không cập nhật kịp thời các văn bản pháp luật hành chính trên các lĩnh vực để áp dụng đúng đắn cho quá trình giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền.
Ba là, do tâm lý xã hội chưa quen với hoạt động xét xử của Tòa hành chính. Nhiều trường hợp vụ việc đủ điều kiện để khởi kiện ra Tòa nhưng người dân e ngại, sợ đụng chạm đến chính quyền nên đã không khởi kiện mà chọn con đường khiếu nại hành chính. Bên cạnh đó, nhiều cán bộ có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan quản lý nhà nước có tâm lý sợ mất uy tín khi ra tòa nên khi bị khiếu kiện thường không trực tiếp tham gia phiên tòa mà ủy quyền cho cán bộ không đủ thẩm quyền thay mặt mình tham gia vụ kiện, điều này gây khó khăn cho Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc.
Bốn là, đội ngũ Thẩm phán hành chính còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Hiện nay, ngay trong ngành Tòa án có quan niệm Tòa hành chính là Tòa ít việc nhất, nên từ khi thành lập tới nay, đội ngũ Thẩm phán hành chính không được quan tâm, thậm chí có tình trạng nhiều cán bộ thẩm phán còn hạn chế về trình độ chuyên môn thì bị "đẩy" sang làm công tác xét xử hành chính. Trong khi đó, yêu cầu về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán hành chính khá cao, không những phải nắm vững luật pháp mà còn cần có sự hiểu biết khá toàn diện về quản lý hành chính nhà nước trong các lĩnh vực. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho các Tòa Hành chính hoạt động kém hiệu quả, không gây được niềm tin trong nhân dân.
Năm là, vấn đề quy định của pháp luật về tố tụng hành chính còn quá chặt chẽ về các điều kiện để thụ lý giải quyết một vụ việc. Mặt khác, theo quy định của pháp luật hiện hành thì thẩm quyền giải quyết của Tòa án chỉ giới hạn ở một số vụ việc. Vì vậy, có rất nhiều người dân bị thiệt thòi về quyền lợi, nhưng khởi kiện không được thụ lý và không đủ điều kiện để thụ lý giải quyết. Mặc dù còn có một số hạn chế nhất định, nhưng quyền này của cơ quan tư pháp đã nói lên khả năng kiểm soát quyền lực trong các cơ quan nhà nước ở nước ta.
2.1.4. Giám sát của công dân đối với bộ máy nhà nước thông qua tổ chức Thanh tra nhân dân và thực hiện quyền khiếu nại - tố cáo
- Thực trạng về tổ chức và hoạt động của Thanh tra nhân dân
Thanh tra nhân dân là một tổ chức của nhân dân ở cấp cơ sở trên địa bàn dân cư, được nhà nước giao cho chức năng quan trọng là giám sát việc thi hành pháp luật của mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân trên địa bàn cấp cơ sở. Có hai loại hình thanh tra nhân dân. Thanh tra nhân dân ở các đơn vị sản xuất kinh doanh, hành chính sự nghiệp do liên đoàn lao động chỉ đạo hoạt động. Thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn cho MTTQ chỉ đạo hoạt động.
Vấn đề tổ chức: Hiện nay trong toàn quốc có 9.829 Ban thanh tra nhân dân được thành lập trên tổng số 10.500 xã phường, thị trấn đạt 93,61%. Còn 671 xã, phường chưa thành lập được Ban Thanh tra nhân dân, chiếm 6,39%. Trong đó mỗi Ban Thanh tra có 7 - 8 ủy viên.
Về hoạt động: Thanh tra nhân dân có hai nhiệm vụ chính; giám sát việc thi hành chính sách, pháp luật, các quy định của HĐND, UBND xã
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van.doc
- Muc luc1.doc