MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC NÂNG CAO NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG TRUNG HỌC HIỆN NAY 4
1.1. Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học 4
1.2. Nâng cao vai trò nhân tố chủ quan trong giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học, một đòi hỏi bức thiết hiện nay 27
Chương 2: NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỊNH HƯỚNG NÂNG CAO VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG TRUNG HỌC HIỆN NAY 44
2.1. Tăng cường công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường, nâng cao tinh thần trách nhiệm, phẩm chất, năng lực của thầy, cô giáo trong giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học 44
2.2. Tăng cường sự phối kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục đạo đức 56
2.3. Đa dạng hóa các hình thức hoạt động của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, phát huy vai trò của nó trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học 66
Kết luận 70
Danh mục tài liệu tham khảo 72
74 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2189 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề nâng cao vai trò nhân tố chủ quan trong giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Với mục tiêu này, nhà trường trung học phải biết phát huy tất cả những tiềm năng vốn có của mình trong việc "dạy chữ, dạy nghề, dạy người", và mỗi thầy giáo, cô giáo của trường phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Các em học sinh vào trường cảm thấy mình được đối xử, được học tập và rèn luyện, đó là những yếu tố ban đầu, có sức thuyết phục trong giáo dục đạo đức đối với thanh thiếu niên học sinh. Hiệu quả của giáo dục sẽ tăng lên nếu có sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường và địa phương. Thực tế cho thấy ở nhiều nơi do phương thức hoạt động của trường kết hợp với địa bàn dân cư tốt nên những việc phức tạp đã giảm hẳn, tình hình an ninh trật tự hết sức khả quan, sự phát triển dân trí trong địa bàn dân cư nâng lên rõ rệt. Trong dịp nghỉ tết, nghỉ hè không học sinh nào vi phạm trật tự công cộng, cũng như phạm pháp hình sự.
Nói về phương hướng lớn, chính sách thanh niên trong điều kiện hiện nay, Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương (khóa VII) ghi rõ: "Thanh niên học sinh là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên học sinh, và việc rèn luyện bồi dưỡng lực lượng thanh niên. Công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng" [8]. Công tác vận động thanh niên trong thời kỳ đổi mới thì thanh niên học sinh là một lực lượng quan trọng, đặc biệt nòng cốt, là những người đang ngồi trên ghế nhà trường, đang được giáo dục đào tạo để trở thành người công dân, người cán bộ bước vào đời để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để giúp họ xứng đáng và gánh vác trách nhiệm nặng nề trên, nhà trường phổ thông trung học phải có trách nhiệm giáo dục, đào tạo họ trở thành người có phẩm chất và có năng lực tương xứng, trong đó đạo đức cách mạng là cái gốc, cái cốt lõi. Muốn giáo dục đạo đức cách mạng trong tình hình hiện nay có hiệu quả, người làm công tác giáo dục phải xác định nội dung giáo dục, phương hướng, biện pháp, hình thức phù hợp với kinh tế xã hội hiện nay. Cơ sở cốt lõi của đạo đức cách mạng là thế giới quan và nhân sinh quan cộng sản. Vì vậy, việc hình thành thế giới quan và nhân sinh quan là một điều cần thiết, trung tâm của các trường phổ thông trung học. Thế giới quan là hệ thống quan điểm về thế giới, các quan niệm của con người trong thế giới đó. Hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, là tạo nên sự thống nhất giữa ý thức và hành động, giữa lời nói và việc làm, tạo nên sự thống nhất của trí tuệ, niềm tin và hành động. Thế giới quan khoa học là kim chỉ nam cho hành động, biến chuyển từ tri thức thành phương pháp, biết sử dụng tri thức một cách tổng hợp và có hệ thống như một phương pháp và dùng phương pháp đó để phân tích hiện tượng của quá trình, của cuộc sống, làm cho nhận thức đạt trình độ sâu sắc, bản chất hơn, biết phát hiện những yếu tố mới, hoặc xem xét đánh giá từ những quan điểm và phương pháp mới. Do đó, bồi dưỡng thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng cho thanh niên học sinh là cần thiết, đặc biệt trong tình hình hiện nay.
Lý tưởng là mục tiêu cuộc sống được phản ánh vào đầu óc con người dưới hình ảnh mẫu mực và hoàn chỉnh, có tác dụng lôi cuốn mạnh toàn bộ cuộc sống cá nhân, chỉ đạo sự tu dưỡng và hành động của cá nhân trong một thời gian dài để vươn tới mục tiêu đó. Như vậy lý tưởng của thanh niên học sinh, có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành đạo đức cách mạng của họ. Nếu xác định lý tưởng đúng đắn, cao đẹp, người thanh niên học sinh sẽ trở thành một nhân tố có ích cho xã hội. Những năm vừa qua với chủ trương, với chính sách mở cửa nhằm xây dựng và phát triển đất nước chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể về mọi mặt. Việc chuyển từ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường đã làm thay đổi khá căn bản tâm lý của dân cư, mà trước hết là thanh niên học sinh. Vì vậy, về mặt lý tưởng sống của thanh niên học sinh hiện nay, chúng ta cần xác định cho phù hợp để kích thích động viên họ vươn lên làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đã có một thời, chúng ta quan niệm lý tưởng thanh niên là lý tưởng xã hội chủ nghĩa, với sự hy sinh phấn đấu chính trị, đặt lợi ích của chủ nghĩa xã hội lên trên hết. Nói như vậy, xét cho cùng thì không sai nhưng chưa đủ, chúng ta đã quên đi hoặc không nhấn mạnh cái riêng của thanh niên học sinh, quá nhấn mạnh con người cộng đồng, tập thể của thanh niên học sinh, xem nhẹ cá nhân, cá thể của họ. Thực tế cho thấy hiện nay bên cạnh sự hy sinh, phấn đấu và cống hiến cho sự phát triển của cộng đồng, tập thể, thanh niên rất quan tâm đến lợi ích cá nhân của gia đình mình. Vì vậy, khi nghiên cứu nội dung giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên cần phải nghiên cứu với tư cách là một công dân trẻ, với tư cách là cá thể cộng đồng trong điều kiện kinh tế - xã hội và với thực tế hiện nay, nội dung giáo dục lý tưởng cho thanh niên học sinh: cần phải kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích cộng đồng với lợi ích cá nhân.
Giáo dục lý tưởng đi phải đôi với giáo dục niềm tin, "niềm tin thường choán lấy tâm hồn của con người và trở thành sợi dây ràng buộc không thể dứt ra mà không làm tan nát trái tim". Niềm tin là sự thống nhất kiến thức và khát vọng của con người. Bởi vậy nó trở thành chỉ đạo hành động hàng ngày. Niềm tin lý tưởng và quan điểm đạo đức có quan hệ trực tiếp với hành động hàng ngày của nhân cách, nó thôi thúc và hướng dẫn nhân cách trong lao động, trong học tập và thực tiễn những công việc hàng ngày của con người. Các chuẩn mực đạo đức sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu nó tồn tại ngoài ý thức chính trị, lý tưởng và niềm tin. Do đó, cần có sức mạnh của ý chí, ý thức, niềm tin khoa học dựa trên cơ sở, những chứng cứ khoa học, tri thức và tư tưởng đúng đắn về chân lý khách quan, nên bảo đảm cho ý chí và hành động có hiệu quả. Vì vậy, cần củng cố niềm tin vào hệ tư tưởng Mác - Lênin, vào sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước, định hướng lại lý tưởng và niềm tin vững chắc cho thanh niên học sinh.
Về sự tác động của nhu cầu hoạt động và học tập của học sinh. Nhu cầu là những đòi hỏi của con người muốn có những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển, còn lợi ích là cái thỏa mãn nhu cầu, đáp ứng lại nhu cầu. Nói đến nhu cầu, là nói đến đòi hỏi, đến sự cần thiết bên trong của cá nhân về một cái gì đó ở ngoài nó, cái đó có thể là một sự vật, một hiện tượng hoặc những người khác. Những cái đó được cá nhân nhận thức về tính thiết yếu của nó đối với sự tồn tại và phát triển của mình. Lúc đó, nhu cầu trở thành động lực thúc đẩy hoạt động đạt tới lợi ích nhằm thỏa mãn nhu cầu. ở học sinh, nhu cầu về tình bạn là rất quan trọng, nó giúp cho học sinh luôn hướng tới tập thể, tạo ra mối quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, hình thành mối quan hệ tình cảm sâu sắc trong đời sống cá nhân mỗi người.
Trả lời câu hỏi "khi có những ước mơ hoặc nguyện vọng gì đó đối với trường, lớp, bạn thường giải quyết như thế nào ?"
Học sinh thị xã (%)
Học sinh Rạch Sỏi (%)
Học sinh huyện (%)
- Đề đạt với trường
- Đề đạt với lớp
- Đề đạt vối Đoàn TN
- Đề đạt với hội
- Tâm sự với bạn bè
- Chịu đứng 1 mình cho qua
16,4
36,3
3,8
3,7
56,8
18,3
10,0
46,1
5,0
_
58,5
10,1
7,2
20,0
3,1
2,1
67,4
13,5
Qua số liệu trên, cho ta thấy rõ đặc điểm lứa tuổi ở họ rất cần đến tình bạn, qua đó, thấy bạn bè gần gũi với họ hơn cả và ở họ có thể có các nhóm bạn bè sau: bạn bè theo quan hệ đồng hương, bạn bè cùng sở thích, bạn bè cùng lứa tuổi, bạn bè trong học tập,... nhu cầu bạn bè khiến họ luôn luôn sống trong cộng đồng, tạo ra sự giao lưu chân thực, góp phần hình thành nhân cách trong mỗi con người, đó chính là mối quan hệ xã hội trong phạm vi hẹp và cũng rất sâu sắc trong đời sống tình cảm. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp quan hệ bạn bè nặng nề về tình cảm, nhẹ về lý trí dẫn đến bao che, đua đòi giúp nhau làm việc xấu. Bản thân học sinh hướng tới môi trường bè bạn không phải là xu hướng xấu, môi trường bè bạn là điều kiện quan trọng đối với việc hình thành nhân cách con người, nhưng điều đáng e ngại là ở chỗ trong điều kiện hiện nay, công tác giáo dục khó tiếp cận, khó điều chỉnh, đặc biệt là những nhóm bạn và những thủ lĩnh tự phát của nhóm bạn đi vào những hoạt động không lành mạnh như uống rượu, hút thuốc, cờ bạc, đua xe,... gây nên những hậu quả xấu trong xã hội. Không chỉ có nhu cầu về bạn bè, học sinh còn có nhu cầu về hoạt động văn hóa tinh thần. Nhu cầu đó giúp họ gần gũi, tiếp cận với bản sắc dân tộc, với truyền thống dân tộc, với văn hóa nhân loại đã được điển hình hóa, góp phần nâng cao tính thẩm mỹ, tính hướng thiện, hình thành nhu cầu và thị hiếu lành mạnh trong hoạt động văn hóa nghệ thuật và trong cuộc sống, tâm hồn tình cảm. Tuy nhiên, nhu cầu về sinh hoạt văn hóa nghệ thuật của học sinh trong điều kiện kinh tế thị trường cũng có những thay đổi đáng chú ý, họ ưa thích ca nhạc nước ngoài ở mức 64,83%, trong khi ca nhạc hiện đại Việt Nam ở mức 59,09% và ca nhạc dân tộc chỉ ở mức 26,75%, thậm chí có một số học sinh có nhu cầu sai lệch đến mức coi thường bản sắc văn hóa dân tộc, quay lưng lại với truyền thống, hướng tới những hoạt động không lành mạnh. Đối với học sinh một nhu cầu nữa không thể không nói tới là nhu cầu được học tập, được nâng cao trình độ văn hóa. Nhu cầu học tập của học sinh hiện nay cũng có chuyển biến, nếu như trước kia học sinh thường chú trọng chọn trường do ý thức cá nhân và nặng về ý nghĩa xã hội, thì ngày nay học sinh chú trọng chọn ngành có điều kiện phát triển cá nhân mình, ngành dễ có việc làm và có thu nhập cao. Nếu như trước kia chọn nghề theo thứ hạng "nhất y, nhì dược,...", thì ngày nay là "nhất anh, nhì tin, tam kinh, tứ luật" hoặc một bộ phận không nhỏ chú ý tới ngành kiến trúc, xây dựng là những ngành đang được đắc dụng. Như vậy, xuất phát từ nhu cầu học tập để có nghề nghiệp đắc dụng sau này mà bản thân học sinh đã có sự chuyển dịch nhận thức từ thụ động, ỷ lại nhà trường, gia đình và xã hội, sang thế chủ động, tự lập, có ý chí tiến thân lập nghiệp. Tuy vậy, việc chuyển từ cơ chế bao cấp, sang cơ chế thị trường, người học sinh cũng chuyển sang tình trạng chú trọng về chuyên môn hơn, có phần xem nhẹ phẩm chất chính trị.
Nếu năm 1997 họ quan niệm: học giỏi là được (48 - 52%), tích cực phấn đấu và rèn luyện toàn diện (33 - 40%), mọi mặt chỉ cần đạt yêu cầu là được (19 - 24%), sống không có quan điểm (6 - 7%), thích sống tự do buông thả (6 - 8%); đến năm 1998 có sự thay đổi, quan niệm học giỏi được tăng lên 68,7% và học vấn luôn được nâng cao 64,8%,... như vậy ta thấy thứ hạng lựa chọn của họ là gắn với cái thị trường lao động cần hơn là những cái cơ bản phẩm chất.
Điều tra năm 1999 học sinh học thêm nhiều môn chiếm 29,9%, học sinh học thêm một môn chiếm 64,7%, học sinh không học thêm gì chiếm 10,5%. Số học sinh tự giác đi học thêm ngoài nhà trường gần 80% là biểu hiện mới, đáng khích lệ, cái mà học sinh học thêm nhiều nhất là ngoại ngữ thu hút 79,4% học sinh đi học, toán tin 45,3%, việc học thêm đó cũng làm xao lãng việc học những kiến thức trong chương trình nhà trường nhất là môn giáo dục công dân và tham gia hoạt động chính trị xã hội, đó là điều hạn chế cần khắc phục.
Trước những biến đổi phức tạp như đã phân tích ở trên, một số người cho rằng không cần và không thể giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ. Vì họ cho rằng đạo đức cá nhân vốn có trong bản thân con người từ khi mới sinh ra là vĩnh cửu không thể thay đổi được. Hoặc cũng có những người khác cho rằng đạo đức có nguồn gốc từ kinh tế, vì vậy, chỉ cần đẩy mạnh kinh tế là mọi thứ tiêu cực, mọi hành vi vô đạo đức sẽ tự động mất đi.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin con người không phải chỉ là sản phẩm của hoàn cảnh mà còn là chủ thể của hoàn cảnh, con người không phải chỉ là sản phẩm bị động của hoàn cảnh mà còn là khả năng cải tạo hoàn cảnh, thông qua đó, con người tự cải tạo mình. Chúng ta cần thực hiện tốt việc kết hợp hữu cơ quá trình giáo dục con người với quá trình cải tạo hoàn cảnh. Như vậy, trong hoàn cảnh kinh tế xã hội có những mặt tiêu cực, không nhất thiết con người sẽ xấu về mặt đạo đức, vì con người có ý thức phê phán, cải tạo mình và cải tạo hoàn cảnh. Ngoài ra, còn nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển đạo đức, trong đó, có vai trò của nhân tố giáo dục là một nhân tố quan trọng.
Tóm lại, con người thì được sinh ra, còn đạo đức thì không được sinh ra, đạo đức chỉ được hình thành và phát triển thông qua hoạt động giao tiếp, giáo dục,... trong đó hoạt động giao tiếp được coi là nhân tố trực tiếp quyết định đến sự hình thành và phát triển đạo đức, còn giáo dục được xem là yếu tố chủ đạo. Về thực chất giáo dục đạo đức là giáo dục khả năng tự giáo dục, tự kiểm tra, tự đánh giá, tự thẩm định, tự điều chỉnh hành vi đạo đức của mỗi cá nhân. Nhằm đánh thức lương tâm, khơi dậy lòng nhân ái, đức tính vị tha, sự bao dung trong mỗi con người. Trong giáo dục đạo đức nhân tố chủ quan đóng vai trò quan trọng. Hiện tượng có phần bị xuống cấp về đạo đức của học sinh phổ thông trung học trong thời gian qua có nguyên nhân từ chỗ yếu kém của nhân tố chủ quan.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết, chủ trương về công tác thanh niên như Nghị quyết 25/BCT (khóa VI), Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII)... Các nghị quyết này đã thể hiện sự quan tâm toàn diện của Đảng và Nhà nước ta trong việc chăm lo bồi dưỡng con người mới, góp phần làm chuyển biến nhận thức ở nhiều nơi, nhiều cấp. Nhưng xét trên tổng thể, nó vẫn chưa thực sự được đưa vào cuộc sống, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng. Điều đó thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất: Vai trò quản lý nhà nước của các cơ quan làm công tác giáo dục đào tạo ít được chú ý phát huy. Điều đó không chỉ thể hiện ở chỗ ngân sách cho giáo dục đào tạo chưa xứng với yêu cầu đòi hỏi, mà còn thiếu cả biện pháp hành chính để tạo điều kiện có một môi trường lành mạnh, trong sạch, công bằng, kỷ cương cho giáo dục. Chính vì thế, nhà trường - nơi nuôi dưỡng đạo đức, lý tưởng, nhân cách hoài bão, ước mơ, trí tuệ và thể lực... cho học sinh cũng không tránh khỏi sự xâm nhập, tấn công của các hiện tượng tiêu cực và các tệ nạn xã hội...
Thứ hai: Chúng ta chưa tạo được sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành, các lực lượng xã hội trong việc chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ. Một số nơi, cấp ủy đảng thiếu sự chỉ đạo thường xuyên, chính quyền buông lỏng quản lý, trong khi đó nhiều gia đình các ông bố, bà mẹ mải lo làm ăn, ít quan tâm tới việc giáo dục con cái, thậm chí một số ít còn làm gương xấu cho con cái. Một số tổ chức chính trị - xã hội tập trung đầu tư công sức nhiều vào làm kinh tế, tham gia quản lý điều hành các dự án... mà ít quan tâm tới trách nhiệm phối hợp với ngành giáo dục đào tạo và đoàn thanh niên trong công tác giáo dục thế hệ trẻ. Nếu có sự tham gia tích cực hơn của gia đình và các đoàn thể xã hội, chắc chắn việc giáo dục thế hệ trẻ sẽ thuận lợi hơn rất nhiều.
Thứ ba: Bản thân ngành giáo dục, trước nhất là các nhà trường còn nhiều yếu kém và lúng túng. Điều đó gây không ít khó khăn cho công tác giáo dục đạo đức, chính trị, xây dựng nhân cách và lý tưởng sống của học sinh, thể hiện chủ yếu trên các mặt:
Một là, ở những mức độ khác nhau, các nhà trường đều nhận thức được tầm quan trọng của công tác chính trị, tư tưởng và đã tổ chức các hoạt động giáo dục bồi dưỡng cho học sinh theo quy định của ngành. Tuy nhiên, hoạt động giáo dục công dân mới chỉ tiến hành ở bậc phổ thông (mặc dù nhiều nội dung trong chương trình giáo dục công dân còn phải xem xét lại cho có hệ thống và chính xác). Các chủ trương, chính sách cụ thể liên quan đến đời sống, học tập, việc làm của học sinh thì thông tin quá ít ỏi và thường chậm, việc giải thích, hướng dẫn thực hiện thiếu sự nhất quán; thậm chí nhiều chủ trương thay đổi liên tục gây thắc mắc lúng túng trong học sinh. Do chưa coi trọng đúng mức nội dung giáo dục đạo đức, chính trị ngay từ khi xây dựng chương trình cho từng cấp học, ngành học nên công tác quản lý, kiểm tra việc thực hiện nội dung này ở các trường cũng buông lỏng. Do đó, nhiều sai phạm kéo dài không được uốn nắn, chấn chỉnh kịp thời. Nhìn chung, trong thời gian qua, hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, chính trị còn rất thấp.
Hai là, mặt trái của cơ chế thị trường đã ảnh hưởng trực tiếp vào trong nhà trường, nhất là những tiêu cực trong học tập, thi cử, cấp bằng... đã làm "chao đảo niềm tin của xã hội, ... vào công bằng xã hội và kỷ cương phép nước" (Báo Nhân Dân ngày 13-12-1991). Nhà trường có nơi đã bị thương mại hóa nên tình trạng mua bằng, bán điểm xảy ra nghiêm trọng. Hàng loạt vụ tiêu cực trong quản lý thi cử đã không được xử lý nghiêm, thậm chí còn được lãnh đạo một số trường và ngành giáo dục đào tạo dung túng, bao che, khiến cho việc thi cử đã trở thành một căn bệnh, làm đau lòng, nhức nhối cả xã hội. Rồi chuyện dạy thêm, học thêm không lành mạnh theo kiểu "học đón đầu" (học trước chương trình), "học bù" (vì thời gian dạy chính thức ở lớp không dạy hết chương trình"!... với những khoản đóng góp của học sinh được một số người hiểu là xã hội hóa giáo dục, đã làm cho tình cảm thày trò bị tổn thương, làm xói mòn truyền thống "tôn sự trọng đạo" bao đời nay của dân tộc. Những vi phạm kỷ cương phép nước và truyền thống đạo lý nghề dạy học của một số người, ở một số nơi đã làm ảnh hưởng đến việc tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh của đại bộ phận thầy, cô giáo chân chính hết lòng vì học sinh, của các tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thanh niên.
Ba là, các chủ trương cải cách, nội dung chương trình giáo dục thay đổi liên tục dẫn đến sự hoang mang, lo lắng không chỉ của học sinh, mà của tất cả các gia đình có con em đang đi học. Đồng thời, việc này còn gây lãng phí rất lớn nguồn lực cho đào tạo của nhà nước, của xã hội, vì gắn với mỗi thay đổi là một lần phải đầu tư lại, chưa nói đến hiệu quả nhận được và nếu sai thì ảnh hưởng cho cả một thế hệ. Việc giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ít được chú ý theo định hướng, nhu cầu của đất nước (về số lượng, tỷ lệ cơ cấu theo ngành nghề, cấp bậc đào tạo...), mà có lúc còn bị lạc hướng, chạy đua, tập trung vào các ngành nghề hiện được coi là "mốt". Như vậy, đây không còn thuần túy là vấn đề đạo đức chuyên môn, mà là cả vấn đề đạo đức, nhân cách, trách nhiệm của toàn xã hội đối với thế hệ trẻ.
Bốn là, vấn đề đời sống, bảo đảm điều kiện sinh hoạt, học tập, rèn luyện, vui chơi cũng có ảnh hưởng lớn đến việc giáo dục đạo đức, ý thức chính trị cho học sinh. Đời sống của học sinh, nhất là học sinh ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, khó khăn gay gắt. Bên cạnh việc đại bộ phận số học sinh này cố gắng khắc phục khó khăn, bảo đảm học tập bằng các việc làm chính đáng, cũng còn một số ít tìm cách xoay sở bằng mọi cách, kể cả vi phạm pháp luật và các quy định chuẩn mực về nếp sống, đạo đức. Môi trường văn hóa, xã hội quanh các nhà trường không phải ở mọi nơi đều lành mạnh. Những kẻ xấu vì đồng tiền sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, lôi kéo, giăng cạm bẫy để đưa học sinh sa ngã vào con đường bất chính như cờ bạc, nghiện hút ma túy, ăn chơi trụy lạc, mại dâm, trộm cắp... Từ đó, các âm mưu và thủ đoạn "diễn biến hòa bình" có mảnh đất thuận lợi để thực hiện. Bị thất bại trong chiến dịch "chuyển lửa về quê nhà" cuối những năm 80, đầu 90 và bị chúng ta tấn công quyết liệt trong tổ chức thực hiện Nghị định 87/CP, các thế lực thù địch và kẻ xấu đã chuyển sang những thủ đoạn tinh vi và nguy hiểm hơn như: tăng cường tiếp sức cho việc buôn bán ma túy nhằm vào đối tượng học sinh; đưa sách báo văn hóa phẩm độc hại bằng kỹ thuật cài đặt vào các chương trình máy tính; tổ chức các hoạt động tôn giáo trái pháp luật trong học sinh... Trong khi đó, kinh tế thị trường đã làm cho hầu hết các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, vui chơi, giải trí... đều phải hạch toán. Nhiều hoạt động hấp dẫn tuổi trẻ nhưng tuổi trẻ không thể tham gia do thiếu kinh phí, địa điểm và điều kiện tổ chức. Phải chăng, hiện nay chúng ta vẫn còn đang né tránh những sự thật này, thậm chí nhiều nơi còn có xu hướng muốn khỏa lấp đi vì sự ảnh hưởng đến thành tích của địa phương, cơ sở?
Những vấn đề nêu trên đang hàng này, hàng giờ tác động đến công tác giáo dục đạo đức, chính trị và lý tưởng cho học sinh. Trong những điều kiện đó, các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thanh niên... cùng đội ngũ những người làm công tác giáo dục đã có nhiều cố gắng, khắc phục khó khăn để thực hiện nhiệm vụ của mình, góp phần giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn cho đất nước, đào tạo ra lớp người lao động mới phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù vẫn còn một bộ phận học sinh sa sút về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng và hoài bão, nhưng đại đa số học sinh hiện nay có ý thức chính trị tốt, thừa nhận các kết quả đổi mới đất nước, có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, có trách nhiệm với gia đình, với đất nước, do đó có ý thức học tập và rèn luyện để trở thành người lao động chân chính, trong kết quả đó có sự nỗ lực đóng góp của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Với việc phát động phong trào "học tập, rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp, vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh", các phong trào hoạt động lớn của tuổi trẻ trường học những năm qua như các hoạt động giáo dục truyền thống, khuyến học, khuyến tài, nhân đạo, từ thiện, giáo dục pháp luật, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao... do đoàn thanh niên các cấp tổ chức đã có tác dụng nhất định trong việc tập hợp, giáo dục học sinh định hướng, chuẩn bị cho họ hành trang vào đời, tham gia xây dựng đất nước do Đảng lãnh đạo. Các hoạt động đó cũng đã tạo môi trường phấn đấu, rèn luyện cho một bộ phận đoàn viên thanh niên tự khẳng định mình và trưởng thành. Nhiều người trong số đó đã vươn lên thực hiện lý tưởng của Đảng và vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Bên cạnh đó, cũng đã bộc lộ những mặt còn thiếu sót, yếu kém của đoàn thanh niên như: chưa đoàn kết và tập hợp được rộng trãi đoàn viên thanh niên học sinh; một số hoạt động chưa có hiệu quả và tác dụng thiết thực. Đoàn và hội chưa tìm ra giải pháp để giáo dục và ngăn chặn kịp thời một bộ phận học sinh, đoàn viên vi phạm kỷ luật, đạo đức. Vẫn còn một bộ phận học sinh mang tư tưởng thực dụng và trung bình chủ nghĩa... Đội ngũ cán bộ đoàn, hội tuy rất nhiệt tình, nhưng chưa hoàn toàn an tâm công tác vì còn thiếu một chính sách cụ thể và sự quan tâm, động viên thỏa đáng đối với họ.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một sự nghiệp vĩ đại mà yếu tố quyết định sự thành công là con người, nhưng trên hết và trước hết vẫn phải là bảo vệ được thành quả cách mạng và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ được nhân dân và Đảng. Vì vậy, vấn đề quan trọng số một là chuẩn bị đội ngũ những người lao động, những trí thức mới có bản lĩnh chính trị và lòng trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, có đạo đức công dân tốt, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bảo đảm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công tác giáo dục thế hệ trẻ nói chung, công tác giáo dục đạo đức, chính trị cho học sinh nói riêng càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Chính vì vậy, việc nâng cao vai trò của nhân tố chủ quan trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học hiện nay là vấn đề bức xúc.
Chương 2
Những Giải Pháp Định Hướng NÂNG CAO VAI Trò NHÂN Tố Chủ QUAN TRONG Giáo Dục Đạo Đức CHO Học SINH phổ thông trung học Hiện NAY
2.1. Tăng cường công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường, nâng cao tinh thần trách nhiệm, phẩm chất, năng lực của thầy, cô giáo trong giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học
Để thực hiện mục tiêu của trường phổ thông trung học về "giáo dục công dân, giáo dục thế giới quan khoa học, lòng yêu nước, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước" mà Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã nêu ra cần phải có một môn học riêng về đạo đức. Hiện nay, trường phổ thông trung học đã xác định đó là môn giáo dục công dân. Môn học này có hai chức năng cơ bản: một là trang bị cho học sinh một cách trực tiếp và có hệ thống những tri thức cơ bản về thế giới quan Mác - Lênin, về đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật xã hội chủ nghĩa và đạo đức xã hội chủ nghĩa. Dĩ nhiên không phải chỉ có môn giáo dục công dân mới cho học sinh biết những tri thức đó. Nhưng chỉ môn học này mới giúp cho học sinh có những kiến thức một cách trực tiếp và có hệ thống. Những tri thức do môn giáo dục công dân đem lại cho học sinh có những tác dụng sau:
Một là: Tạo ra một cơ sở quan trọng để tiếp thu tốt hơn các môn học khác và các hoạt động giáo dục khác, làm cơ sở khoa học cho sự tu dưỡng, rèn luyện tư tưởng, chính trị, đạo đức và ý thức pháp luật; giúp học sinh những cơ sở bước đầu để bước vào đời sống xã hội hoặc tiếp tục học lên.
Hai là: Góp phần hình thành những cơ sở tư tưởng ý thức chính trị, pháp luật và đạo đức xã hội chủ nghĩa của người công dân, chuẩn bị cho học sinh thực hành đúng quyền và nghĩa vụ của công dân trong một vị trí xã hội của họ sau khi ra trường.
Những cơ sở đó phải được thể hiện ngay trong thời gian học tập ở nhà trường. Cụ thể là: phải có thái độ học tập đúng