Đến nay, tại khu vực chợHàng Dương (khu DL 30/4) và thịtrấn Cần
Thạnh đã có những quầy, gian hàng bầy bán hàng hóa lưu niệm cũng như đồ
thủcông mĩnghệ được chếtác từsinh vật biển: móc khóa, chuỗi ốc, đèn
bàn rất đa dạng tương đối thỏa mãn nhu cầu lựa chọn của DK.
Từbước đầu nghiên cứu, phát triển sản phẩm DL mang tính đặc thù
của rừng ngậm mặn, đến nay Ban Quản lý Rừng phòng hộCG đang thí điểm
sản xuất một sốhàng hóa phục vụnhu cầu mua sắm như: hàng mĩnghệ(bàn,
ghế được chếtác từcây rừng ngập mặn); hàng thủcông (được chếtác, lắp
ghép từcây rừng: hình người, phương tiện giao thông, hình thú ) nhằm giới
thiệu đến DK vềmôi trường cảnh quan thiên nhiên của KDTSQTG.
129 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2342 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề tổ chức du lịch sinh thái ở Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lợi cho DL phát triển. Số lượng người tham gia vào
hoạt động DL tăng, chính lực lượng dân địa phương là người bảo vệ rừng
hiệu quả nhất.
2.3.4.2. Hạn chế
- Về giao thông đường bộ: Hệ thống giao thông đường bộ từ trục chính
đến các thôn, xã, thị trấn còn nhiều hạn chế gây trở ngại rất lớn đối với sự
phát triển kinh tế của huyện cũng như việc khai thác DL. Mặc dù, đường
Rừng Sác đã khởi công hơn 3 năm nay nhưng vẫn chưa hoàn thành giai đoạn
1 (giai đoạn đền bù, giải tỏa, hạ nền). Hơn nữa, đơn vị tổ chức thi công chưa
quan tâm đến sự đi lại của DK nên làm cho môi trường ô nhiễm (mùa nắng thì
bụi, mùa mưa lầy lội), nhiều ổ voi, ổ gà ảnh hưởng không nhỏ đến sự đi lại
(Từ thành phố đến trung tâm huyện không đầy 60 km mà phải mất tới 3 tiếng
đồng hồ; trong khi đó từ thành phố về trung tâm huyện Củ Chi gần 70 km mất
hơn một tiếng.).
Cầu Bình Khánh chưa có, đây là thiệt thòi lớn cho DL huyện nhà,
khách qua phà Bình Khánh phải chờ rất lâu (có khi hơn một tiếng đồng hồ) lại
không có chỗ nghỉ tạm khi chờ phà.
- Về giao thông đường thủy: CG có thế mạnh về kênh, rạch, sông, biển
nhưng thế mạnh ấy đến nay vẫn chỉ là tiềm năng chưa được khai thác.
Nguyên nhân chủ yếu do chưa có bến tàu lớn nên hạn chế phương tiện đường
thủy neo đậu; phương tiện đường thủy quá thô sơ….
- Cơ sở vật chất kĩ thuật và cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế (toàn
huyện có 29 đơn vị kinh doanh nhà nghỉ khách sạn với tổng số 432 phòng),
mặc dù gần đây có Công ty DLST CG, Công ty DL Vàm Sát và bà Nguyễn
Thị Hồng Vân đã đầu tư xây dựng 3 khu resort. Tuy nhiên, những ngày nghỉ
lễ cũng không đáp ứng nhu cầu (Ông Hồ Bạch Long – Phó Trưởng Ban quản
lý Khu du lịch 30/4 cho biết: “Ngày 30/04/08 có tới 25.000 DK đến tham
quan CG, gây quá tải về nhà nghỉ, khách sạn; vệ sinh bị hạn chế do thiếu nước
ngọt dẫn đến DK phàn nàn.”).
- Các khu vui chơi, giải trí: CG rất hạn chế về khu vui chơi giải trí và
các dịch vụ khác (đặc biệt là dịch vụ về đêm) để phục vụ DK. Do vậy, khách
đến nơi đây vẫn chưa biết mua gì, xem gì, ăn gì, chơi gì cho thỏa mãn chuyến
đi.
- Các di tích lịch sử, di chỉ khảo cổ, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội
rất nhiều nhưng chưa được đầu tư và đưa vào khai thác phục vụ DK.
- Mặt bằng dân trí thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao, do vậy đời sống gặp nhiều
khó khăn nên họ chưa ý thức vấn đề bảo vệ tài nguyên sinh thái rừng. Những
hộ sống bằng nghề rừng vẫn chưa tìm được mô hình sản xuất phù hợp để
nâng cao đời sống và bám giữ nghề rừng tốt hơn.
- Các nhà quản lý, các công ty tổ chức chương trình, tuyến và tour DL
chưa hợp lý. Đồng thời, chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức
năng để xây dựng những sản phẩm DL mang tính đặc trưng cho vùng.
- Vấn đề môi trường: Có thể nói, môi trường là vấn đề thời sự hiện nay
của CG. Mức độ ô nhiễm đáng báo động, vì CG là nơi hứng toàn bộ nguồn
nước thải từ Tp. HCM ra nên độ ô nhiễm rất cao. Tại CG, hệ thống xử lý các
vấn đề liên quan đến môi trường nghèo nàn, lạc hậu, cả huyện chỉ lác đác vài
xe thu gom rác cũ của công ty dịch vụ Công Ích nên rác hàng ngày được đổ
thẳng ra sông, biển. Hơn nữa, DK đến CG ngày một đông nên lượng rác thải
tăng nhưng lại thiếu thiết bị chứa rác. Hậu quả là đất, nước, không khí bị ô
nhiễm nặng nề do việc đổ rác thành đống (bãi biển 30/4 điển hình cho vấn nạn
ô nhiễm).
- Nước ngọt rất khan hiếm và giá cao hơn nội thành nhiều lần (năm
2007, vào mùa khô giá nước lên tới 50.000đ/m3), vẫn chưa có hệ thống dẫn
nước từ thành phố ra mà chủ yếu vận chuyển bằng ghe, tàu từ Đồng Nai
xuống và từ thành phố ra. Vì vậy, vào những ngày lế lớn hệ thống nhà hàng
khách sạn không đủ nước cung cấp cho DK – điều đáng tiếc trong cung cách
phục vụ các vị “Thượng đế”.
Tóm lại: Tài nguyên DLST CG phong phú, đa dạng, nhưng hiện tại
mới khai thác một phần nhỏ của tài nguyên tự nhiên (hầu như chưa khai thác
tài nguyên nhân văn). Cần khắc phục hạn chế và đẩy mạnh khai thác DLST
hơn nữa để xứng đáng với vị thế và vai trò của KDTSQTG.
Chương 3: HƯỚNG TỔ CHỨC DU LỊCH SINH THÁI
Ở CẦN GIỜ
3.1. Cơ sở để định hướng
3.1.1. Tầm quan trọng của KDTSQTG
- Duy trì nguồn dinh dưỡng cho sự phát triển các loài sinh vật trong
rừng ngập mặn. Hàng năm, rừng ngập mặn cung cấp một lượng rơi rụng khá
lớn để làm giàu cho đất rừng, vùng cửa sông và ven biển kế cận. Lượng rơi
rụng của bản thân cây rừng khoảng 8 – 20 tấn/ha (trong đó 79,7% là lá), quá
trình phân hủy trở thành nguồn thức ăn hữu cơ cho các loài sinh vật trong
rừng phát triển.
- Bảo đảm sự ổn định và phát triển nguồn lợi thủy sản cho dân địa
phương, ghìn giữ nguồn ghen các loài động – thực vật quý hiếm.
- Điều hòa khí hậu trong vùng, mở rộng diện tích đất bồi ven sông, hạn
chế xói lở và phòng chống gió bão. Rừng ngập mặn CG được xem là “lá phổi
xanh” của Tp. HCM, góp phần cân bằng một lượng lớn khí CO2 thải ra do
hoạt động hàng ngày của thành phố.
- Là địa điểm nghỉ ngơi, giải trí, an dưỡng,… cho cư dân trong và ngoài
tỉnh. Mấy năm gần đây, CG trở thành điểm tham quan DLST cho DK trong và
ngoài nước nhờ cảnh quan đẹp, môi trường trong lành. Việc phát triển DL góp
phần nâng cao mức sống cho dân bản địa và khai thác được giá trị của rừng
ngập mặn.
- Là địa điểm nghiên cứu khoa học, hiện nay hệ sinh thái rừng được ví
như phòng thí nghiệm tự nhiên to lớn và cũng là nơi lý tưởng cho các nhà
khoa học, học sinh, sinh viên đến nghiên cứu, học tập. Trong những năm qua,
Ban Quản lý Rừng phòng hộ CG đã tiếp đón hàng nghìn lượt sinh viên, học
viên, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đến nghiên cứu. Những kết quả
nghiên cứu của các nhà khoa học góp phần phục vụ cho công tác quản lý phát
triển rừng ngập mặn ngày càng bền vững. Diện tích rừng ngập mặn hiện nay
còn rất ít trên thế giới nên chúng cực kì quý giá.
3.1.2. Tiềm năng, hiện trạng DLST CG
- Tiềm năng DLST CG phong phú, đa dạng ở cả hai phương diện tài
nguyên tự nhiên và nhân văn. Với diện tích rừng ngập mặn hơn 38.000 ha đôi
chút, lại được công nhận là KDTSQTG nên động – thực vật phong phú đa
dạng: động vật có 103 loài, thực vật có 159 loài cùng nhiều khu sinh cảnh đa
dạng khác sẽ mang đến cho DK yêu thích thiên nhiên nhiều cảm giác mới lạ.
- Tài nguyên DL nhân văn cũng không kém phần phong phú. Con
người CG hiếu khách, thân thiện cùng nhiều phong tục, tập quán, lễ hội lâu
đời; Nhiều đình, chùa, miếu, miễu, khu khảo cổ được phong cấp di tích quốc
gia.
- Vấn đề tổ chức DLST, Ban Lãnh đạo địa phương rất quan tâm phát
triển: Đã quy hoạch được 3 khu DLST (rừng, biển, nông nghiệp); thường
xuyên tổ chức công tác quảng bá, tiếp thị ra thị trường trong nước và thế giới;
có chính sách kêu gọi đầu tư thông thoáng, nhiều ưu đãi; công tác phát triển
sản phẩm DL đạt được một số kết quả nhất định: phát triển nhiều tour DL,
đưa vào khai thác nhiều điểm DL mới, tổ chức nhiều hình thức DL theo nhu
cầu của DK, hoàn thành xây dựng 3 khu resort và nhiều cơ sở nghỉ ngơi khác;
hàng thủ công mĩ nghệ và hàng lưu niệm ngày càng phong phú đa dạng, giá
cả cạnh tranh.
- Trong các hình thức DL thì DLST được DK quan tâm nhất. Vài năm
gần đây, DK quốc tế đến Việt Nam tăng mạnh (4,2 triệu lượt người năm
2007), như một hiệu ứng dây truyền thì CG ngày càng thu hút sự quan tâm
của giới DL là điều dễ hiểu (năm 2007 CG đón hơn 300 ngàn lượt DK, đạt
doanh thu vài chục tỷ đồng). Cuộc sống công nghiệp vội vã, nhiều lo toan,
môi trường ô nhiễm nên nhu cầu tham quan, giải trí, tìm hiểu, trở về với thiên
nhiên hoang dã, bảo vệ môi trường được nhiều giới quan tâm. Phát triển
DLST sẽ đáp ứng phần nào nhu cầu đó.
3.1.3. Chủ trương chung về vấn đề phát triển DLST CG
3.1.3.1. Chủ trương của Nhà nước, UBND Tp. HCM và của UBND
huyện CG
- Mục tiêu tổng quát của DL Việt Nam đã được các Đại hội Đảng xác
định rõ: “Phát triển nhanh DL, đưa DL Việt Nam trở thành trung tâm DL,
thương mại, dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực.” (Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VIII); “Phát triển DL thật sự trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn.” (Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX); “Phát triển mạnh và
nâng cao chất lượng hoạt động DL, đa dạng hóa các sản phẩm và loại hình
DL.” (Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X). DL được Chính phủ
cam kết là một trong 11 ngành ưu tiên hội nhập sớm trong lộ trình xây dựng
Cộng đồng kinh tế ASEAN. Phương châm của DL Việt Nam là: phát triển
nhanh và bền vững; kết hợp DL quốc tế và nội địa; Bảo đảm hiệu quả về kinh
tế – xã hội, chính trị, an ninh, quốc phòng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy hợp tác, tăng cường hội nhập
kinh tế và giao lưu văn hóa.
- Tháng 4/2004 Chủ tịch UBND Tp. HCM đã phê duyệt “Đề án Quy
hoạch phát triển khu DLST CG đến năm 2020” và tháng 12/2007 thành phố
đã điều chỉnh đề án này. Theo đó, thành phố sẽ có chính sách ưu đãi về đất
đai, thuế đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước khi đầu tư vào DL CG.
Mục tiêu và chiến lược của đề án là: đa dạng hóa các loại hình DLST, thu hút
các nhà đầu tư, đào tạo nhân lực cho ngành DL CG, tạo nền tảng tác động tích
cực để bảo tồn rừng ngập mặn, di sản tự nhiên, văn hóa và đa dạng sinh học.
Theo quy hoạch, CG sẽ có một khu DLST biển rộng 600 ha, một khu DLST
rừng rộng 42.000 ha (tăng 4.000 ha so với hiện nay) và một khu DLST nông
nghiệp diện tích 28.710 ha.
- Tính đến tháng 5/2008 CG đã thu hút được 22 nhà đầu tư đăng kí thực
hiện và lập 25 dự án đầu tư vào các khu DLST, khu vui chơi, giải trí trãi đều
trên địa bàn toàn huyện với tổng diện tích thực hiện là 1.776 ha (trong đó, 7
dự án đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, 18 dự án đang triển khai). Theo ông
Đoàn Văn Sơn – Phó Chủ tịch UBND huyện cho biết: “DLST được xác định
là ngành kinh tế mũi nhọn của huyện. CG mong muốn vươn lên thành đô thị
sinh thái của thành phố, sao cho đô thị này phải hài hòa với sinh thái và bảo
tồn được sinh thái.”. Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IX (2005 – 2010) và kế
hoạch phát triển kinh tế – xã hội 2008 cũng có chủ trương: “Phấn đấu tổng
doanh thu DL tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 25%, tăng trưởng về số
khách đạt 20%, đầu tư và phát triển khu DLST Cần Thạnh.”.
3.1.3.2. Ý kiến của tác giả luận văn
Cần đẩy mạnh phát triển DLST hơn nữa, phát triển càng nhanh càng
tốt, có phát triển DLST mới có khả năng duy trì, ổn định, phát triển
KDTSQTG. Vì, số tiền thu được do hoạt động DL mang lại sẽ được trích một
phần cho công tác bảo tồn, chăm sóc, phát triển rừng ngập mặn. Hơn nữa, khi
DLST phát triển, cũng đồng nghĩa với việc tạo ra công ăn việc làm và không
ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống cho dân địa phương. Lúc đó, họ thấy
được ý nghĩa thiết thực do DL mang lại sẽ ra sức bảo vệ rừng trên cơ sở tự
nguyện, tự giác và khoa học. Bảo vệ rừng, chính là bảo vệ miếng cơm, manh
áo của họ và không ai bảo vệ rừng hơn chính người dân CG.
3.2. Nguyên tắc phát triển DLST CG
3.2.1. Nguyên tắc 1: Phát triển song hành DLST trên cả hai mặt chất
và lượng.
a/ Thế nào là phát triển về chất và phát triển về lượng?
- Phát triển về chất: Là phát triển đường đi, lối lại, nơi ăn, chốn nghỉ,
đội ngũ hướng dẫn viên, đặc biệt là thái độ hướng dẫn, đón tiếp, phục vụ của
hướng dẫn viên đối với DK. Làm sao để mọi DK đều cảm thấy thoải mái, hài
lòng và bổ ích cho một chuyến tham quan CG. Bên cạnh đó, phát triển về chất
phải bảo đảm ngày càng gắn bó chặt chẽ hơn với môi trường sinh thái và an
toàn tuyệt đối cho KDTSQTG.
- Phát triển về lượng: Là cũng cố và phát triển thêm các tuyến, điểm,
tour, loại hình DL cũng như các khu vui chơi, giải trí… nhằm mang lại cho
DK sự thỏa mãn nhất, hài lòng nhất hơn cả sự mong đợi của họ.
b/ Hai mặt chất và lượng phải song hành với nhau
Khi phát triển, hai mặt chất và lượng phải song hành vì giữa chúng có
sự tương tác qua lại với nhau. Khi chất phát triển thì lượng khách đến với CG
ngày một đông hơn, điều này cũng đồng nghĩa với doanh thu từ hoạt động DL
tăng theo, lúc đó chúng ta có điều kiện phát triển về mặt lượng. Khi lượng
phát triển, ta lại đẩy mạnh phát triển về chất và ngược lại, cứ như vậy đến vô
cùng vô tận. Trong quá trình phát triển thì cần ưu tiên số một cho mặt chất,
đồng thời luôn luôn cũng cố, triển khai phát triển mặt lượng. Quá trình đầu tư
phát triển, CG phải tiến hành từng bước thật vững chắc, lâu dài, khoa học, cân
nhắc ý kiến đóng góp của các nhà khoa học và không được nôn nóng.
c/ Phát triển có định hướng trước mắt và lâu dài:
Định hướng trước mắt là những việc phải làm ngay hoặc được thực
hiện trong vòng từ 3 đến 5 năm nữa. Chẳng hạn, phải hoàn thành cấp tốc
tuyến đường Rừng Sác và làm cầu Bình Khánh để giải quyết vấn đề trở ngại
lớn nhất hiện nay cho DLST huyện nhà.
Ngược lại, trong khi thực hiện những việc trước mắt cần quy hoạch, dự
báo và đề ra những giải pháp khả thi cho giai đoạn lâu dài, tức là từ 10 đến 15
năm hay xa hơn nữa. Những việc làm trong tương lai được triển khai khi
những việc trước mắt đã hoàn thành và đưa vào hoạt động DL có hiệu quả.
Như vậy, nguyên tắc phát triển về chất, lượng phải bao gồm cả những
việc trước mắt và lâu dài.
3.2.2. Nguyên tắc 2: Phát triển DLST phải đi đôi với việc bảo vệ môi
trường sinh thái cũng như đa dạng sinh học. Và, không chỉ bảo vệ mà
còn cải thiện môi trường, phát triển đa dạng sinh học.
a/ Giải quyết mâu thuẫn giữa phát triển DLST và sự xuống cấp của
môi trường.
Trong quá trình phát triển DLST sẽ kéo theo sự xuống cấp của môi
trường sinh thái cũng như đa dạng sinh học là tất yếu. Vậy, chúng ta giải
quyết mâu thuẫn này như thế nào?
Phải có những quy định nghiêm ngặt và thực hiện xử phạt nghiêm minh
đối với DK cũng như hướng dẫn viên khi họ vi phạm. Bên cạnh đó, cần tạo
điều kiện cho họ thực hiện quy định đó.
Chẳng hạn, chúng ta viết nội quy ngay tại cổng ra vào các điểm DL hay
đặt những bảng cảnh báo bên vệ đường tham quan cho DK dễ thấy, các bảng
phải ghi rõ số tiền nộp phạt. Song song đó, trước khi vào tham quan thì hướng
dẫn viên phải phổ biến những nội quy cho DK được rõ, nếu hướng dẫn viên
không làm điều này thì khi DK vi phạm, người hướng dẫn bị trừ vào tiền
lương. Ngược lại, DK xả rác, bẻ hoa, khạc nhổ, dẫm lên cỏ, leo rào… vi phạm
nội quy thì phạt nóng ngay tại chỗ để làm gương cho người khác. Bên cạnh
đó, cần tạo điều kiện cho DK thực hiện nội quy như: đặt các thùng rác bên vệ
đường, có nhà vệ sinh công cộng, có ghế đá hay bãi cỏ cho DK dừng chân
nghỉ tạm….
Huyện phải thường xuyên giáo dục môi trường sinh thái, da dạng sinh
học cho dân địa phương. Lực lượng hướng dẫn viên cần phổ biến cho DK một
cách kĩ lưỡng những kiến thức cơ bản nhất về sinh thái học để từ đó họ yêu
thiên nhiên hơn và có ý thức bảo vệ môi trường hơn.
Ra sức lôi kéo người dân địa phương tham gia hoạt động DL bằng
cách:
Thứ nhất: Đào tạo nghề hướng dẫn viên DL, bố trí cho họ làm công tác
bảo vệ rừng, bảo vệ các điểm DL, tham gia các lễ hội, phát triển nghề thủ
công mĩ nghệ, cho thuê dịch vụ nhà trọ….
Thứ hai: Không ngừng nâng cao chất lượng đời sống cho dân bản địa
trên cơ sở trích tiền từ hoạt động DL để cải tạo và xây dựng mới hệ thống
đường, điện, trường, trạm và một số công trình phúc lợi khác.
b/ Không ngừng cải thiện môi trường sinh thái và phát triển đa dạng
sinh học.
Phải trích một phần tiền (khoảng 20%) do hoạt động DL mang lại cho
công tác bảo vệ môi trường như: mua thùng rác, xây nhà vệ sinh công cộng,
làm hàng rào, xử lý rác thải, nước thải…. Đồng thời, nuôi trồng thêm các loài
đặc hữu bản địa, thu mua các loài độc đáo từ nơi khác về và trồng thêm rừng
để tăng diện tích lớp phủ thực vật.
Đơn cử như: nuôi thêm trăn, rắn, kì đà, cá sấu, chim yến… thông qua
trung tâm nhân giống lai tạo vật nuôi cây trồng, hoặc thấy trên báo chí hay
phương tiện thông tin đại chúng thông báo có loài vật lạ, cây trồng hay, thì cử
người đến ngay thu mua về.
3.2.3. Nguyên tắc 3: Phát triển song song các loại hình DL phục vụ cho
những đối tượng DK khác nhau.
Cần tiến hành phân loại đối tượng DK để có thể bố trí những tour hay
loại hình DL phù hợp với nhu cầu, sở thích, mức sống, thu nhập cá nhân... của
họ. Ở đây, chúng ta cần hiểu rằng, không phải chỉ tìm ra những điểm mới,
tuyến mới, mới có thể mang đến sự hài lòng thỏa mãn cho DK. Ngược lại,
cũng tuyến đó, điểm đó, song nếu chúng ta biết phân loại khách và thiết kế
những tour, loại hình DL, cải tiến cách đón tiếp, phục vụ thì vẫn có thể gây ấn
tượng cho khách tham quan mà hiệu quả kinh tế cũng cao hơn. DK chỉ khác
nhau về: nhu cầu ăn ở, phương tiện đi lại, thu nhập cá nhân, cách thưởng thức,
giải trí… vì vậy, chúng ta có thể tạm chia các đối tượng trên thành 3 loại
chính như sau:
- Đối tượng 1: Bao gồm học sinh – sinh viên, đoàn thanh niên, công
đoàn.
Đối tượng này thu nhập cá nhân không cao, thậm chí sống nhờ vào sự
trợ cấp của gia đình nhưng lại có sở thích: thích giao lưu, kết bạn, nhiệt tình,
năng động, khám khá chinh phục những miền đất lạ và không ngừng trau dồi
kiến thức về tự nhiên, kinh tế – xã hội…. Họ thường đi theo đoàn lớn, từ vài
chục đến vài trăm người, đôi khi cũng đi theo dạng cá nhân hay tốp nhỏ
nhưng rất ít.
Nhu cầu cho đối tượng này có thể phục vụ theo phương châm: rẻ – vui
– bổ ích. Như thế, theo phương châm trên, chúng ta cần chú ý những điểm
sau:
+ Về nhà trọ: Phải có nhà trọ tập thể giá thật rẻ, họ không quan trọng
lắm về chỗ ở qua đêm. Tuy nhiên, nhà trọ cần có đủ gối, mùng, mền, quạt, các
giường có thể kê sát nhau và được phân thành 2 dãy nam nữ.
+ Về ẩm thực: Họ cần các món ăn rẻ, ngon, no, bổ chứ không phải là
những món cầu kì.
+ Về cách giải trí: Ban đêm, phải có nơi cho họ đốt lửa trại, vài cây
đàn ghi ta, đôi ba bộ bài tiến lên và quan trọng hơn là có hướng dẫn viên
chuyên nghiệp, tổ chức cho họ chơi những trò chơi tập thể thật vui nhộn, hài
hước, sức lôi cuốn cao.
+ Về hướng dẫn viên: Đối tượng này nhu cầu học hỏi xếp thứ 2 sau vui
chơi. Vì vậy, hướng dẫn viên phải là người trẻ tuổi, năng động, nhiệt tình, vui
vẻ và có kiến thức vững chắc về sinh thái học để giới thiệu, giải thích những
gì khách thắc mắc trên tuyến đi.
Nói chung, đối tượng thứ nhất thích học tập, vui chơi, bổ ích và quan
trọng là rẻ tiền.
Như vậy, nên đặt Văn phòng xúc tiến DL và xây nhà trọ cũng như tiến
hành tổ chức các trò chơi ở một địa điểm gần Trung tâm dã ngoại Thanh thiếu
niên Tp. HCM là hợp lý nhất.
- Đối tượng thứ 2: Những người nghèo và trung lưu
Người nghèo ở đây không phải là nghèo quá mà có thể hiểu rộng hơn
một chút, đó là những người thu nhập cá nhân có dư đôi chút. Họ thường đi
theo nhóm, cá nhân hoặc gia đình.
Phương châm phục vụ cho đối tượng này là: giá rẻ – bổ ích – thoải mái.
Đối tượng này nhu cầu học hỏi không cao bằng đối tượng trên, nhưng
về ẩm thực và chỗ ở yêu cầu cao hơn. Họ thích ăn những món ăn gia đình
ngon, bổ, rẻ và ở nhà trọ bình dân theo kiểu gia đình, tốp hay cá nhân. Chính
vì thế, CG nên bố trí cho đối tượng này ở nhà trọ bình dân của huyện hoặc
nhà trọ trong dân (Chúng tôi sẽ nói rõ trong phần phương hướng.). Họ thích
tham quan các điểm DL tự nhiên, các làng nghề, đến các trung tâm thương
mại, cửa hàng tự chọn mua sắm với giá bình dân và buổi tối có thể xem ca
nhạc hoặc cải lương hay đàn ca tài tử. Phương tiện đi lại của họ là những loại
bình dân với giá cả phải bình dân như: xe ôm, xuồng nhỏ, xe daihatsu….
Nên bố trí hướng dẫn viên là người đứng tuổi, tâm lý, tính tình điềm
đạm và không yêu cầu cao về kiến thức sinh thái môi trường như đối tượng 1,
vì đối tượng này chỉ cần biết chứ rất ít khi thắc mắc “tại sao lại thế?”. Tuy
nhiên, hướng dẫn viên cũng cần phổ biến những kiến thức cơ bản nhất về sinh
thái học giúp họ hiểu về tự nhiên và có ý thức bảo vệ môi trường tốt hơn.
Cần đặt Văn phòng xúc tiến du lịch tại thị trấn Cần Thạnh để khi đối
tượng này xuống thì tư vấn, bố trí cho họ những tour, tuyến, điểm tham quan,
chỗ nghỉ ngơi sao cho hợp lý nhất.
+ Đối tượng thứ 3: Khách nước ngoài, người giàu có, cá nhân an
dưỡng và những nhà khoa học.
Đối tượng này thu nhập cá nhân rất cao, do đó nhu cầu đòi hỏi cũng rất
cao ở tất cả các khâu và dịch vụ chăm sóc đón tiếp. Đội ngũ hướng dẫn viên
phục vụ cho họ phải giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, giỏi ngoại ngữ, trẻ đẹp và
kinh nghiệm lâu năm.
Họ thích đưa đón bằng những xe xịn nhất, đắt tiền, sang trọng nhất
(thường thì DK có xe du lịch riêng), món ăn cầu kì lạ mắt, bổ dưỡng, giá cạnh
tranh và nơi ở là những khách sạn sang trọng nhất. Đối với loại khách này
chúng ta phải bố trí loại hình dịch vụ: massage, sông hơi, giải trí… 24/24.
Riêng khách nước ngoài, ngoài tham quan về tự nhiên thì cần cho họ
tham gia lễ hội, tham quan làng nghề. Ngược lại, các nhà khoa học, an dưỡng
phải có khu cao cấp dành riêng cho họ. Nên bố trí những khu nhà yên tĩnh,
cao cấp, sát biển, ven rừng phục vụ cho an dưỡng và nghiên cứu khoa học (có
thể là những nhà trọ cao cấp trong dân hay của huyện).
Nói chung, nhu cầu cho đối tượng này là: tham quan, giải trí, học tập,
an dưỡng, nghiên cứu nhưng giá thành phải cạnh tranh.
3.2.4. Nguyên tắc 4: Làm hài lòng DK tối đa.
Phát triển du lịch điều tối kị nhất là: để DK bị bơ vơ, lạc lõng, hắt hủi…
nếu điều này xảy ra thì thật tai hại cho du lịch huyện nhà. Chính vì vậy, phải
chăm sóc, tiếp đón các vị “Thượng đế” sao cho mọi người khách đều cảm
thấy mình là người “quan trọng nhất” trong tour, trong tuyến hay trong đoàn
họ đi chung. Họ phải cảm nhận được, du lịch CG quan tâm, lắng nghe, thấu
hiểu và chia sẻ nhu cầu thì khi đấy họ mới cảm thấy sự hài lòng nhất, vui vẻ
nhất, thoải mái nhất. Hay, nói một cách nôm na rằng: DL CG phải làm cho
DK hài lòng khi đặt chân đến, vừa lòng trong quá trình ở lại và lưu luyến ấn
tượng mong muốn quay lại nơi đây sau khi kết thúc hành trình. Và đương
nhiên, khách DL sẽ sẵn sàng móc “hầu bao” chi tiêu đến những đồng tiền cuối
cùng nếu ngành DL của địa phương này có thể làm thỏa mãn tối đa nhu cầu
của họ.
DK tham gia du lịch CG thì chi phí cho chuyến tham quan phải phù
hợp với túi tiền, mục đích và nhu cầu cho nhiều đối tượng khác nhau. Qua
chuyến đi, khách tham quan phải biết được: ăn gì mà ngon rẻ, xem gì mà hấp
dẫn và độc đáo, chơi gì để xả stress, mua gì mà không tiếc tiền và học được
những gì giúp nâng cao kiến thức hay kinh nghiệm sống.
Như vậy, theo nguyên tắc này thì phương châm kinh doanh là: “hài
lòng khách đến, vừa lòng khách đi” và “uy tín quý hơn vàng, khách hàng là
thượng đế” - yếu tố sống còn, nuôi dưỡng, phát triển cho ngành du lịch huyện
nhà.
3.3. Phương hướng, giải pháp cho thời gian trước mắt và những việc cần
làm ngay
3.3.1. Nhanh chóng hoàn thành tuyến đường Rừng Sác và làm cầu
Bình Khánh
Đường Rừng Sác rộng tới 6 làn xe chạy, nối phà Bình Khánh và thị trấn
Cần Thạnh, tuyến đường này khởi công cách nay 3 năm và dự định hoàn
thành vào cuối năm 2008, nhưng hiện nay mới chỉ hoàn thành được giai đoạn
hạ nền giải tỏa. Vì lẽ trên, CG cách thành phố không đầy 60 km mà phải chạy
xe máy tới 3 tiếng đồng hồ (tính cả thời gian đợi phà), do đó gây khó khăn
không nhỏ cho sự phát triển của DL huyện nhà. Việc cấp thiết hiện nay là
nhanh chóng hoàn thành tuyến đường huyết mạch này mới có thể đưa DL CG
phát triển tương xứng với tiềm năng của nó. Muốn vậy, CG phải dồn vốn đầu
tư cho dự án này và đôn đốc, xử phạt những nhà thầu, gói thầu không hoàn
thành thi công đúng thời hạn.
Bên cạnh đó, tiến hành xây cầu Bình Khánh nhằm chấm dứt tình trạng
khách đến CG phải đợi phà rất lâu như hiện nay.
3.3.2. Nhanh chóng hoàn thành hệ thống đường ống dẫn nước ngọt từ
Tp. HCM về CG
Cần nhanh chóng hoàn thành hệ thống dẫn nước ngọt từ thành phố về
CG. Dự án này đã tiến hành mấy năm nay, nhưng hiện nay công trình vẫn còn
dang dở, gây không ít phiền hà cho DK đến CG vào những ngày tết, lễ, cuối
tuần do thiếu nước ngọt.
Hệ thống dẫn nước tối thiểu phải đến được các nhà trọ trong dân, nhà
trọ tập thể đặt gần Trung tâm giải trí Thanh thiếu niên thành phố, nhà nghỉ,
khách sạn để phục vụ cho DK. Khi chưa tiến hành xong dự án trên, các cơ
quan chức năng của huyện phải tăng cường biện pháp quản lý giá cung cấp
nước sinh hoạt, dịch vụ và nước dành cho sản xuất, kinh doanh tại các khu
vực trên địa bàn, không để tình trạng tiểu thương ép và đẩy giá lên quá cao
như hiện nay (năm 2007, vào mùa khô giá nước lên tới 50.000đ/m3).
Trong điều kiện hiện nay, huyện và thành phố chỉ cần góp tiền làm
đường ống dẫn nước ngọt về trung tâm các xã, thị trấn còn người dân phải tự
bỏ tiền ra làm đường ống nhánh dẫn vào thôn, ấp và gia đình mình.
3.3.3. Phát triển hệ thống đường giao thông đến các điểm DL, xây
dựng bến đò, bến xe ôm, bến xe daihatsu phục vụ cho DK
- Về đường bộ: Nhanh chóng cải tạo, nâng cấp các tuyến đường đến
các điểm DL mà ô tô có thể đi được hay tối thiểu xe gắn máy cũng vào được.
Các tuyến đường cần hoàn thành sớm là:
+ Đường Lý Nhơn: Tuyến này bắt đầu từ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVDLDLH006.pdf