Vào thế kỉ 16, những kiến trúc sư người Ý đã làm việc chuyên nghiệp xu hướng nghề nghiệp của họ bằng cách thành lập một Học viện nghệ thuật – The Accademia di San Luca – Rome dưới sự bảo trợ của Giáo hoàng Gregory XIII năm 1577 [28]
Cuộc thi đầu tiên của Học viện được tổ chức vào năm 1656. Cấu trúc của các cuộc thi vào Học viện tương đương với kì thi kiến trúc. Việc thiết kế trong các cuộc thi vào Học viện chỉ là những tình huống giả định. Vì lí do này chúng được gọi là “dự án” – “những dự án với ý định là những bài tập trong tưởng tượng chứ chúng không được dùng để xây dựng” (theo Egbert).
Sau mô hình của Ý, Viện hàn lâm kiến trúc Hoàng gia cũng được thành lập ở Pháp năm 1761, nhiệm vụ của cuộc thi ở đây trở nên phổ biến. Ngoài những cuộc thi “Prix d’Emulation” diễn ra hàng tháng. Với sự giới thiệu của Prix d’Emulatiom, việc đào tạo đã tập trung vào học tập bằng các dự án. Sinh viên phải hoàn thành một vài dự án cấp tháng để được trao tặng huân chương hoặc được công nhận kết quả. Sự công nhận này hết sức cần thiết để học tiếp thạc sĩ và được trao tặng danh hiệu kiến trúc sư hàn lâm. Với Prix d’Emulatiom năm 1763, sự phát triển ý tưởng dự án thành PP học tập và giáo dục hàn lâm được hoàn thiện.
Học tập bằng các dự án không còn là duy nhất đối với ngành kiến trúc. Đến cuối thế kỉ 18 chuyên ngành cơ khí đã được thành lập và được coi là một bộ phận của các trường đại học công nghiệp và kĩ thuật mới.
Sự lan truyền từ châu Âu sang châu Mĩ và từ ngành kiến trúc đến ngàng cơ khí có ảnh hưởng quan trọng đến việc sử dụng và trang bị cơ sở lí luận cho các PPDH theo dự án.
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12083 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vận dụng phương pháp dạy học theo dự án để dạy học chuyên đề giáo dục môi trường cho sinh viên ngành giáo dục tiểu học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n.
1.3..4.2. Cấu trúc của một “case”
Một “case” thường có 3 phần chính:
Phần nội dung: chứa đựng vấn đề cần được phân tích, tìm hiểu, đánh giá.
Phần hệ thống câu hỏi: giúp định hướng người học tìm hiểu và đánh giá vấn đề, vận dụng kết quả tìm hiểu vấn đề vào những tình huống tương tự,...
Phần hướng dẫn tài liệu: chỉ ra các nguồn tài liệu tham khảo giúp người học tìm hiểu các khía cạnh khác nhau của “case”
1.3.4.3. Tổ chức giảng dạy với “case”
Theo Herreid (1994), có thể tiến hành giảng dạy “case” theo các PP sau:
- PP thảo luận (Discussion format)
GV giới thiệu “case” cho lớp, sau đó nêu ra hệ thống câu hỏi để hướng dẫn lớp thảo luận. Trong quá trình thảo luận, GV có thể đưa ra các gợi ý để giúp nội dung thảo luận sôi nổi và đi đúng hướng. Tùy theo nội dung vấn đề mà GV nên hoặc không nên tổng kết thảo luận và giải đáp câu hỏi.
- PP tranh luận (Debate format)
Thường được dùng trong trường hợp “case” đề cập đến hai quan điểm hoặc giải pháp trái ngược nhau cho cùng một vấn đề, ví dụ “case” đề cập đến việc uống cà phê là tốt hay có hại cho sức khỏe con người. Để tiến hành tranh luận, GV chia lớp thành 2 nhóm, mỗi nhóm chuẩn bị ý kiến về một quan điểm hay giải pháp sau đó lần lượt mỗi nhóm trình bày, nhóm kia đưa ra ý kiến phản bác.
- PP công luận (Public hearing format)
Một nhóm người học được chọn để đóng vai chủ tọa đoàn, những HS còn lại có thể nêu lên quan điểm của mình về vấn đề mà “case” đặt ra. Chủ tọa đoàn có thể đặt các qui định cho buổi thảo luận, điều hành tiến trình thảo luận, và cho ý kiến nhận xét về các nội dung trao đổi. GV chỉ đóng vai trò hỗ trợ vào những lúc cần thiết và có thể cho ý kiến đánh giá chung.
- PP tranh tụng (Trial format)
Đây là PP sử dụng hình thức giải quyết vấn đề tựa như các phiên tòa: một số HS (hoặc cùng GV) đóng vai trò chủ tọa đoàn, một nhóm HS đóng vai trò “bên nguyên đơn”, một số HS đóng vai trò “bên bị đơn”. Ngoài ra còn có một số người học đóng vai “luật sư biện hộc” và “nhân chứng”
- PP nghiên cứu nhóm (Scientific research tearm format)
PP này không chú trọng việc thảo luận như các PP trên mà chủ yếu giúp người học cùng cộng tác để tìm hiểu, giải quyết một vấn đề khoa học, kĩ thuật nào đó. GV đưa ra một “case” với các yêu cầu cụ thể và các câu hỏi dẫn dắt, trên cơ sở đó nhóm HS tìm tòi tài liệu, nghiên cứu, trao đổi,... để đi tìm lời giải.
1.3.4.4. Qui trình hướng dẫn người học
Hầu hết người học sẽ cảm thấy bỡ ngỡ khi lần đầu tham gia học tập với PP này, đặc biệt khi họ được yêu cầu phân tích, đánh giá, đưa ra quan điểm / giải pháp riêng của mình về những vấn đề mà “case” đặt ra. Vì vậy, sẽ rất hữu ích nếu GV có hướng dẫn ban đầu về mặt PP. Những hướng dẫn sau đây có thể được cung cấp cho người học trước khi tham gia nhằm giúp họ từng bước đi sâu vào “case” và làm việc nhóm có hiệu quả:
Trình tự nghiên cứu và giải quyết vấn đề:
Nhận diện các vấn đề được đặt ra; đâu là vấn đề chính, đâu là vấn đề phụ.
Nhận diện các dữ kiện có liên quan đến các vấn đề; đâu là dữ kiện chính, đâu là dữ kiện phụ.
Xác định những loại dữ kiện cần được bổ sung để giúp giải quyết vấn đề.
Xây dựng những giả thuyết về vấn đề.
Xác định những yếu tố, nguyên nhân làm vấn đề nảy sinh.
Xây dựng những giải pháp cho vấn đề
Chọn lựa giải pháp tối ưu.
Xây dựng tiến trình giải quyết vấn đề.
Những lưu ý đối với cá nhân khi làm việc nhóm:
Hãy cùng tạo ra không khí thân thiện và hợp tác vì đây là yếu tố quyết định cho sự thành công của nhóm.
Tôn trọng và cố gắng hiểu rõ những ý kiến do bạn bè đề xuất và liên hệ với suy nghĩ của mình. Ghi nhận những điểm hay và chưa hay.
Mạnh dạn đưa ra giải pháp cho vấn đề trên cơ sở suy nghĩ của bản thân và ý tưởng của bạn.
Mạnh dạn phê phán trên tinh thần xây dựng và cầu tiến.
Không nên chuyển sang xây dựng một vấn đề khác khi mà vấn đề đang bàn chưa được giải quyết một cách cơ bản.
2. PPDH theo dự án
2.1. Khái niệm
Vài nét về lịch sử nghiên cứu PPDH theo dự án
Vào thế kỉ 16, những kiến trúc sư người Ý đã làm việc chuyên nghiệp xu hướng nghề nghiệp của họ bằng cách thành lập một Học viện nghệ thuật – The Accademia di San Luca – Rome dưới sự bảo trợ của Giáo hoàng Gregory XIII năm 1577 [28]
Cuộc thi đầu tiên của Học viện được tổ chức vào năm 1656. Cấu trúc của các cuộc thi vào Học viện tương đương với kì thi kiến trúc. Việc thiết kế trong các cuộc thi vào Học viện chỉ là những tình huống giả định. Vì lí do này chúng được gọi là “dự án” – “những dự án với ý định là những bài tập trong tưởng tượng chứ chúng không được dùng để xây dựng” (theo Egbert).
Sau mô hình của Ý, Viện hàn lâm kiến trúc Hoàng gia cũng được thành lập ở Pháp năm 1761, nhiệm vụ của cuộc thi ở đây trở nên phổ biến. Ngoài những cuộc thi “Prix d’Emulation” diễn ra hàng tháng. Với sự giới thiệu của Prix d’Emulatiom, việc đào tạo đã tập trung vào học tập bằng các dự án. Sinh viên phải hoàn thành một vài dự án cấp tháng để được trao tặng huân chương hoặc được công nhận kết quả. Sự công nhận này hết sức cần thiết để học tiếp thạc sĩ và được trao tặng danh hiệu kiến trúc sư hàn lâm. Với Prix d’Emulatiom năm 1763, sự phát triển ý tưởng dự án thành PP học tập và giáo dục hàn lâm được hoàn thiện.
Học tập bằng các dự án không còn là duy nhất đối với ngành kiến trúc. Đến cuối thế kỉ 18 chuyên ngành cơ khí đã được thành lập và được coi là một bộ phận của các trường đại học công nghiệp và kĩ thuật mới.
Sự lan truyền từ châu Âu sang châu Mĩ và từ ngành kiến trúc đến ngàng cơ khí có ảnh hưởng quan trọng đến việc sử dụng và trang bị cơ sở lí luận cho các PPDH theo dự án.
Quá trình lịch sử nổi bật của PPDH theo dự án được chia thành 5 giai đoạn”
Từ 1590 – 1765: Khởi đầu là việc làm theo dự án ở những trường kiến trúc của châu Âu.
Từ 1765 – 1880: PPDH theo dự án là một PP học tập có qui tắc và được đưa đến Mĩ
Từ 1880 – 1915: Làm việc trong dự án đào tạo thủ công ở các trường phổ thông công lập bình thường.
Từ 1915 – 1965: Định nghĩa lại PPDH theo dự án và đưa nó từ Mĩ quay lại châu Âu.
Từ 1965 đến nay: Khám phá lại ý tưởng về PPDH theo dự án và làm nó phổ biến trên toàn thế giới.
Như vậy, lịch sử phát triển của PPDH theo dự án có thể tóm lược như sau: DHTDA có nguồn gốc từ châu Âu từ thế kỉ 16 (ở Ý, Pháp). Đến thế kỉ 20, các nhà sư phạm Mĩ (Woodward; Richard; J.Dewey, W.Kilpatrick) xây dựng cơ dở lí luận cho PPDH này. Ngày nay, PPDH TDA được sử dụng phổ biến trên toàn thế giới, trong tất cả các ngành học, cấp học với các tên gọi khác nhau: Project Method, Project base learning.
Khái niệm PPDH THDA
Thuật ngữ “dự án” trong tiếng Anh là “project”, có gốc tiếng Latinh là “projicere” có nghĩa là phác thảo, dự thảo, thiết kế.
Trong từ điển tiếng Việt (của GS Bùi Quang Tịnh và Bùi Thị Tuyết Khanh), dự án (dt): Bản thảo về một việc gì đó.
Putt (1982) định nghĩa PPDH TDA là một “công cụ mang tính phương pháp”.
Woodward đã coi các dự án như “các bài tập tổng hợp – Những kĩ năng kĩ thuật học được khi làm việc độc lập được ứng dụng trong hoàn cảnh cụ thể”.
Khái niệm dự án được sử dụng phổ biến trong thực tiễn sản xuất, kinh tế, xã hội, đặc trưng của nó về cơ bản là tính không lặp lại của các điều kiện thực hiện dự án (DIN 69901)
Như vậy, khái niệm dự án được hiểu là một dự định, một kế hoạch, trong đó cần xác định rõ mục tiêu, thời gian, phương tiện tài chính, vật chất, nhân lực và cần được thực hiện nhằm đạt mục tiêu đề ra. Dự án được thực hiện trong những điều kiện xác định và có tính phức hợp, liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau.
Học tập dựa trên dự án là một mô hình học tập khác với các hoạt động học tập truyền thống với những bài giảng ngắn, tách biệt và lấy GV làm trung tâm. Theo đó các hoạt động học tập được thiết kế một cách cẩn thận, mang tính lâu dài, liên quan đến nhiều lĩnh vực học thuật, lấy người học làm trung tâm và hòa nhập với những vấn đề và thực tiễn của thế giới thực tại. Mục tiêu của một dự án (được định nghĩa là việc nghiên cứu có chiều sâu về một chủ đề học tập) là để học nhiều hơn về một chủ đề chứ không chỉ là để tìm ra những câu trả lời đúng cho những câu hỏi mà GV đưa ra. Trong các lớp học sử dụng cách học dựa trên dự án, người học cộng tác với các bạn trong lớp trong một khoảng thời gian nhất định để giải quyết vấn đề có thật trong đời sống (authentic), theo sát chương trình học (curriculum-base) và có phạm vi kiến thức liên môn (interdiscriplinary), cuối cùng trình bày công việc mình đã làm trước một cử tọa ngoài nhóm. Bước cuối cùng có thể là một buổi thuyết trình sử dụng các phương tiện nghe nhìn, một vở kịch, một bản báo cáo viết tay, một trang web hoặc một sản phẩm được tạo ra.
Cách học này không chỉ tập trung vào các chương trình giảng dạy mà còn khám phá các chương trình này, yêu cầu người học phải đặt câu hỏi, tìm kiếm những mối liên hệ và tìm ra giải pháp. Cách học dựa trên dự án là một cấu trúc học tập có thể thay đổi môi trường từ “GV nói” thành “người học thực hiện”.
Trong các lớp học tập theo dự án, các dự án thường được thực hiện bởi các nhóm nhỏ người học trong lớp và đôi khi chỉ bởi một người học. Mục tiêu chính của dự án là để tìm ra câu trả lời về chủ đề do người học, GV hoặc do GV cùng người học đặt ra. Khi người học nhận được bài tập hoặc những thông tin chi tiết về dự án của mình, các em sẽ quyết định cách thức giải quyết những vấn đề được đưa ra. Thường thì người học sẽ được yêu cầu phải đóng vai một nhà khoa học thực sự, một nhà kinh doanh, một nhà thám hiểm, một viên chức nhà nước hoặc nhà sử học. Ví dụ, một nhóm người học có thể đóng vai ủy viên của Ủy ban Tư vấn Môi trường Quốc tế với nhiệm vụ phải đưa ra những đề xuất đối với những vấn đề môi trường. Tất nhiên, GV sẽ cung cấp những thông tin nền và những chỉ dẫn, nhưng người học phải có trách nhiệm tìm ra phương hướng và cách thức giải quyết vấn đề trong phạm vi những tiêu chí do GV đặt ra.
Như vậy, học tập dựa trên dự án là học tập trong hành động. Nó thu hút người học để họ không còn là vật chất chứa đựng thông tin một cách bị động mà là người tích cực giành lấy kiến thức. PPDH này hướng người học đến việc tiếp thu kiến thức và kĩ năng thông qua quá trình giải quyết một bài tập tình huống, được gọi là một dự án mô phỏng môi trường mà các em đang sống và sinh hoạt. Dự án này có thể chỉ giới hạn trong phạm vi lớp học và có độ dài 1 – 2 tuần, hoặc có thể vượt ra ngoài phạm vi lớp học và kéo dài suốt khóa học/năm học.
Dưới đây là một vài định nghĩa về PPDHTDA của một số tác giả, nhóm tác giả đã có thời gian nhất định nghiên cứu về PPDH này:
DHTDA là một hình thức dạy học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với thực tiễn, kết hợp lí thuyết với thực hành, tự lực lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá kết quả. Hình thức làm việc chủ yếu là theo nhóm, kết quả dự án là những sản phẩm hành động có thể giới thiệu được (Viện nghiên cứu sư phạm)
Theo dự án bồi dưỡng GV phổ thông “DH cho tương lai – Teaching For Future” do Intel tổ chức thì: DHTDA là một mô hình DH lấy hS làm trung tâm. Nó giúp phát triển kiến thức và các kĩ năng liên quan thông qua những nhiệm vụ mang tính mở, khuyến khích HS tìm tòi, hiện thực hóa những kiến thức đã học trong quá trình thực hiện và tạo ra sản phẩm của chính mình. Chương trình DH TDA được xây dựng dựa trên những câu hỏi định hướng quan trọng, lồng ghép các chuẩn nội dung và tư duy bậc cao trong những bối cảnh thực tế. Bài học thiết kế theo dự án chứa đựng nhiều kĩ thuật DH khác nhau, có thể lôi cuốn được mọi đối tượng HS không phụ thuộc vào cách học của họ. Thông thường HS sẽ được làm việc với chuyên gia và những thành viên trong cộng đồng để giải quyết vấn đề, hiểu nội dung sâu hơn. Các phương tiện kĩ thuật cũng được sử dụng để hỗ trợ việc học. Trong quá trình thực hiện dự án có thể vận dụng nhiều các đánh giá khác nhau để giúp HS tạo ra những sản phẩm có chất lượng (Chương trình giáo dục của Intel tại VN)
Theo tác giả Phan Hồ Nghĩa thì: DHTDA là một hình thức dạy học trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết và thực hành, tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh. Tóm lại, DHTDA là một hình thực DH quan trọng để thực hiện quan điểm DH định hướng vào người học, quan điểm DH định hướng hoạt động và quan điểm DH tích hợp. DHTDA góp phần gắn lí thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội, tham gia tích cực vào việc đào tạo năng lực làm việc tự lực, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, tinh thần trách nhiệm và khả năng cộng tác làm việc của người học.
Qua những phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về DHTDA. DHTDA được nhiều tác giả coi là một hình thức DH vì khi thực hiện một dự án, có nhiều PPDH cụ thể được sử dụng. Tuy nhiên, khi không phân biệt giữa hình thức và PPDH, người ta cũng gọi là PPDHTDA, khi đó cần hiểu đó là PPDH theo nghĩa rộng, một PPDH phức hợp. Một cách ngắn gọn và tổng quát, ta hiểu: PPDHTDA là một mô hình DH mà ở đó, người học tự tiếp thu tri thức thông qua việc cộng tác học tập, độc lập tư duy giải quyết những nhiệm vụ thuộc một chủ đề học tập dưới vai trò hướng dẫn, tư vấn, thúc đẩy và cộng tác của GV.
2.2. Đặc điểm, bản chất của PPDH theo dự án
PPDHTDA có những đặc điểm chính sau:
Tính liên quan: PPDHTDA tạo ra kinh nghiệm học tập thu hút người học vào những dự án trong thế giới thực, người học sẽ dựa vào đó để phát triển và ứng dụng các kĩ năng và kiến thức của mình. Nội dung khóa học có ý nghĩa hơn nhiều bởi vì nó dựa trên việc học từ thế giới thực và người học có thể tìm thấy hứng thú trong việc học.
Tính thách thức: Học tập dựa trên dự án khuyến khích người học giải quyết những vấn đề phức tạp mang tính hiện thực. Các em khám phá, giải thích, và tổng hợp thông tin một cách có ý nghĩa. Ví dụ, xây dựng kế hoạch cho một “ngôi trường lí tưởng”, hoàn thiện một chương trình giảng dạy, miêu tả công việc, thiết kế sơ đồ nhà, xây dựng tiêu chí tuyển dụng và đưa ra lí do cho từng kế hoạch. Tất cả những hoạt động này yêu cầu ngời học phải có tư duy sâu sắc về công việc của mình.
Gây hứng thú: Học tập dựa trên dự án ghi nhận rằng PP học có ý nghĩa thúc đẩy mong muốn học tập của người học, tăng cường năng lực hoàn thành những công việc quan trọng và mong muốn được đánh giá. Khi người học có cơ hội kiểm soát được việc học của chính mình, giá trị của việc học của các em cũng tăng lên. Cơ hội lựa chọn và kiểm soát, cũng như cơ hội cộng tác với các bạn cùng lớp cũng làm tăng hứng thú học tập của các em.
Tính liên ngành: Học tập dựa trên dự án yêu cầu người học sử dụng thông tin của những môn học khác nhau để giải quyết vấn đề. Trong hầu hết các dự án, người học phải làm những bài tập liên quan đến nhiều mảng kiến thức.
Tính xác thực: Học tập dựa trên dự án yêu cầu người học tiếp thu kiến thức theo cách học của “người lớn” là học và trình diễn kiến thức. Ví dụ, khi người học phải viết bài tập quảng bá về trường mình bằng tiếng Anh, các em sẽ tiếp thu được những kiến thức và kĩ năng thực tế.
Khả năng cộng tác: Học tập theo dự án thúc đẩy sự cộng tác giữa người học và GV và giữa các HS với nhau; nhiều khi, sự cộng tác đã được mở rộng đến cộng đồng.
Bản chất của PDHTDA
Có rất nhiều kiểu dự án được tiến hành trong lớp học. Một dự án được coi là hiệu quả khi nó đạt được sự cân bằng giữa khả năng thực hiện của người học với ý đồ thiết kế của GV, chỉ rõ những công việc người học cần làm. Để nhận diện rõ thế nào là bài học theo dự án ta cần làm rõ bản chất của PPDHTDA theo những khía cạnh sau:
Người học là trung tâm của quá trình DH. Bài học theo dự án được thiết kế cẩn thận, lôi cuốn người học vào những nhiệm vụ mở và có tính thực tiễn cao. Các nhiệm vụ của dự án kích thích khả năng ra quyết định, niềm cảm hứng, say mê của người học trong quá trình thực hiện và tạo ra sản phẩm cuối cùng. Người học lĩnh hội kiến thức bài học thông qua việc tìm hiểu và tự quyết định mức độ hoàn thành các nhiệm vụ của dự án. GV giữ vai trò hỗ trợ hay hướng dẫn. Người học hợp tác làm việc với nhau trong các nhóm, phát huy tối đa năng lực cá nhân khi đảm nhận những vai trò khác nhau.
Dự án tập trung vào những mục tiêu học tập quan trọng gắn với các chuẩn. Những dự án tốt được phát triển dựa trên những nội dung cốt lõi của chương trình đáp ứng các chuẩn quốc gia và địa phương. Dự án có các mục tiêu rõ ràng gắn với các chuẩn và tập trung vào những hiểu biết của người học sau quá trình học. Từ việc định hướng vào mục tiêu, GV sẽ chọn lựa hình thực DH phù hợp, lập kế hoạch đánh giá và tổ chức các hoạt động dạy và học. Kết quả của dự án được thể hiện kết tinh trong sản phẩm của người học và quá trình thực hiện nhiệm vụ, ví dụ phần thuyết trình đầy thuyết phục hay ấn phẩm thông tin thể hiện sự lĩnh hội các chuẩn nội dung và mục tiêu dạy học.
Dự án định hướng theo Bộ câu hỏi khung chương trình. Câu hỏi khung chương trình sẽ giúp các dự án tập trung vào những hoạt động DH trọng tâm. Người học được giới thiệu về dự án thông qua các câu hỏi gợi mở những ý tưởng lớn, xuyên suốt và có tính liên môn. Người học sẽ buộc phải tư duy sâu hơn về các vấn đề nội dung của môn học theo các chuẩn và mục tiêu. Có ba dạng câu hỏi khung chương trình: Câu hỏi khái quát, câu hỏi bài học và câu hỏi nội dung. Câu hỏi khái quát là các câu hỏi rộng, có tính mở, đề cập đến các ý tưởng lớn và các khái niệm xuyên suốt. Câu hỏi loại này thường mang tính liên môn, giúp người học hiểu được mối quan hệ giữa các môn học. Các câu hỏi bài học được gắn trực tiếp với dự án, hỗ trợ việc tìm kiếm lời giải cho câu hỏi khái quát. Các câu hỏi bài học thể hiện mức độ hiểu những khái niệm cốt lõi về dự án của người học. Các câu hỏi nội dung thường mang tính thực tiễn cao, bám sát các chuẩn và mục tiêu đề ra.
Dự án đòi hỏi các hình thức đánh giá đa dạng và thường xuyên. Ngay từ khi triển khai dự án, các kết quả dự kiến cần phải được làm rõ và phải luôn được rà soát nhiều lần để kiểm chứng mức độ lĩnh hội bằng các PP đánh giá khác nhau. Người học sẽ được xem mẫu và hướng dẫn trước để thực hiện công việc có chất lượng nhất, và phải biết rõ điều gì đang chờ đợi ngay từ khi bắt đầu thực dự án. Cần phải tạo cơ hội để rà soát, phản hồi hay điều chỉnh trong suốt quá trình thực hiện dự án.
Dự án có liên hệ với thực tế. Dự án phải gắn với đời sống thực tế, có thể mời các chuyên gia ngoài cùng tham gia để tạo ra những tình huống DH. Người học có thể thể hiện việc học của mình trước những đối tượng thực tế, liên hệ với các nguồn lực cộng đồng, tham khảo các chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu, hoặc trao đổi thông qua công nghệ hiện đại.
Người học thể hiện sự hiểu biết của mình thông qua sản phẩm hoặc quá trình thực hiện. Thông thường các dự án được kết thúc với việc người học thể hiện thành quả học tập của mình thông qua các bài thuyết trình, các văn bản tài liệu, các mô hình dàn dựng, các đề án hoặc thậm chí là các sự kiện mô phỏng như một hội thảo giả. Những sản phẩm cuối cùng này giúp người học thể hiện khả năng diễn đạt và làm chủ quá trình học tập.
Công nghệ hiện đại hỗ trợ và thúc đẩy việc học của người học. Người học được tiếp cận với nhiều công nghệ khác nhau giúp hỗ trợ phát triển khả năng tư duy, cho ý kiến đánh giá về nội dung và hỗ trợ tạp sản phẩm cuối. Với sự trợ giúp của công nghệ, người học tự chủ hơn với kết quả cuối cùng, có cơ hội “cá nhân hóa sản phẩm”. Người học có thể vươn ra khỏi 4 bức tường lớp học bằng cách cộng tác với các lớp học từ xa qua email và các trang web tự tạo, hoặc trình bày việc học của mình qua các chương trình đa phương tiện.
Kĩ năng tư duy là không thể thiếu trong làm việc theo dự án. Làm việc theo dự án sẽ hỗ trợ phát triển cả kĩ năng tư duy siêu nhận thức lẫn tư duy nhận thức như hợp tác, tự giám sát, phân tích dữ liệu và đánh giá thông tin. Trong suốt quá trình thực hiện dự án, các câu hỏi khung chương trình sẽ kích thích người học tư duy và liên hệ với các khái niệm mang ý nghĩa thực tiễn cao.
Chiến lược DH đa dạng hỗ trợ phong cách học đa dạng. Các chiến lược DH sẽ tạo ra một môi trường học tập đa dạng hơn, thúc đẩy tư duy bậc cao hơn. Những chiến lược DH này sẽ giúp đảm bảo cho người học được tiếp cận với toàn bộ học liệu của chương trình, tạo cơ hội thành công cho mỗi thành viên. Trong giảng dạy có thể kết hợp các kĩ thuật DH hợp tác, làm việc nhóm, phân nhánh tổ chức, nhận xét phản hồi từ GV.
Vai trò của GV và người học trong PPDHTDA
Vai trò của người học
Người học bằng việc tham gia một dự án (là một bài tập tình huống) có liên quan chặt chẽ đến môn học. Người học đóng vai là những người thuộc ngành nghề khác nhau, hoàn thành vai trò của mình dựa trên những kiến thức, kĩ năng nhất định liên quan đến nội dung học. Người học tự quyết định cách tiếp cận vấn đề, tự hoạch định và tổ chức các hoạt động của bản thân. Người học tập giải quyết vấn đề của cuộc sống thực bằng các kĩ năng của người lớn. Thông thường người học hợp tac trong nhóm trong suốt quá trình thực hiện dự án. Cuối mỗi dự án, người học hoàn thành việc học của mình với các sản phẩm cụ thể và cuối cùng họ phải trình bày và bảo vệ sản phẩm có tích hợp công nghệ thông tin. Như vậy, học tập theo dự án tạo ra nhiều cơ hội học tập liên ngành. Người học áp dụng và kết hợp nội dung các lĩnh vực, chủ đề khác nhau vào những thời điểm xác thực trong quá trình học tập thay vì trong một môi trường tách biệt và nhân tạo. Hầu hết những vấn đề của thế giới thực đều mang tính cố hữu, liên ngành. Điều đó cho thấy giá trị của cách dạy giải quyết vấn đề trong bối cảnh liên ngành và cung cấp cho người học những công cụ hỗ trợ liên ngành để giải quyết. Mục tiêu chính của dự án là để tìm ra câu trả lời về chủ đề do người học, GV hoặc cả hai cùng đặt ra. Khi người học nhận được bài tập hoặc những thông tin chi tiết về dự án của mình, người học sẽ quyết định cách thức giải quyết những vấn đề được đưa ra.
Tóm lại người học sẽ đi từ việc chỉ làm theo mệnh lệnh đến tự giác thực hiện các hoạt động học một cách có định hướng. Đặc biệt người học sẽ tự mình phát hiện ra kiến thức, hiểu kiến thức đó và áp dụng những kiến thức đó vào thực tế, người học được trao quyền tự xây dựng kiến thức cho mình và chủ động thực hiện – người học là trung tâm của quá trình DH.
Vai trò của GV
Vai trò của GV trong các lớp học tập theo dự án rất khác biệt với vai trò mà hầu hết các GV đã quen thuộc. Trong lớp học truyền thống, GV nắm giữ tất cả kiến thức và rồi truyền tải đến người học. Với PPDHTDA, GV không còn điều khiển tư duy HS nữa. Vai trò của GV lúc này là một người hướng dẫn, người huấn luyện, người tư vấn và bạn cùng học. GV phải tập trung hơn vào việc tạo cơ hội học tập, tiếp cận với thông tin, làm mẫu và hướng dẫn người học. Bên cạnh đó, GV phải tạo môi trường thúc đẩy PP học tập hợp tác.
Như vậy GV trong lớp học theo dự án không dạy nội dung cần học theo cách truyền thống mà từ nội dung trong các môn học nhìn ra sự liên quan của nó tới các vấn đề của cuộc sống. Từ đó hình thành ý tưởng về một dự án liên quan đến nội dung học. GV tạo vao trò của người học trong dự án, làm cho vai trò của người học gắn với nội dung cần học (thiết kế các bài tập cho người học). Tựu trung lại, GV là người chỉ dẫn người học, họ sẽ nói ít hơn. Thay vì là một chuyên gia, GV sẽ phải cùng tìm kiếm các thông tin liên quan cùng người học. Thông qua PPDHDA, GV cũng có thể thay đổi cả PP kiểm tra đánh giá bằng cách giảm kiểm tra trên giấy và tăng việc kiểm tra qua hành động.
2.3. Một số qui trình DHTDA
Như đã trình bày ở phần trên, có rất nhiều tác giả đã và đang nghiên cứu về PPDHTDA. Mỗi tác giả lại thuộc những lĩnh vực khác nhau, do đó khi nghiên cứu về PPDHTDA, họ nghiên cứu nhìn nhận nó dưới góc độ các lĩnh vực khoa học khác nhau với mục đích phục vụ cho chuyên ngành mà họ đang đảm nhận chính. Vì thế, từ trước đến nay chưa có một tác giả nào đưa ra một qui trình chung để vận dụng PPDHTDA cho tất cả các môn học. Có chăng, chỉ đưa ra qui trình áp dụng vào một môn học cụ thể hay một lĩnh vực hẹp nào đó. Dưới đây là một số qui trình DHTDA của một số tác giả.
Savoie và Hunghes miêu tả quá trình DHTDA gồm các bước như sau:
Xác định một vấn đề phù hợp với HS.
Liên kết vấn đề với thế giới của các em HS
Tổ chức chủ đề xung quanh vấn đề (dự án), chứ không phải môn học.
Tạo cho HS cơ hội để xác định PP và kế hoạch học để giải quyết vấn đề.
Khuyến khích sự cộng tác bằng cách tạo ra nhóm học tập
Yêu cầu tất cả HS trình bày kết quả học tập dưới hình thức một dự án hoặc một chương trình.
Ở qui trình trên, các tác giả có cách nhìn khái quát về một dự án cần tổ chức cho người học thực hiện. Hay nói khác đi, theo tác giả thì một dự án có thể đem lại hiệu quả khi dự án đó phù hợp với người học, có liên hệ với thực tiễn cuộc sống và đặc biệt dự án không chỉ gói gọn trong một bài học, môn học mà có thể mở rộng sang nhiều môn học, mang tính liên ngành. Ngoài ra, qui trình trên cho thấy sự chuẩn bị là hết sức quan trọng khi tổ chức DH theo PP này. Trong quá trình chuẩn bị, người học cần được trực tiếp tham gia vào việc lập kế hoạch, xác định PP làm việc... Trong quá trình thực hiện dự án, chúng ta luôn khuyến khích sự cộng tác l
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vận dụng phương pháp dạy học theo dự án để dh chuyên đề giáo dục môi trường cho sinh viên ngành giáo dục tiểu học.doc