Chiếc thuyền ngoài xacủa Nguyễn Minh Châu được đưa vào trong chương trình môn Văn ở
trường phổ thông từ khá lâu. Năm 1991, trong chương trình Cải cách GD, truyện ngắn Mảnh trăng
cuối rừnglần đầu tiên được đưa vào SGK Văn 12, và vẫn tiếp tục được dạy và học cho đến năm
2007. Mảnh trăng cuối rừnglà một trong những truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu và
cũng thuộc trong số những truyện ngắn hay nhất của thời kì kháng chiến chống Mĩ. Nhân vật chính
của truyện - cô Nguyệt - là một biểu tượng cao đẹp của con người Việt Nam trong cuộc kháng
chiến, với vẻ đẹp toàn diện, tình yêu thủy chung, tinh thần dũng cảm, đức hi sinh đã trở nên quen
thuộc và có sức hấp dẫn lớn với nhiều thế hệ HS THPT. Tác phẩm đã được nhiều nhà nghiên cứu,
nhà giáo bình luận, phân tích, đã được khám phá ở nhiều bình diện, khía cạnh. Truyện ngắn này
cũng đã nhiều lần được đưa vào đề thi tốt nghiệp THPT và đề thi tuyển sinh Đại học. Năm 1995,
truyện ngắn Bức tranhđã được đưa vào SGK Văn học lớp 9 (chương trình chỉnh lí), và đến năm
2005 được thay thế bằng truyện Bến quê, trong chương trình môn Ngữ văn THCS. Từ năm 2005,
SGK thí điểm lớp 12 chương trình THPT đổi mới đã đưa truyện ngắn Chiếc tuyền ngoài xavào
phần văn học Việt Nam giai đoạn 1975 đến hết TK XX. Đến năm 2008, tác phẩm đã chính thức
được đưa vào chương trình Ngữ văn 12 đại trà (cả chương trình cơ bản và chương trình nâng cao).
107 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4170 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vận dụng phương thức nêu vấn đề vào việc dạy học tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu ở trường THPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Từ cảm hứng sử thi - lãng mạn từng làm
nên vẻ đẹp rực rỡ của tác phẩm Cửa sông, Mảnh trăng cuối rừng, Dấu chân người lính, ông chuyển
dần sang cảm hứng triết luận về những giá trị nhân bản đời thường. Tâm điểm những khám phá
nghệ thuật của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh
phúc và hoàn thiện nhân cách. Hai tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983)
và Bến quê (1985) đã đưa tên tuổi Nguyễn Minh Châu lên vị trí “người mở đường tinh anh và tài
năng” của văn học nước ta thời kì đổi mới.
Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa lúc đầu được in trong tập Bến quê, sau được Nguyễn
Minh Châu lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (1987). Chiếc thuyền ngoài xa rất tiêu
biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Cái nhìn
hiện thực đa chiều đã giúp ông nhận ra đời sống con người bao gồm cả những qui luật tất yếu lẫn
những ngẫu nhiên may rủi khó bề lường hết. Ông day dứt về việc con người phải chấp nhận những
nghịch lí không đáng có. Gánh nặng mưu sinh đè trĩu trên đôi vai cặp vợ chồng hàng chài, giam
hãm họ trong cảnh tăm tối, đói khổ, bấp bênh. Người chồng tha hóa trở thành kẻ vũ phu, thô bạo.
Người vợ vì thương con nên chịu sự ngược đãi của chồng mà không biết rằng đã làm tổn thương
tâm hồn đứa con thơ dại. Đứa bé yêu mẹ, bênh vực mẹ thành ra thù địch với cha và ai biết liệu trong
tương lai cậu có thể sống khác cha mình? Phía sau câu chuyện buồn này, trái tim nhân hậu của
Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp niềm tin yêu, trân trọng trước vẻ đẹp tuổi thơ, tình mẫu tử, sự can
đảm và bao dung của người phụ nữ. Đó không phải kiểu vẻ đẹp chói sáng, hào hùng mà là những
hạt ngọc khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp, lam lũ của đời thường. Theo ông, tình yêu ở người nghệ sĩ
“vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thường
trực về số phận, hạnh phúc của những người xung quanh mình” [18, tr.63].
Cảm hứng sáng tác trên được thể hiện trong một truyện ngắn hiện đại thời kì đổi mới với tình
huống truyện độc đáo mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống; điểm nhìn nghệ thuật sắc sảo, đa
chiều; lời văn giản dị mà sâu sắc.
2.2.2. Vận dụng phương thức nêu vấn đề trong giờ dạy học Chiếc thuyền ngoài xa của
Nguyễn Minh Châu
2.2.2.1. Vận dụng cấu trúc tình huống có vấn đề hướng dẫn học sinh tìm hiểu các giá trị nội
dung và nghệ thuật của truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
Như trên đã nói, tình huống có vấn đề là khâu trung tâm để hình thành tư duy. Thành phần cơ
bản của tình huống có vấn đề gồm: một là những thứ mới, chưa được biết, phản ánh đối tượng của
tư duy, đó là nội dung; hai là nhu cầu đối với cái chưa biết, phản ánh động cơ của tư duy; ba là khả
năng của HS, bao gồm khả năng sáng tạo và mặt bằng tri thức của HS. Mối quan hệ biện chứng của
các thành phần này tạo thành cấu trúc của tình huống có vấn đề. Theo đó, cấu trúc của tình huống có
vấn đề được biểu hiện qua hai hoạt động: tạo lập bối cảnh vấn đề chính là đưa ra “những thứ mới,
chưa được biết” (hoạt động NVĐ của GV) và quá trình tích cực tư duy để nhận thức, khám phá,
sáng tạo cái mới (hoạt động giải quyết vấn đề của HS).
Như vậy mấu chốt của dạy học NVĐ là thiết lập cho được hai hoạt động tương tác của GV -
nêu vấn đề và HS - giải quyết vấn đề.
- Hoạt động NVĐ của GV (đôi khi HS NVĐ):
+ GV tổ chức, xây dựng, tạo ra những giả thiết, những dữ kiện và yêu cầu giải pháp để người
đọc đi tìm lời giải. Tức là GV làm xuất hiện bên trong ý thức của HS một mâu thuẫn nhận thức tự
giác, một nhu cầu bên trong muốn giải quyết mâu thuẫn đó.
+ GV lập kế hoạch các bước giải, lập kế hoạch cho quá trình đi đến lời giải, làm cho quá
trình đó trở nên thuận lợi, kích thích HS nỗ lực chủ động giải quyết một phần vấn đề.
+ NVĐ được cụ thể hóa bằng những câu hỏi gọi là câu hỏi NVĐ. Các câu hỏi NVĐ được đặt
trong một hệ thống và thống nhất với mục tiêu bài học. Thông thường, GV đưa ra câu hỏi, hỏi dồn
hoặc gợi tìm, kết hợp với quan sát tinh tế và đánh giá chính xác.
+ Câu hỏi NVĐ có nhiều mức độ: yêu cầu HS chỉ tái hiện, yêu cầu HS phải tư duy, yêu cầu
HS cùng một lúc phải vận dụng nhiều năng lực khác nhau để giải quyết vấn đề,…
- Hoạt động giải quyết vấn đề của HS:
+ Đây là lúc HS thể hiện rõ nhất sự năng động, tích cực của mình.
+ Trước vấn đề GV nêu ra, HS chấp nhận mâu thuẫn của cái khách quan thành mâu thuẫn và
nhu cầu bên trong của bản thân mình để trở thành thành chủ thể của hoạt động nhận thức.
+ Con đường tư duy của người học cũng chính là quá trình của sự nỗ lực tìm tòi, phát hiện
kiến thức bằng việc đưa ra các lời giải của bài toán nhận thức một cách thích hợp, sáng tạo, tức là
biết cách nắm bắt và xử lí trúng các tình huống có vấn đề.
+ Thông qua việc đối thoại trực tiếp với GV, đối thoại với nhau (khi thảo luận nhóm; thuyết
trình, phản biện,…), đối thoại với nhà văn (qua việc sắm vai, hóa thân),... mà HS có sự nhận thức
sâu sắc nội dung bài học.
Cụ thể việc vận dụng cấu trúc tình huống có vấn đề vào việc tìm hiểu các giá trị của truyện
ngắn Chiếc thuyền ngoài xa như sau:
NHU CẦU NHẬN THỨC,
KHÁM PHÁ, SÁNG TẠO
CỦA HS
KHẢ NĂNG
NHẬN THỨC , KHÁM PHÁ, SÁNG TẠO CỦA HS
- Những điểm chính về tác
giả định hướng cho việc
đọc - hiểu truyện ngắn
Chiếc thuyền ngoài xa?
- Cảm hứng truyện ngắn
Chiếc thuyền ngoài xa?
*Phần mở đầu (Giới thiệu chung):
- Về tác giả Nguyễn Minh Châu:
+ Nhấn mạnh vai trò của Nguyễn Minh Châu đối với sự
nghiệp đổi mới văn học sau 1975.
+ Giới thiệu ngắn gọn hướng tìm tòi, khám phá đời sống
mang cảm hứng triết học nhân sinh của tác giả.
- Về tác phẩm: Chiếc thuyền ngoài xa được viết theo xu
hướng chung của văn học thời kì đổi mới: hướng nội,
khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con
người đời thường.
*Phần nội dung chính (Đọc-hiểu văn bản):
+ Sự đối lập giữa “cái đẹp
tuyệt đỉnh của ngoại cảnh”
mà phóng viên Phùng vừa
thu vào ống kính với hiện
thực cuộc sống nhọc nhằn,
cay cực của người dân chài
nói lên điều gì về mối quan
hệ giữa nghệ thuật và cuộc
đời?
+ Sau khi nghe câu chuyện
của người đàn bà ở tòa án,
Đẩu đã “vỡ ra” điều gì? Ý
nghĩa sự “vỡ ra” ấy?
- Quá trình nhận thức của phóng viên Phùng và chánh án
Đẩu:
+ Phùng - một phóng viên nhiếp ảnh, được cử đi thực tế
chụp bổ sung bức ảnh cho bộ lịch nghệ thuật. Anh đã
phát hiện “một cảnh đắt trời cho” đẹp như “chân lí của sự
toàn thiện” và một cảnh tượng phi thẩm mĩ, phi nhân
tính. Cảnh tượng ấy làm cho anh ngỡ ngàng, ngơ ngác
trước một hiện thực “như trong câu chuyện cổ”. Khi tiếp
xúc và nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài, anh
cảm thông, thấm thía và thấy niềm tin bị lung lay. Anh
ngộ ra nhiều điều về mối quan hệ giữa nghệ thuật và
cuộc đời.
+ Đẩu - bạn chiến đấu của Phùng, nay làm chánh án ở
tòa án huyện. Anh hào hứng và tin tưởng vào thiện chí
của mình nên khuyên người đàn bà li hôn. Nhưng câu
chuyện và những lí lẽ của chị đã thức tỉnh Đẩu. Anh ngộ
ra những nghịch lí mà con người buộc phải chấp nhận:
“trên thuyền cần có người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn
bạo” và thấy rằng lòng tốt là đáng quí nhưng chưa đủ, lí
lẽ đẹp đẽ là cần thiết nhưng phải có giải pháp thiết thực
mới giúp con người thoát khỏi những đau khổ, tăm tối.
- Nguyên nhân dẫn đến tình
trạng bạo lực gia đình hàng
chài?
- Nguyên nhân của tình trạng bạo lực: do sự tăm tối và
thói vũ phu của người chồng (trực tiếp), do đói nghèo,
đời sống bấp bênh kéo dài tâm lí bế tắc, u uất (sâu xa).
Nhà văn lên án thói vũ phu, báo động về tình trạng bạo
lực gia đình, ngợi ca tình mẫu tử, trân trọng những khát
vọng đẹp đẽ. Thói vũ phu của người chồng được tác giả
soi chiếu từ nhiều góc nhìn tạo nên sự đối thoại, làm
người đọc phải suy nghĩ, nhập cuộc.
- Ấn tượng lạ lùng của nhân
vật Phùng ở cuối tác phẩm:
“tuy là ảnh đen trắng…
đám đông” có ý nghĩa gì?
- Tấm ảnh trong “bộ lịch năm ấy”: nhìn kĩ vào bức ảnh
đen trắng, Phùng thấy “cái màu hồng hồng của ánh
sương mai”, và nhìn lâu hơn anh thấy “người đàn bà ấy
đang bước ra khỏi tấm ảnh”. Đó là sự ám ảnh sâu sắc, sự
hồi tưởng những kỉ niệm của người nghệ sĩ. Qua đó, tác
giả như muốn nói: người nghệ sĩ phải trung thực, nhìn
thẳng và nhìn sâu vào hiện thực; hãy rút ngắn khoảng
cách giữa nghệ thuật và cuộc đời.
+ Tình huống truyện như
thế nào? ý nghĩa của nó?
+ Cách kể chuyện ra sao,
đạt hiệu quả như thế nào?
+ Giọng điệu trần thuật của
truyện có nét gì riêng?
+ Cái hay của ngôn ngữ
trần thuật là gì?
- Những đặc sắc nghệ thuật:
+ Tạo “tình huống nhận thức” cắt nghĩa giây phút “giác
ngộ” chân lí của nhân vật.
+ Chọn ngôi kể, điểm nhìn trần thuật thích hợp (Phùng)
làm cho câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực.
+ Giọng điệu trần thuật biến đổi linh hoạt theo diễn biến
tình tiết giàu kịch tính.
+ Ngôn ngữ của các nhân vật sinh động, phù hợp với tính
cách; lời văn giản dị mà sâu sắc, dư ba.
- Thông điệp từ truyện?
* Phần củng cố:
- Tổng kết bài học theo Mục tiêu cần đạt.
- Luyện tập với hai yêu cầu: củng cố, khắc sâu kiến thức
và kiểm tra đánh giá.
2.2.2.2. Vận dụng các “loại hình nêu vấn đề” hướng dẫn học sinh thâm nhập sâu sắc truyện
ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
Bên cạnh câu hỏi NVĐ hoặc hệ thống câu hỏi NVĐ là các biện pháp hoặc hình thức tổ chức
cho HS giải quyết vấn đề:
* Những điểm chính về tác giả:
- Trước khi học truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, ở THCS, HS đã được “tiếp cận” Nguyễn
Minh Châu qua truyện ngắn Bến quê. Do đó, GV có thể NVĐ bằng cách nhắc lại Bến quê và yêu
cầu HS trình bày những hiểu biết của mình về tác giả Nguyễn Minh Châu. Nguồn kiến thức này có
thể từ bài học Bến quê ở lớp 9, phần Tiểu dẫn SGK NV 12, vốn kiến thức mà HS tự tích lũy…
(NVĐ kiểu tái hiện)
- GV có thể mượn lời phát biểu của nhà văn Nguyên Ngọc nhân ngày giỗ đầu của Nguyễn
Minh Châu kết hợp với phần Tiểu dẫn ở SGK NV12 để giới thiệu nhà văn này (NVĐ kiểu ứng
dụng).
- Để nhấn mạnh vai trò vị trí của Nguyễn Minh Châu trong giai đoạn văn học sau 1975, GV
yêu cầu HS nhắc lại những điểm khái quát về văn học sau 1975 (Bài “Khái quát văn học Việt Nam
từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX” mà HS đã học ở đầu năm học) và liên hệ một
số TP của các tác giả khác cùng thời, từ đó NVĐ về vai trò mở đường của Nguyễn Minh Châu trong
sự nghiệp đổi mới văn học học sau 1975 và hướng tìm tòi, khám phá đời sống mang cảm hứng triết
học nhân sinh của Nguyễn Minh Châu (NVĐ kiểu kiểm tra kết hợp kiểu so sánh).
- Những cách hỏi - đáp như trên có tác dụng kích thích sự suy nghĩ, tìm tòi của người học,
để từ đó HS nhận thức được những điểm cơ bản về tác giả Nguyễn Minh Châu, làm một tiền đề
quan trọng cho việc cảm thụ đúng và sâu sắc về TP.
* Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm:
GV yêu cầu HS nêu xuất xứ và hoàn cảnh ra đời của Chiếc thuyền ngoài xa. Nội dung này
HS rất dễ xác định. Tuy nhiên, GV lưu ý HS thời điểm ra đời của Chiếc thuyền ngoài xa trong sự
liên hệ với thời điểm ra đời của Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (1952), Vợ nhặt của Kim Lân (1962),
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành (1965), Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi
(1966); thời điểm ra đời của Mảnh trăng cuối rừng (1970), Dấu chân người lính (1972),… của
Nguyễn Minh Châu (NVĐ kiểu so sánh; so sánh ở hai cấp độ: TP của các tác giả khác và TP của
chính tác giả).
Đàm thoại trong tình huống này giúp HS có khả năng khái quát kiến thức, nhìn TP trong giai
đoạn văn học sau 1975 với những đặc điểm cơ bản khác hẳn với đặc điểm TP trong giai đoạn văn
học trước 1975.
* Thể loại:
GV yêu cầu HS xác định thể loại để định hướng tiếp cận TP theo loại thể. HS dễ dàng nêu
được Chiếc thuyền ngoài xa thuộc loại truyện ngắn hiện đại, qua đó xác định hướng tìm hiểu TP
cũng như thiết kế bài học: hình tượng các nhân vật, nghệ thuật tình huống, nghệ thuật trần thuật,…
Song, nếu dừng lại ở đó thì giá trị thẩm mĩ của Chiếc thuyền ngoài xa sẽ không khác gì Mảnh trăng
cuối rừng (Nguyễn Minh Châu) hay Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành). GV cần đặt HS vào tình
huống ấy để thấy chất loại thể của Chiếc thuyền ngoài xa không thiên về tính chất sử thi và cảm
hứng lãng mạn mà là tính chất đời tư thế sự. Từ đó nhận ra những biểu hiện cụ thể của loại thể
truyện ngắn hiện đại sau 1975 có những điểm khác so với loại thể của các TP trước đó. Ví dụ:
truyện ngắn hiện đại này thường chú ý đến diễn biến nội tâm nhân vật hơn là sự kiện bên ngoài, tạo
nên những TP “phi cốt truyện”; thường thay đổi điểm nhìn trần thuật, chú trọng độc thoại nội tâm,
tạo nhiều giọng điệu, mở rộng sự xâm nhập của nhiều thể loại văn học và loại hình nghệ thuật khác.
Trong tình huống này, hình thức hỏi - đáp kèm lời diễn giảng của GV sẽ giúp HS nắm chắc
vấn đề loại thể.
* Cốt truyện:
Khi đặt vấn đề về ý nghĩa của cốt truyện, GV có thể nêu câu hỏi: câu chuyện ấy đã thể hiện
đề tài và cảm hứng sáng tác của Nguyễn Minh Châu như thế nào? HS thảo luận nhóm đôi và một
số HS trình bày ý kiến trước lớp, GV diễn giảng thêm giúp HS nhận thức vấn đề.
* Tình huống truyện:
- Về tình huống truyện, HS đã được tìm hiểu ở một số TP như Chữ người tử tù (Nguyễn
Tuân), Vi hành (Nguyễn Ái Quốc), Vợ nhặt (Kim Lân),… GV yêu cầu HS nhắc lại khái niệm tình
huống truyện để bắt vào tìm hiểu tình huống truyện của Chiếc thuyền ngoài xa. (NVĐ kiểu kiểm
tra). Có thể HS trình bày cách hiểu chưa đầy đủ hoặc thiếu chính xác, nhân đó, GV diễn giảng
thêm để giúp HS nắm chắc một khái niệm lí luận từ đó vận dụng vào tác phẩm cụ thể.
- GV có thể NVĐ trực tiếp: Từ cách hiểu khái niệm tình huống truyện và căn cứ vào các tình
tiết trong truyện, hãy phân tích tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa? Nếu chỉ có thế HS sẽ bị
“tắc đường” và dễ mất hứng thú. Cho nên, GV cần tiếp tục NVĐ kiểu phân giải với các câu hỏi:
Loại tình huống gì? Các chi tiết, tình tiết tạo nên tình huống? Hiệu quả nghệ thuật của tình huống đó
trong việc bộc lộ tính cách nhân vật, phát triển cốt truyện, thể hiện chủ đề TP? Tiếp sau là việc tổ
chức cho HS giải quyết vấn đề bằng hình thức thảo luận nhóm.
- Có thể trong quá trình thảo luận và trình bày ý kiến, HS nêu đó là tình huống nghịch lí. GV
xem đó một tình huống để bắc sang nội dung cần đạt: Nói như thế không sai, nhưng cần nêu rõ tác
giả xây dựng tình huống nghịch lí làm nổi bật tình huống chung là tình huống nhận thức - nhận thức
con người và cuộc sống (Có thể liên hệ tình huống nghịch lí trong Bến quê, Bức tranh). Nghịch lí ở
đây là đằng sau vẻ đẹp thơ mộng của cảnh thuyền trong biển mờ sương là cảnh bạo hành gia đình;
người đàn bà bị đánh mà không hề chống trả lại, không chịu bỏ chồng…
* Nhân vật người đàn bà hàng chài:
- GV NVĐ kiểu khái quát thành một đề tài có kèm hệ thống câu hỏi gợi ý và tổ chức cho HS
thuyết trình: “Hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài”.
Phương pháp HS thuyết trình có bản chất gần với phương pháp “Học qua dạy” (Learning by
Teaching): “Phương pháp này chủ trương HS tự tìm hiểu (nghiên cứu) tài liệu ở nhà, sau đó đến lớp
trình bày lại kết quả tìm hiểu của mình trước lớp (thay việc thầy cô giáo giảng bài), những HS khác
nghe và nêu câu hỏi, tranh luận (chứng minh, bác bỏ) để cùng rút những kết luận chung của cả tập
thể”. [24, tr 95]
- Ở lớp, tuỳ theo điều kiện thời gian, GV tổ chức cho một số HS trình bày sản phẩm của
mình, các HS khác phản biện. Trong quá trình trao đổi, có thể HS có những ý kiến thắc mắc. Ví
dụ: Tại sao nhân vật người đàn bà không có tên? Bị chồng đánh tàn bạo như thế mà người đàn bà có
sức chịu đựng được?... GV lấy đó làm tình huống có vấn đề để NVĐ theo kiểu hỏi lại, HS tiếp tục
bàn bạc để đi đến nhận thức theo mục tiêu cần đạt.
- GV có thể kết hợp nhiều hình thức NVĐ để giúp HS tìm hiểu hình tượng nhân vật người
đàn bà hàng chài:
+ NVĐ kiểu tái hiện kết hợp với kiểu suy lí để nhận biết đặc điểm ngoại hình và phát hiện về
số phận, tính cách ở bên trong ngoại hình ấy.
+ Tiếp tục tìm hiểu tính cách người đàn bà qua cách ứng xử của chị ở ngoài bãi biển và ở toà
án, GV NVĐ theo kiểu giả định hoặc cho HS hoá thân vào nhân vật để hiểu nghĩa lí của sự cam
chịu của người đàn bà:
. Giả sử là người đàn bà hàng chài bị chồng đánh như thế, anh/ chị sẽ phản ứng như thế nào?
Vì sao? Từ đó cho thấy nghĩa lí của cách hành xử của người đàn bà hàng chài như thế nào?
. Giả sử được trực tiếp gặp gỡ người đàn bà ở toà án cùng với Đẩu và Phùng, anh/ chị hãy
phát biểu cảm nghĩ của mình về câu chuyện của người đàn bà ấy?...
Sự thay đổi linh hoạt các cách NVĐ như thế giúp cho giờ dạy học sinh động, HS thật sự bị “cuốn”
vào bài học.
* Nhân vật người đàn ông hàng chài:
- GV có thể NVĐ kiểu trao đổi (hay đàm thoại ơrixtic). Hình thức NVĐ như thế này tạo
không khí dân chủ, thân thiện trong lớp học, HS từ chỗ dựa dẫm vào GV giải đáp sang tư duy độc
lập, từ đó thúc đẩy nhanh quá trình nhận thức:
+ Người đàn ông hàng chài xuất hiện như thế nào? Sự xuất hiện đó gây ấn tượng gì về ngoại
hình, về hành vi?
+ Tính cách của người đàn ông được khắc hoạ qua những điểm nhìn nào? GV gợi ý tiếp:
Cách nhìn nhận gã chồng vũ phu của người đàn bà hàng chài có gì khác so với cách nhìn nhận và
thái độ của Đẩu, Phùng và bé Phác? Nhận xét chung về tính cách người đàn ông?
- Trong quá trình đàm thoại, có thể HS tự phát đưa ra ý kiến: Tại sao người đàn ông không
dùng cách nào khác để giải quyết bi kịch của mình mà trút nỗi bực dọc vào việc đánh vợ rất tàn
nhẫn? GV dùng tình huống này để đặt thành vấn đề hỏi lại HS (NVĐ kiểu hỏi lại) và tổ chức cho
HS đàm thoại với nhau để đi đến nhận thức vấn đề sâu sắc hơn.
* Nhân vật Phác:
- GV có thể giúp HS phát hiện vấn đề bằng nhiều cách:
+ Nêu cảm nghĩ về hành vi của Phác đối với bố?
+ Hoá thân vào nhân vật để nêu cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật Phác khi thấy mẹ bị bố
hành hạ, sau hành động đánh lại bố và lúc lau nước mắt cho mẹ.
+ Hãy tưởng tượng cách ứng xử khác của Phác khi thấy mẹ bị bố đánh tàn nhẫn.
+ Suy nghĩ về nạn bạo hành gia đình.
- Hoặc GV giao đề tài và tổ chức cho HS đóng vai để nói lên tiếng nói tự bên trong của nhân
vật.
* Nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng:
- Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng:
GV NVĐ theo kiểu khái quát và tổ chức cho HS thảo luận nhóm: Phân tích hai phát hiện
của người nghệ sĩ nhiếp ảnh?
Khi các nhóm tiến hành thảo luận, GV NVĐ kiểu phân tích:
+ Phát hiện thứ nhất là gì? Cảm nhận của người nghệ sĩ trước cảnh ấy như thế nào?
+ Phát hiện thứ hai là gì? Động thái của người nghệ sĩ trước cảnh ấy như thế nào?
+ Đặt hai cảnh tượng trái ngược liền kề nhau, tác giả muốn người đọc nhận thức gì về mối
quan hệ giữa nghệ thuật cuộc đời?
+ Từ đó cho thấy Nguyễn Minh Châu có sự kế tục Nam Cao như thế nào? Hoặc GV sử
dụng cách thức NVĐ kiểu chuỗi xích và tổ chức đàm thoại với hệ thống câu hỏi:
+ Phát hiện thứ nhất của người nhiếp ảnh là cảnh gì?
+ Chọn lọc một số chi tiết để tái hiện lại cảnh ấy?
+ Người nghệ sĩ nhiếp ảnh gọi cảnh đó là gì? Tại sao gọi như thế?
+ Cảm nhận của người nhiếp ảnh trước cảnh ấy như thế nào? Hãy hoá thân vào nhân vật
Phùng để nói lên cảm xúc của người nghệ sĩ lúc ấy.
+ Chính lúc tâm hồn thăng hoa, người nhiếp ảnh đã phát hiện điều gì?
+ Động thái của người nhiếp ảnh khi chứng kiến cảnh ấy? Hãy hoá thân vào nhân vật Phùng
nói lên cảm xúc khi chứng kiến cảnh bạo hành ấy.
+ Qua hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, tác giả muốn người đọc nhận thức gì về cách nhìn
cuộc sống và mối quan hệ giữa nghệ thuật cuộc đời?
+ Từ đó cho thấy Nguyễn Minh Châu có sự kế tục Nam Cao như thế nào?
- Sự “vỡ ra” của Phùng sau khi nghe câu chuyện của người đàn bà ở toà án:
GV NVĐ trực tiếp: Sự biến chuyển trong nhận thức của Phùng sau khi nghe câu chuyện của
người đàn bà ở toà án? Anh/ chị hãy lưu ý đường dây tình tiết: Hành động tấn công gã đàn ông khi
lần thứ hai chứng kiến cảnh gã này đánh vợ - Trạng thái “choáng váng” khi nghe câu chuyện của
người đàn bà ở toà án - Hành động đi tìm bé Phác ở cuối truyện?
- GV nêu vấn đề kiểu suy lí giúp HS suy nghĩ sâu hơn, cảm nhận sâu sắc hơn ý nghĩa sự gợi
ra của hình tượng nghệ thuật: Qua nhân vật Phùng, tác giả gửi đến người đọc thông điệp gì?
HS tư duy và trao đổi với GV hoặc các bạn trong lớp để quyết định ý tưởng.
* Chánh án Đẩu:
- GV NVĐ kiểu phỏng đoán với mục đích kích thích HS tư duy để tìm kết quả, đồng thời có
thể kiểm nghiệm kết quả ngay lập tức: “Kết quả buổi “làm việc” của chánh án Đẩu và người đàn bà
hàng chài ra sao?”. Kết quả phỏng đoán được kiểm nghiệm theo hệ thống hỏi - đáp:
+ Đẩu mời người đàn bà đến tòa án nhằm mục đích gì?
+ Đẩu có thái độ như thế nào trước và sau khi nghe câu chuyện của người đàn bà?
+ Anh/ chị hãy phán đoán chánh án Đẩu đang suy nghĩ những gì và đã “vỡ ra” điều gì khi
nghe xong câu chuyện của người đàn bà hàng chài?
+ Bài học rút ra từ nhân vật Đẩu là gì?
* Giá trị nhân đạo của tác phẩm:
GV NVĐ kiểu đánh giá và khái quát. Kiểu này yêu cầu HS có sự so sánh, phân tích, bình
phẩm, thảo luận, suy ngẫm… Trong quá trình ấy, HS phải ứng dụng tổng hợp các kiến thức đã học,
vận dụng kinh nghiệm nhiều mặt, vận dụng nhiều phương thức tư duy và cả sự đắm mình trong thế
giới nghệ thuật. GV tổ chức cho HS thảo luận nhóm nhỏ và thể hiện sự nhận xét, đánh giá về TP,
cũng như sự đồng cảm, sẻ chia cùng tác giả.
Để đưa ra được lời bình về giá trị nhân đạo sâu sắc của Chiếc thuyền ngoài xa, GV yêu cầu
HS liên tưởng đến các sáng tác của Nam Cao (NVĐ kiểu so sánh).
* Những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng:
Ở nội dung này, GV có thể NVĐ theo kiểu gợi mở: trước hết là xác định những hình ảnh có ý
nghĩa biểu tượng. Sau đó phân tích ý nghĩa của những hình ảnh ấy. Tùy theo đối tượng HS và thời
lượng trên lớp mà GV hướng dẫn HS phân tích một số hình ảnh sau:
- Hình ảnh chiếc thắt lưng lính ngụy và bãi xe tăng hỏng.
- Tấm ảnh được chọn trong “bộ lịch năm ấy”.
- Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và ý nghĩa nhan đề của TP.
Ở tình huống này, HS có thể dùng phiếu học tập để trình bày ý kiến của mình.
* Nghệ thuật xây dựng cốt truyện:
- GV NVĐ trực tiếp: Anh/ chị có nhận xét gì về nghệ thuật xây dựng cốt truyện?
* Nghệ thuật trần thuật:
- Hình thức kể chuyện (người kể, điểm nhìn trần thuật):
+ GV NVĐ kiểu thăm dò: Trong truyện này, tác giả đã chọn người kể chuyện là nhân vật
Phùng, xưng “tôi”. Có ý kiến cho rằng nên để tác giả là người kể chuyện ở ngôi thứ ba “biết tuốt”
thì ý nghĩa câu chuyện sẽ sâu sắc hơn. Ý kiến anh/ chị như thế nào?
+ GV tiếp tục nêu: Có ý kiến cho rằng điểm nhìn trần thuật chỉ đặt ở nhân vật Phùng. Ý kiến
anh/ chị như thế nào?
- Giọng điệu trần thuật:
+ GV phát vấn: Anh/ chị có nhận xét gì về giọng điệu trần thuật? Hãy dẫn chứng bằng một
số đoạn tiêu biểu?
+ Để thay đổi không khí lớp học, kích thích ham muốn suy nghĩ và phát biểu ý kiến của HS,
GV NVĐ kiểu sai lệch cố ý: Về giọng điệu trần thuật, chúng ta có thể nhận xét rằng giọng điệu chủ
chốt của truyện là giọng sử thi hào hùng. Anh/ chị có thể đưa dẫn chứng bằng một số đoạn văn?
Bằng cách đối thoại trực tiếp này, GV vừa kiểm tra kiến thức cũ của HS, vừa giúp HS hiểu
biết chính xác nội dung bài học…
* Nghệ thuật ngôn ngữ:
- GV NVĐ trực tiếp: Anh/ chị có nhận xét gì về ngôn ngữ của TP (gồm ngôn ngữ tác giả và
ngôn ngữ nhân vật)?
* Tổng kết bài học:
GV NVĐ kiểu đánh giá: thưởng thức, xem xét, bình luận về các giá trị của TP. Phương thức
đánh giá có thể là so sánh, phân tích, bình phẩm, cũng có thể thảo luận hoặc suy ngẫm. Trong quá
trình hỏi - đáp, HS phải vận dụng tổng hợp các kiến thức đã học, vận dụng kinh nghiệm nhiều mặt,
vận dụng nhiều phương thức tư duy khác nhau để suy nghĩ độc lập. Khi giải đáp vấn đề, HS có thể
lồng vào cảm nhận của mình nên ít nhiều thường mang màu sắc chủ quan. Điều này phù hợp với
đặc trưng của giờ học tác phẩm văn chương.
CHƯƠNG 3
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM VÀ ĐÁNH GIÁ
KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
3.1. Thực nghiệm sư phạm
3.1.1. Mục đích yêu cầu thực nghiệm.
Mục đích thực nghiệm là chúng tôi muốn kiểm tra tính khả thi của các vấn đề nêu ra trong
luận văn, để qua đó kiểm nghiệm, đánh giá khả năng ứng dụng của phương thức DHNVĐ từ những
giả thuyết khoa học do đề tài đề xuất. Trên cơ sở đó đối chiếu với kết quả lớp đối chứng để xác định
tính đúng đắn và mức độ thành công của đề tài.
3.1.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm
- Chúng tôi chọn HS lớp 12 thuộc ban cơ bản ở 3 trường THPT Tân An, THPT Lê Quí Đôn,
THPT Hùng Vương trên địa bàn tỉnh Long An.
- Mỗi trường, chúng tôi chọn 4 lớp, 2 lớp dùng để dạy thực nghiệm, 2 lớp dùng để đối chứng.
3.1.3. Kế hoạch thực nghiệm
- Thời gian thực nghiệm: học kì II năm 2009-2010 ở 3 trường THPT trên địa bàn tỉnh Long
An đã nêu trên.
- Bài thực nghiệm Chiếc thuyền ngoài xa được phân phối ở tiết 73, 74, 75 (chương trình
chuẩn)
- GV thực nghiệm được đào tạo cơ bản, có ý thức trách nhiệm trong dạy học.
3.1.4. Tổ chức dạy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHPPDH023.pdf