MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ 8
1.1. Một số khái niệm 8
1.2. Quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hoá 25
1.3. Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá 44
Chương 2: GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HOÁ DÂN TỘC Ê ĐÊ Ở ĐẮK LẮK THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 48
2.1. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước (ở Trung ương và địa phương) về giữ gìn, phát huy di sản văn hoá dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay 48
2.2. Khái quát về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội của dân tộc Ê Đê ở ĐắkLắk 57
2.3. Thực trạng văn hoá dân tộc Ê Đê ở ĐắkLắk hiện nay 64
2.4. Những giải pháp và kiến nghị nhằm giữ gìn và phát huy di sản văn hoá Ê Đê ở ĐắkLắk giai đoạn 2010-2015 91
KẾT LUẬN 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
PHỤ LỤC 106
108 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3034 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá vào việc giữ gìn và phát huy di sản văn hoá của dân tộc Êđê ở Đắk Lắk trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và hình thức dân tộc (1960). Trong thời kỳ đổi mới (1986) Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới, đặc biệt là đổi mới tư duy trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hoá. Tiếp nối những văn kiện văn hoá đã được công bố trước đây, Bộ Chính trị - Ban chấp hành Trung ương khoá VI ra Nghị quyết 05 chuyên về văn hoá văn nghệ (11-1987)… Quan điểm của Đảng về văn hoá cũng đã được thể chế hoá trong Hiến Pháp 1992 của nước ta (từ điều 30 đến điều 34). Tháng 01-1993, Ban chấp hành Trung ương khoá VII họp Hội nghị lần thứ tư dành riêng một nghị quyết về một số nhiệm vụ văn hoá văn nghệ trong những năm trước mắt. Nghị quyết Hội nghị khẳng định “văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế- xã hội”. Tháng 7 năm 1998, Ban chấp hành trung ương khoá VIII họp Hội nghị lần thứ năm ra nghị quyết về: “xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết đã đề cập một cách toàn diện những nhiệm vụ và giải pháp vừa cụ thể, vừa mang tính lý luận, định hướng lâu dài, trong đó nhấn mạnh việc coi trọng, bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII thực sự là một sản phẩm trí tuệ của toàn Đảng, phản ánh ý nguyện toàn dân, ở diện rộng, chiều sâu và tầm cỡ lớn lao hơn.
Tóm lại: Những thành công trong công cuộc đổi mới của chúng ta hôm nay được bắt nguồn từ những đóng góp to lớn của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh. Nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc mà chúng ta đang xây dựng - nền tảng tinh thần, yếu tố nội sinh và là động lực, mục tiêu của xã hội ta hôm nay cũng có nguồn gốc và nền tảng tư tưởng là tư tưởng Hồ Chí Minh. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã - đang - sẽ mãi là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động của Đảng ta, là nhân tố quan trọng góp phần đảm bảo cho sự thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Chương 2
Giữ Gìn Và Phát HUY DI Sản VĂN Hoá DÂN Tộc Ê ĐÊở ĐAKLAK THEO TƯ Tưởng Hồ Chí MINH TRONG GIAI Đoạn Hiện NAY
Đắk Lắk là nơi gặp gỡ của nhiều luồng dân cư, nơi giao lưu văn hoá của nhiều tộc người và là vùng đất có thành phần tộc người đông nhất ở nước ta hiện nay (44 dân tộc). Vì thế, văn hoá Đắk Lắk là bức tranh nhiều màu với những bản sắc văn hoá vô cùng phong phú và đa dạng.
Thực hiện quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về việc giữ gìn và phát huy di sản văn hoá dân tộc, các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về công tác văn hoá, trong nhiều năm qua được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Đắk Lắk đã không ngừng đẩy mạnh việc tiến hành triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác bảo tồn di sản văn hoá của các dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk, trong đó đặc biệt đáng chú ý là việc giữ gìn và phát huy di sản văn hoá dân tộc Ê đê.
2.1. Đường Lối, Chủ TRƯƠNG, Chính Sách Của Đảng, Nhà Nước (ở trung ương và địa phương) Về Giữ Gìn, Phát HUY DI Sản VĂN Hoá DÂN Tộc THEO TƯ Tưởng Hồ Chí MINH TRONG GIAI Đoạn Hiện NAY
Từ khi Đảng khởi xướng sự nghiệp đổi mới đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc được đặt ra một cách cấp thiết trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. ý thức được vị trí, vai trò ngày càng cấp thiết của văn hoá gắn với phát triển, đồng thời thấy rõ mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hoá mới theo kịp yêu cầu thời đại, từ Đại Hội VII, Đảng ta đã đề ra mục tiêu đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò của văn hoá, coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế - xã hội, gắn liền với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với ý thức đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã rất chú trọng đến việc chăm lo phát triển nguồn lực con người, phát triển khoa học và công nghệ; giáo dục và đào tạo; xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Trong Báo cáo chính trị, Đảng tiếp tục phát triển quan niệm, vai trò của văn hoá trong phát triển kinh tế - xã hội. Báo cáo nhấn mạnh vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, di sản văn hoá và mở rộng giao lưu quốc tế. Tại Đại hội, Đảng chủ trương tăng cường mạng lưới văn hoá cơ sở, phát triển mọi giá trị văn hoá của các dân tộc trên đất nước nhằm tạo ra tính đa dạng, phong phú trong sự thống nhất của nền văn hoá Việt Nam. Để thực hiện được điều đó, Đảng đề ra chủ trương nâng cao hiểu biết và mức độ hưởng thụ văn hoá cho nhân dân, phát triển mạng lưới thông tin và các loại hình nghệ thuật đảm bảo dân chủ, tự do sáng tạo và hoạt động văn hoá; xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Dựa trên những định hướng về văn hoá được đề ra tại Đại hội Đảng lần thứ VIII và những Nghị quyết trước đó, tiếp thu những quan điểm mới về phát triển văn hoá của thế giới, tháng 7 - 1998, Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá VIII diễn ra với chủ đề “xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Tại Hội nghị, lần đầu tiên Đảng ta quan niệm văn hoá theo nghĩa rộng, đề ra 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản:
- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất và đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
- Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó có đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
- Văn hoá là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Hội nghị cũng đã đề ra 10 nhiệm vụ cụ thể, trong đó có nhiệm vụ về “bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá ” và “bảo tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số ”.
Nghị quyết Trung ương năm (khoá VIII) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì nó đã liên kết tất cả các nghị quyết khác của khoá VIII thành một chiến lược phát triển toàn diện đất nước theo hướng chỉnh thể hữu cơ, như một hệ thống chiến lược chặt chẽ, hoàn chỉnh và lâu dài, đã tập hợp những luận điểm lớn của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam theo hướng “tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.
Có thể nói, sau Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943, Nghị quyết Trung ương năm khoá VIII của Đảng được coi là sự đánh giá, tổng kết và đưa ra những kiến giải lớn của Đảng, hoạch định xu hướng phát triển nền văn hoá Việt Nam đương đại trong thế giới hội nhập và toàn cầu hoá, phù hợp với nguyện vọng của toàn dân.
Nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương năm của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, ngày 17-09-1998, Chính phủ đã ban hành chương trình hành động số 1109/ CP- PC, trong đó có đề án bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá dân tộc. Đề án chủ yếu tập trung vào vấn đề cốt lõi:
- Xây dựng phương án bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá vật thể, phi vật thể bao gồm các di sản văn hoá dân gian truyền thống, chú trọng các di sản văn hoá quốc gia, di sản văn hoá được UNESCO công nhận, di sản cách mạng tiêu biểu và di sản, cảnh quan thiên nhiên môi trường.
- Tiến hành tổng điều tra di sản văn hoá, từng bước qui hoạch có phương thức bảo tồn và biện pháp quản lý.
- Có chương trình phiên dịch, giới thiệu kịp thời kho tàng văn hoá Hán - Nôm.
- Tiếp tục triển khai chương trình về văn hoá với 4 mục tiêu: Chống xuống cấp và tôn tạo các di tích lịch sử; phát triển điện ảnh Việt Nam; phát triển văn hoá, thông tin cơ sở ở vùng cao, vùng xa, vùng sâu, điều tra sưu tầm, nghiên cứu và phát huy vốn văn hoá dân tộc (văn hoá phi vật thể).
Ngày 03-12-1998, Thủ tướng chính phủ ban hành chỉ thị số 39/1998/CT-TTg “về việc đẩy mạnh công tác văn hoá - thông tin ở miền núi và vùng đồng bào các dân tộc thiểu số” nhằm chống nguy cơ tụt hậu và bảo tồn bản sắc văn hoá như Nghị quyết Trung ương năm đã chỉ ra trong bối cảnh mới của đất nước. Chỉ thị khẳng định:
Làm tốt hơn nữa công tác giữ gìn và phát huy tinh hoa văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số. Đồng thời với việc sưu tầm, nghiên cứu, khai thác và giới thiệu, cần có kế hoạch bảo tồn các công trình, địa chỉ văn hoá có giá trị tiêu biểu ở vùng các dân tộc thiểu số (như: chùa, tháp, nhà rông, nhà dài, nhà sàn, các làng, bản có nghề thủ công truyền thống…) và các di sản văn hoá có giá trị khác.
Tổ chức nghiên cứu, cải tiến, giúp đỡ để phát triển các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống của các dân tộc thiểu số theo hướng sản xuất hàng hoá, gắn liền với du lịch. Vận động đồng bào dân tộc thiểu số giữ gìn và sử dụng trang phục truyền thống, tổ chức giới thiệu các sản phẩm mang tính văn hoá để bảo tồn tinh hoa văn hoá các dân tộc [11, tr.24-25].
Ngày 4-5-2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành số 71/2001/QĐ-TTg về các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2001-2005, nội dung nhóm dự án bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá tiêu biểu của dân tộc gồm:
- Dự án chống xuống cấp và tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng và kháng chiến.
- Dự án nghiên cứu, điều tra bảo tồn một số làng bản, buôn tiêu biểu và lễ hội truyền thống đặc sắc của các dân tộc ít người.
- Dự án sưu tầm và bảo tồn các giá trị phi vật thể tiêu biểu, xây dựng ngân hàng dữ liệu về văn hoá phi vật thể [11, tr.29].
Ngày 19-05-2001,Chính phủ có tờ trình số 421/CP-PC về dự án Luật Di sản văn hoá gửi Quốc hội khoá X, nêu rõ sự cần thiết phải xây dựng Luật Di sản văn hoá, là chất liệu gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, là cơ sở để sáng tạo những giá trị tinh thần mới và giao lưu văn hoá. Trong những năm qua, Nhà nước và nhân dân ta đã có nhiều hoạt động nhằm bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hoá thiêng liêng của cha ông, góp phần to lớn vào việc bảo vệ và xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Từ sau cách mạng tháng Tám thành công đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp qui có liên quan đến công tác bảo vệ các di sản văn hoá dân tộc, tuy nhiên, trên thực tế các văn bản này còn một số hạn chế, chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trong tình trạng mới. Pháp lệnh “Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh” năm 1984 chỉ điều chỉnh đối tượng di sản văn hoá dưới dạng vật thể, vì vậy chưa đáp ứng yêu cầu như Nghị quyết Trung ương năm khoá VIII đã nêu ra: “Chính sách bảo tồn, phát huy di sản văn hoá dân tộc hướng cả vào văn hoá vật thể và phi vật thể” [16, tr.75]. Do đó, việc điều chỉnh các văn bản pháp luật hiện hành, xây dựng một đạo luật mới về di sản văn hoá có tính chất pháp lý cao là hết sức cần thiết.
Luật Di sản văn hoá đã được thông qua tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá X nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 12- 7- 2001, do Chủ tịch nước đã ký quyết định công bố ban hành. Luật Di sản văn hoá ra đời đã thể chế hoá các đường lối, quan điểm của Đảng, cụ thể hoá các chủ trương, chính sách của Nhà nước về bảo tồn, phát huy di sản văn hoá dân tộc, nêu rõ các quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân, chủ sở hữu đối với các di sản văn hoá, nguồn lực và phân cấp quản lý Nhà nước về di sản văn hoá. Luật di sản văn hoá đã tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy di sản văn hoá dân tộc
Ngày 17-6-2003, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 124/2003/QĐ-TTg về phê duyệt đề án “Bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam”. Nội dung của đề án tập trung chủ yếu vào việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số Việt Nam từ 2003 đến 2010.
Có thể nói, những năm đầu thế kỷ XXI, các vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc được sự quan tâm to lớn của Đảng và Nhà nước thông qua việc ban hành các văn bản pháp qui, trong đó 4 sự kiện lớn có ý nghĩa quan trọng, góp phần thúc đẩy việc bảo tồn, phát huy di sản văn hoá dân tộc là: Luật di sản văn hoá (2001), thành lập hội di sản văn hoá Việt Nam (26-6-2004) ngày 24-2-2005, Thủ tướng Chính phủ có quyết định số 36/2005/QĐ-TTg về việc lấy ngày 23 tháng 11 hàng năm là ngày Di sản văn hoá Việt Nam và ngày 23 tháng 11 năm 2005, lần đầu tiên nước ta tổ chức lễ kỷ niệm ngày di sản văn hoá Việt Nam. Đây là ngày hội lớn chưa có tiền lệ nhằm tôn vinh những truyền thống quý giá của dân tộc.
Đối với vùng Tây Nguyên, Đảng và Nhà nước đã có những quan tâm lớn trong việc chăm lo, phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân, đặc biệt là việc bảo tồn các di sản văn hoá trước nguy cơ bị mai một trong giai đoạn hiện nay. Ngày 30 tháng 10 năm 2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 168/2001/QĐ - TTg về việc định hướng dài hạn, kế hoạch 5 năm 2001- 2005 và những giải pháp cơ bản phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên, trong đó nêu rõ: “Tăng cường kinh phí cho việc thực hiện chương trình văn hoá và đưa sách báo xuống tận buôn, xã, làng, công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, kể cả văn hoá vật thể và phi vật thể” [11, tr.30].
Sự kiện đáng quan tâm hơn cả trong toàn vùng Tây Nguyên là ngày 27- 2-2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 25/ 2004/QĐ - TTg về việc phê duyệt đề án “Phát triển hoạt động văn hoá - thông tin vùng Tây Nguyên đến 2010”. Trong mục tiêu đề án có ghi: Bảo tồn, kế thừa có chọn lọc, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống và các giá trị văn hoá tiêu biểu, loại bỏ dần những cái lỗi thời lạc hậu và phát triển về văn hoá, nghệ thuật; hình thành nếp sống văn minh, gia đình văn hoá mới vùng Tây Nguyên … tổ chức điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến các giá trị văn hoá - nghệ thuật; bảo tồn, phát huy nghề thủ công truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên.
Một sự kiện vô cùng quan trọng có ý nghĩa to lớn và sâu sắc đối với người dân Tây Nguyên đó là ngày 25-11-2005, Tổng Giám đốc UNESCO, ông KoiChiro Matsuura đã tuyên bố và công nhận "Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên của Việt Nam là kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại”. Tháng 3 năm 2006, người dân Tây Nguyên đã nô nức, hồ hởi, phấn khởi đón nhận bằng công nhận bằng di sản văn hoá của UNESCO tại thành phố PLEIKU. Điều này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến di sản văn hoá cồng chiêng của các dân tộc Tây Nguyên và các vùng phụ cận.
Đối với Đắk Lắk, việc bảo tồn các di sản văn hoá dân tộc đã được các cấp uỷ Đảng và chính quyền hết sức chú ý quan tâm và đã có nhiều qui định cụ thể. Ngày 21-04-1994, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành Chỉ thị số 08/ CT-UB về việc bảo tồn văn hoá cồng chiêng. Sau khi nêu rõ những giá trị của cồng chiêng và nguy cơ bị mai một, “chảy máu” cồng chiêng, Chỉ thị nêu rõ trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã trong việc quản lý, chỉ đạo việc bảo tồn cồng chiêng từ cơ sở, đồng thời đề ra các biện pháp ngăn chặn, xử lý việc mua bán cồng chiêng và có kế hoạch chăm lo giúp đỡ đồng bào giữ gìn các di sản văn hoá dân tộc… Tổ chức tuyên truyền giáo dục sâu rộng trong đồng bào các dân tộc từ ý thức bảo tồn cồng chiêng đến việc tổ chức đời sống văn hoá và vật chất đối với đồng bào các dân tộc.
Ngày 12-05-1998, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk ban hành Chỉ thị số 16/ 1998/ CT- UB về việc tăng cường công tác bảo vệ các di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh. Chỉ thị nêu rõ ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ trong việc bảo vệ các di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh đối với mọi công dân, các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội… Đồng thời các cấp chính quyền phải có biện pháp tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến mọi tầng lớp nhân dân chấp hành tốt Pháp lệnh Bảo vệ và Sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng đã được Chủ tịch nước ban hành ngày 4- 4- 1984. Nghiêm cấm việc sử dụng các di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh sai mục đích và các hoạt động phi văn hoá, mê tín dị đoan.
Nhằm triển khai Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII về “xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tỉnh uỷ Đắk Lắk đã ban hành Chương trình số 70 CTr/ TU ngày 12-12-1998, trong đó có 1 trong 7 nội dung lớn để đưa Nghị quyết Trung ương năm vào cuộc sống là:
Bảo tồn và phát huy văn hoá vật thể:
- Xúc tiến tổng điều tra các di tích, danh lam thắng cảnh trong toàn tỉnh; tổng hợp, phân loại và lập hồ sơ di tích.
- Tổ chức quản lý chặt chẽ các di tích quốc gia, bảo vệ tốt môi trường, cảnh quan các danh thắng.
- Tôn tạo, trùng tu các di tích. Tổ chức nhiều loại hình hoạt động giáo dục truyền thống và phục vụ nhu cầu tham quan, du lịch giải trí tại các di tích.
- Sưu tầm các hiện vật văn hoá truyền thống của các dân tộc, tổ chức trưng bày ở bảo tàng văn hoá dân tộc, phục vụ tham quan và nghiên cứu văn hoá.
- Xây dựng Sa bàn chiến thắng Buôn Ma Thuột xứng đáng với ý nghĩa và tầm vóc của chiến thắng này đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ.
- Giáo dục ý thức bảo tồn di sản văn hoá dân tộc cho toàn dân; biểu dương khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích giữ gìn tốt các di tích, cổ vật có giá trị và kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp xâm hại di tích.
Sưu tầm, nghiên cứu văn hoá phi vật thể.
- Lập trương trình tổng kiểm kê các di sản văn hoá phi vật thể của các dân tộc trong tỉnh, bao gồm: văn học nghệ thuật dân gian, lễ hội, phong tục tập quán, nghệ nhân… tổ chức nghiên cứu khoa học văn hoá nghệ thuật các dân tộc thiểu số nhất là sưu tầm, khai thác và phát huy kho tàng sử thi của các dân tộc bản địa và nền âm nhạc đặc sắc của dân tộc Êđê.
- Tổ chức tốt việc lưu giữ và giới thiệu văn hoá truyền thống của các dân tộc.
- Phục hồi, phát triển nghề thủ công, mỹ nghệ dân tộc như dệt thổ cẩm, đồ gốm, chạm khắc gỗ, chế tác nhạc cụ… hết sức coi trọng việc truyền nghề cho các lớp trẻ để giữ gìn được lâu dài.
- Tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh chữ viết các dân tộc thiểu số trước hết là ngôn ngữ của dân tộc Êđê, M’nông. Đẩy mạnh việc dạy tiếng dân tộc Êđê, M’nông cho con em đồng bào dân tộc; có chế độ khuyến khích cán bộ, công chức người Kinh và các dân tộc khác, sử dụng ngôn ngữ Êđê, M’nông. Tổ chức tốt hơn, rộng hơn việc sử dụng tiếng dân tộc Êđê, M’nông trên các phương tiện thông tin đại chúng trong tỉnh.
Đặc biệt, ngày 18-12-2006, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành chỉ thị số 25/ 2006/ CT- UBND về việc bảo tồn, phát huy di sản văn hoá các dân tộc ở Đắk Lắk, trong đó vừa đánh giá khái quát tình hình, vừa đề ra những nhiệm vụ, giải pháp bảo tồn di sản văn hoá trong bối cảnh của giai đoạn cách mạng mới.
Để bảo tồn, phát huy di sản văn hoá các dân tộc ở Đắk Lắk theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Chỉ thị nêu rõ: Uỷ ban nhân dân các huyện, thành phố Buôn Ma Thuột tăng cường chỉ đạo, tuyên truyền sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân thực hiện Luật Di sản văn hoá, Nghị định số 92/2002/ NĐ - CP ngày 11-11-2002 của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành một số điều của Luật Di Sản văn hoá; có chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo tồn, phát huy di sản văn hoá các dân tộc.
Thực hiện công văn số 4350/ BVHTTDL - DSVH ngày 24-12-2008 của Bộ văn hoá, thể thao và du lịch về việc đánh giá hiệu quả thực tiễn của Luật Di Sản văn hoá; Công văn số 577/ VH-GD-TTN ngày 16-1-2009 của Uỷ ban văn hoá, giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng. Ngày 23-1-2009 (số 13/BC-UBND), Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã tiến hành tổng kết, đánh giá hiệu quả thực tiễn của Luật Di sản văn hoá giai đoạn 2002-2008. Báo cáo nêu rõ những thành tựu và hạn chế của việc bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hoá phi vật thể và văn hoá vật thể đối với các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân, đồng bào các dân tộc bản địa trong việc giữ gìn và phát huy những di sản văn hoá các dân tộc trong tỉnh. Đồng thời, đề xuất những kiến nghị với Bộ văn hoá, Thể thao và du lịch về việc lập hồ sơ trình UNESCO công nhận: Sử thi Tây Nguyên là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định: Đường lối, Chủ trương, Chính sách của Đảng và Nhà nước về việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá từ 1996 đến nay, trên thực tế đã tạo thành một hành lang pháp lý cho công tác quản lý Nhà nước ở Trung ương và địa phương, từ đó góp phần ngăn chặn kịp thời các nguy cơ huỷ hoại di sản văn hoá, xây dựng trái phép, lấn chiếm đất đai thuộc di tích lịch sử văn hoá, danh lam thắng cảnh… Đồng thời phát huy, khuyến khích, tạo điều kiện cho các tập thể, cá nhân tiến hành hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, xuất bản, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu các di sản văn hoá các dân tộc đến cộng đồng bằng nhiều hình thức khác nhau thông qua các phương tiện thông tin đại chúng nhằm giáo dục, tuyên truyền ý thức tích cực, tự giác của nhân dân trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.
2.2. Khái Quát Về Vị Trí Địa Lý, Điều Kiện Tự NHIÊN KINH Tế- Xã Hội Của DÂN Tộc ÊĐÊ ở ĐắKLắK
2.2.1. Về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Đắk Lắk nằm ở phía Nam Tây Nguyên, là Cao Nguyên rộng lớn và có địa hình tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình 500m so với mặt nước nước biển. Phía Bắc giáp với tỉnh Gia Lai- Kon Tum, phía Nam giáp với tỉnh Lâm Đồng- Bình Phước, phía Tây giáp với Campuchia, phía Đông giáp với Phú Yên- Khánh Hoà.
Đắk Lắk là một trong những Cao Nguyên giàu đẹp, sông suối hùng vĩ với nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Hồ Lăk, Thác Bảy Nhánh ở Buôn Đôn, Thác Draisáp, Thác Trinh Nữ, Thác DraiNu,… và nhiều khu rừng nguyên sinh độc đáo với diện tích tự nhiên là: 13.125,37km2. Rừng Đắk Lắk có diện tích và trữ lượng lớn nhất nước ta với nhiều chủng loại gỗ quý hiếm, nhiều loại cây đặc sản vừa có giá trị kinh tế, vừa có giá trị khoa học…
Đắk Lắk từ chỗ chỉ có trên 36 vạn người (sau 1975) đến nay đã có 1.759.411 người (theo số liệu năm 2007) bao gồm 44 dân tộc anh em cùng chung sống. Trong đó dân tộc Êđê là cư dân bản địa đã từng sinh sống trên Cao Nguyên Đắk Lắk từ lâu đời chiếm 10,2% dân số toàn tỉnh.
Người Êđê có hai hệ ngôn ngữ chính là Môn - Khơ me và hệ Nam Đảo. Trong đó các dân tộc Banah, Xêđăng, M’nông, K’ho… thuộc hệ ngữ Môn- Khơme. Các dân tộc chăm, Êđê, Giarai, chủ yếu thuộc hệ ngữ Nam Đảo hay còn gọi là hệ ngôn ngữ Malayo - Polynexia. Vùng hình thành ban đầu của ngôn ngữ là hệ Anhđônêdiêng. Người Êđê xưa vốn là dân cư Malayo- Polynexia được hình thành ở vùng Đông Nam ven biển Quảng Đông- Trung Quốc vào giữa thiên niên kỷ thứ II Trước Công Nguyên, với sự chuyển biến về kinh tế - văn hoá cùng với sự phát triển dân số mỗi ngày một tăng đã dẫn đến sự di cư đến vùng Đông Nam á theo hai con đường:
Con đường thứ nhất: dọc theo bờ biển Trung Quốc sang Đài Loan đến Philippin.
Con đường thứ hai: Qua Đài Loan sang Philippin rồi từ đó xuống Inđônêxia và sang Đông Dương.
Cả bộ tộc dân cư to lớn di cư tiến vào miền Trung Việt Nam từ biển và hình thành nhóm dân cư Nam Đảo khá hùng mạnh. Sau khi họ vào miền Trung qua đường biển, cùng với thời gian và sự ảnh hưởng của nền văn hoá ấn Độ, một bộ phận lớn tiếp nhận nền văn hoá ấn Độ và lập nên một nước Chăm Pa hùng mạnh (dấu vết văn hoá đó ngày nay vẫn còn tồn tại khắp khu vực miền Trung) đủ để chuyển và lấn áp các cư dân tồn tại trước đó. Sức mạnh của văn hoá Chăm đã đẩy lùi bộ tộc còn lại (không chấp nhận văn hoá ấn) lên vùng phía Tây Trường Sơn (tức vùng Gia Lai và Đắk Lắk ngày nay). Trong quá trình thay đổi để phù hợp với môi trường sinh sống, người Êđê bỏ dần những tập quán của vùng biển để hoà hợp với môi trường mới. Tuy vậy, đến nay người Êđê vẫn còn lưu giữ những dấu ấn văn hoá về nguồn gốc của mình như mô típ ngôi nhà dài, mái nhà Rông, cầu thang cong hình mũi thuyền, các hình tượng nhà mồ…
Người Êđê ở Đắk Lắk hiện nay sống tập trung chủ yếu ở các huyện: Cưm’gar, K’rôngPach, K’rôngBuk, K’rôngBông, K’rôngNăng, Eakar, EaH’leo, M’Drak, Lăk, ở trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột, Buôn Đôn và các vùng lân cận thuộc tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Khánh Hoà…
Êđê là cộng đồng người thống nhất về ý thức tộc người, ngôn ngữ về văn hoá. Tuy nhiên, không phải vì thế mà không hàm chứa những khác biệt về thổ âm, sinh hoạt văn hoá theo từng vùng cư trú, hình thành nên những nhóm địa phương khác nhau: Êđê Kpã, ADham, M’Dhur, K’Tul, Blô, K’Rông, Bih, Êban, H’wing, Arul… với trên 30 dòng họ khác nhau định cư rải rác trên địa bàn 534 buôn của tỉnh Đắk Lắk.
Mỗi buôn đều có ranh giới riêng, được xác định bởi luật tục của các buôn với nhau. Buôn vận hành theo phương thức tự quản. Đến với các buôn làng Êđê, chúng ta sẽ cảm thụ hết được cái bao la bạt ngàn của những vùng đất đỏ bazan, cái bạt ngàn của những cánh rừng khộp, những trảng cỏ cao lút đầu, những trận gió tung bụi mịt mù vào mùa khô, những dòng sông Krôngnô (sông đực) và sông Krôngana (sông cái) hợp thành sông SêRêPôk đỏ nặng phù sa cuồn cuộn chảy vào mùa mưa, cái khô nóng đến xém cả cỏ cây kéo dài tháng 11 đến tháng 4, nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van hoan chinh 6.9.2009.doc
- Bia Luan van.doc