DẪN NHẬP .1
1. Lí do chọn đề tài .1
2. Lịch sử vấn đề.3
3. Mục đích nghiên cứu .6
4. Phạm vi nghiên cứu .6
5. Phương pháp nghiên cứu .7
5.1. Phương pháp lịch sử.8
5.2. Phương pháp hệ thống.8
5.3. Phương pháp so sánh.8
5.4. Phương pháp phân tích tổng hợp.8
5.5. Phương pháp liên ngành.9
6. Đóng góp của luận văn .10
7. Bố cục của luận văn.10
NỘI DUNG .12
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .12
1.1. Văn hóa và văn hóa tâm linh .12
1.1.1. Văn hóa.12
1.1.2. Tâm linh .14
1.1.3. Văn hóa tâm linh .18
1.2. Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong văn hóa Việt Nam.20
1.2.1. Nền văn hóa gốc nông nghiệp trồng lúa nước.21
1.2.2. Tư tưởng Nho- Phật- Đạo và các tôn giáo khác.24
1.3. Truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1932-1945 .25
1.3.1. Bối cảnh văn học 1932-1945.25
1.3.2. Thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết có yếu tố tâm linh trong văn học Việt
Nam 1932-1945.28
168 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 773 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam (1932 – 1945), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“phảng phất, lo sợ”. Trước cách xử trảm ghê người của bọn quan Tây, quan Ta
đối với những người bản xứ, trời đất cũng không thể vô tình “lúc quan Công sứ ra
về, khi lướt qua mười hai cái đầu lâu còn dính vào cổ người chết quỳ kia, giữa sân
pháp trường sắp giải tán, nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh. Thường những
lúc xuất quân bất lợi, tưởng cơn gió lốc cuốn gẫy ngọn cờ súy, cũng chỉ mạnh được
thế thôi. Trận gió soắn, hút cát bụi lên, xoay vòng quanh đám tử thi” (Chém treo
ngành – Nguyễn Tuân). Điềm báo không thể giải thích nhưng cũng không thể
không tin bởi tính xác thực của nó. Không có điềm báo nào lại không gắn với
những việc bất thường. Đó là sự bất thường xảy ra trong Khoa thi năm Mậu Ngọ,
khoa thi chữ Hán cuối cùng như một dự cảm về sự ra đi vĩnh viễn của nền Hán học
“Một thứ gió u hiển thổi thốc vào bãi trường, nghe lào xào như có tiếng các hồn
oan hồn lành chen chúc và ùa vào choáng chỗ” (Khoa thi cuối cùng – Nguyễn
Tuân). Trong truyện Cây đa ba chạc của Nguyễn Huy Nhiệm, trời đất như cảm ứng
báo cho dân làng biết sự lạ “năm Gia Long, ở làng Gía Lụa, một buổi chiều bỗng có
ráng vàng như nghệ. Từ Đông sang Tây, dải cầu vồng ngũ sắc vắt ngang” các cụ
biết là điềm sắp có gió to nhưng lạ hơn hết là gió không to... như mọi khi... mà lại
xuất hiện một ông già “râu tóc bạc phơ, chông gậy trúc đi từ phía Bắc vào làng”.
Niềm tin vạn vật hữu linh đã ăn sâu trong tâm thức, khiến con người nhìn
mọi vật đều có linh hồn. Những tín hiệu phát ra từ thế giới vô hình có thể được một
số con vật thiêng thu nhận và phát đi bằng điềm báo. Trước khi Liễu nhảy hồ sen tự
tử “bỗng đâu, xé rách đám không trung tịch mịch, một tiếng cú kêu ghê rợn rúc lên
như báo trước có sự thảm thiết sắp xảy ra”(Oan nghiệt – TCHYA Đái Đức Tuấn).
Trước bệnh tình nguy kịch của người Khách bán thuốc - người Tàu ở chữa bệnh nhà
ông Bá, ông ta nhận biết sức sống của mình chỉ còn trong giới hạn khoảnh khắc khi
“ngang giời gần sáng, lọt rơi xuống một tiếng khàn gọn của con chim lợn” cũng là
lúc ông “ sắp lên đường để đi ra hẳn cuộc đời này” (Một truyện không nên đọc lúc
giao thừa – Nguyễn Tuân). Chính quan huyện Thạch Thành cũng không thể hiểu vì
sao Chuột tha lá phủ lên mặt anh lính “hễ quan huyện lượm chiếc lá đi thì thì con
chuột lại đem một chiếc lá mới phủ lên mặt người lính ngủ”. Hiện tượng ấy chính là
71
điềm báo số anh lính đã tận. Quả thật về sau anh lính phải chết dưới vuốt hổ dữ
(Thần Hổ - TCHYA Đái Đức Tuấn). thấy “hai mắt nháy rối, vuốt mãi nó vẫn không
thuần. Rồi khi cô ăn cơm xong, vào buồng, lại một con nhện thình lình sa thẳng
xuống chỗ trước mặt” (Lều chõng – Ngô Tất Tố). Cô Ngọc không biết điềm báo
điều gì mà “hai mắt nháy rối, vuốt mãi nó vẫn không thuần. Rồi khi cô ăn cơm
xong, vào buồng, lại một con nhện thình lình sa thẳng xuống chỗ trước mặt” (Lều
chõng – Ngô Tất Tố) và đó cũng là thời khắc thay đổi cả cuộc đời cô. Tương tự như
vậy Nàng Oanh Cơ thấy “con chó vàng đến kéo áo như muốn lôi nàng quay trở lại.
Nàng ngồi ở đâu thì ở đó có nhện đen sa” là điềm báo cái chết. Cũng niềm tin ấy,
nhà sư nữ chùa Âm Hồn nói với Huyến “như đã có sự gì mách bảo: nhện sa trước
mặt tôi, một cái điềm rất xấu” (Nhà sư nữ chùa Âm Hồn – Nguyên Hồng).
Điềm báo được phát tín hiệu qua những con vật, rất phổ biến trong những
truyện đường rừng của Lan Khai. Dường như Lan Khai đã lẩn mình vào phong tục
tập quán của nhiều dân tộc thiểu số, cư trú, lao động, sinh hoạt, tín ngưỡng và
những nét tâm lý riêng và cả đời sống tâm linh của họ cũng được ông ghi lại hết sức
tinh tế. Người Dao nghe chim báng thì lo điều dữ, người Ba Na xem hướng chim
bay để xét chuyện rủi may, người Tày nghe cú kêu nghĩ đến điều bất trắc... Người
miền núi đo thời tiết bằng tiếng tắc kè, đo thời gian bằng tiếng chim khảm khắc...
Từ niềm tin ấy, Mai Kham và Dun Phăn xem điềm báo như một lời mách bảo của
thần linh “chim báng kêu luôn, trong động thế nào cũng xảy ra việc dữ. Nó muốn
nhân quẻ bói tốt mà cưới ngay em để tránh khỏi điềm không hay” ( Rừng khuya –
Lan Khai). Người thổ thấy nhiều quạ chung quanh gốc cây đa nên bảo nhau “ở
trong gốc cây đa chắc có rắn lớn” quả đúng như vậy “trên cái ngai thờ ... nằm lù lù
một đôi rắn cực lớn” xuất hiện đúng vào ngày mồng một khiến người dân quanh
vùng tin thờ Rắn Thần (Ông rắn – Đỗ Huy Nhiệm). Điềm báo đã đi vào cuộc sống
của con người tự bao giờ không thể biết được. Chỉ biết nó là một nếp mòn trong tâm
thức dân gian“cái hoa gạo nở đầu tháng giêng đã được tán là điềm tốt. Con khanh
khách kêu trên các đình giữa ngày khai hạ, cũng được tôn là tin mừng” (Lều chõng
– Ngô Tất Tố).
72
Ngoài điềm báo từ những con vật, những sự vật dường như cũng là nhịp cầu
nối giữa người sống và người chết. Hiện tượng cây đàn quái dị của Chánh Thú “đỗ
mồ hôi cứ vã ra như tắm và thùng đàn phát lên những tiếng thở dài và vật mình vật
mẩy với bức vách, cứ lủng củng suốt đêm” và khi Bá Nhỡ thắp nhang xin được nhìn
thấy cây đàn “bỗng đàn cũ nổ một tiếng tách gọn như cái tiếng nứt dọc bóng đèn
nha phiến” hình ảnh “các chân nhang đều cháy bùng lên và tàn lụi dần trên gio
bát” (Tâm sự của nước độc – trích Chùa Đàn, phần hai – Nguyễn Tuân) đã báo
trước cái chết định mệnh của Bá Nhỡ. Chú Khì đã thành người thiên cổ nhưng vẫn
có thể về đánh tổ tôm với người cõi trần qua điềm báo kì lạ “đèn tắt rồi sáng”
(Chú khì – người đánh tổ tôm vô hình – Nam Cao).
Điềm báo còn xuất phát từ thân tâm con người. Người có điềm báo tự nhiên
có những cảm giác bất thường, những cảm nhận khác lạ nhưng không biết lí do. Đó
là linh cảm. Linh cảm của bác thầy cúng khi vẳng có tiếng khóc trẻ đưa lại “tấm
lòng cha tựa hồ đoán biết có sự phi thường” (Ma Thuồng Luồng – Lan Khai). Từ
sự mách bảo của linh cảm, bác thầy cúng về nhà kịp giết con ma thuồng luồng đã
gây ra thảm trạng cho gia đình bác. Với linh cảm của người mẹ, bà Mi Nàng cảm
thấy bất an cho con gái vì “trên khuôn mặt cô Mi Nàng bà vẫn thấy cái bóng mây
buồn nó vương vít, cái nét đau khổ nó ẩn núp nó ứ chực len vào đôi mắt ươn ướt”
chưa bao giờ bà rời con nửa bước, nhưng cuộc đời dường như đã an bài, lần đầu
tiên bà để con ở một mình “nhưng trong bụng vẫn bồn chồn như sắp thấy một điều
không hay”(Tiếng hú ban đêm – Thế Lữ). Điều bà linh cảm đã xảy ra khi con hổ
quái ác đã cướp mất con bà. Đó cũng là linh cảm của Nàng Oanh Cơ trước chuyến
đi Phong Thổ định mệnh “không hiểu tại sao, nàng cảm thấy một sự gì buồn buồn
khó tả, tựa hồ báo trước cho nàng biết, nàng sắp gặp những tai nạn bất ngờ” (Ai
hát giữa rừng khuya – Tchya Đái Đức Tuấn). Nhân vật tôi cũng cảm nhận điềm báo
có chuyện chẳng lành qua cảm giác khác lạ “thế rồi một hôm đang thời kì lưu học ở
Hà Nội, tự nhiên tôi thấy nóng lòng, băn khoăn rồi bỗng nhận được dây thép... tin
Trăng chết” (Một người bạn kì dị - Đỗ Huy Nhiệm). Đó là tâm sự của một cụ già
“nhưng không hiểu tại sao chiều hai mươi tám tết tôi tự nhiên thấy bồn chồn một
73
cách lạ. Tôi nghĩ chắc có chuyện chi không may xảy ra” là điềm báo việc đến phiên
mình “hương khói” am Cô Giang, “có lẽ vì thế nên “ông bà” bắt mình nóng lòng
nóng ruột”(Làng – Kim Lân).
Điềm báo còn thông qua giấc mộng “khi tỉnh dậy thì cả ba cô đã biến đâu
mất và khi giơ vạt áo lên thì thấy đẫm mùi hoa nhài” (Câu chuyện mơ trong giấc
mộng – Nhất Linh). Đó giấc mộng báo trước số mệnh của cô gái giang hồ Giáng
Tuyết. Mùi hoa nhài còn vương mãi một kiếp người như kiếp hoa nhài bạc mệnh.
Điều đó chứng tỏ có lẽ huyền bí của thiên cơ về thân phận mỗi con người trong
cuộc đời.
Người và thần là hai thế giới khác nhau nên không thể theo lối thông thường
mà giao cảm hết được nên mới sinh ra những tục thờ cúng, cách cầu khấn, nguyện
hứa, báo mộng, báo điềm tốt xấu... Điềm báo cũng là một sợi giây vô hình để liên
lạc giữa đôi bên. Qua đó con người có những tiên liệu và phòng bị cho cuộc sống
của họ được như mong muốn. Vì thế, trong sâu thẳm tâm linh, con người rất chú ý
đến những điềm báo (điềm triệu). Họ tin đây là dấu hiệu hoặc tự nhiên hoặc vì
người hỏi mà thần dùng để tin cho người biết điều lành mà làm, điều dữ mà tránh.
Có khi thần báo mộng cho người biết qua giấc chiêm bao khi ngủ có khi thông qua
những tín hiệu từ sự vật xung quanh. Điềm báo lại càng được làm phong phú thêm
trong cuộc sống của mỗi cá nhân, cộng đồng và dân tộc mình. Điềm báo cũng là
một biểu hiện tâm linh có ý nghĩa đối với mỗi người. Thông qua những điềm báo
điều lành dữ mà con người có thể sẽ có thêm quyết tâm, động lực để thực hiện phần
việc quan trọng của mình (của cộng đồng) nếu đó là việc tốt. Ngược lại họ sẽ hành
động cẩn trọng nếu đó là những điềm xấu.
Thế giới tâm linh là nơi có khả năng phát ra những tia sáng bất ngờ. Đó là
những khả năng kỳ lạ của con người mà ngày nay khoa học rất quan tâm. Không ít
trường hợp, con người có “linh tính” trước khi xảy ra những việc hệ trọng hoặc cảm
nhận được những “điềm báo” kỳ lạ từ đâu đó bên ngoài lý trí của mình. Năng lực
tâm linh không phải xuất hiện ở bất cứ người nào cho nên điềm báo cũng là những
tín hiệu có thể xảy ra với người này mà không xảy ra với người khác. Tuy nhiên
74
cùng với quan niệm “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, điềm báo vẫn là hiện
tượng neo đậu bền vững trong đời sống tâm linh của người Việt và được thể hiện
một cách sinh động trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945.
2.4. Phép thuật, bói toán
2.4.1. Phép thuật, bùa ngải, phù chú
Phép thuật, bùa ngải, phù chú có nguồn gốc từ Đạo giáo (đặc biệt là Đạo
giáo phù thủy) của Trung Quốc. Khi vào Việt Nam, nó tìm thấy ngay rất nhiều điểm
tương đồng với tín ngưỡng ma thuật của người Việt. Vì thế, Đạo giáo ăn sâu vào
người tâm thức người Việt rất dễ dàng. Trước đó người Việt đã từng sùng bái ma
thuật, phù phép. Họ tin rằng những lá bùa, những câu thần chú có thể chữa được
bệnh tật và trị được tà ma. Dưới thời Bắc thuộc, Đạo giáo rất phát triển ở Việt Nam.
Nhiều quan lại Trung Hoa sang Việt Nam cai trị đều thích phương thuật. Đặc biệt là
thuật phong thủy với ông tổ của nó là Cao Biền. Thế nên, nếu Nho giáo phải đến
thời Lý mới được thừa nhận thì Đạo giáo hòa trộn với tín ngưỡng ma thuật đến mức
không còn ranh giới. Từ đó trong tín ngưỡng của người Việt, lực lượng thần bí
không chỉ định đoạt, tiên tri phúc họa cho con người mà quyền năng ma thuật còn
có thể làm những việc ngoài khả năng của người trần. Quyền năng ấy, được thông
qua những con người có phép thần thông: thầy phù thủy, pháp sư, đạo sĩ, ông đồng
bà cốt... Những người này do tu luyện hoặc có căn cốt nên họ có khả năng làm bùa
phép chữa bệnh trừ tà hoặc đi mây cưỡi gió... giúp con người thông tri với thế giới
siêu nhiên. Niềm tin về phép thuật, bùa chú đã đi vào tâm thức dân gian Việt khá
sâu rễ bền gốc. Nó đã kích thích óc tưởng tượng của người cầm bút trên con đường
đi tìm cái đẹp trong cuộc sống con người, làm cho con người trở nên ngày một hoàn
thiện hơn, hưởng thụ được nhiều mỹ cảm văn học hơn. Chính niềm tin ấy đã góp
phần dẫn dắt truyện ngắn, tiểu thuyết 1932-1945 đi sâu hơn vào địa hạt tâm linh của
con người Việt Nam.
Theo dòng chảy của văn hóa tâm linh trong văn học, dấu ấn phép thuật,
bùa chú của truyện truyền kì và tiểu thuyết chữ Hán còn thể hiện rõ trong truyện
ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 qua việc xây dựng những nhân vật, không
75
gian, thời gian thần tiên và những linh nhiệm về phép thuật bùa ngải cũng cho thấy
rõ sự huyền bí của hiện tượng này.
Sách Đạo giáo có nói như người tiên, lấy thuốc để dưỡng sinh, lấy thuật số
để kéo dài tuổi thọ, khiến cho bên trong bệnh tật không phát sinh, bên ngoài tai nạn
không xâm nhập, tuy sống lâu không chết mà thân hình vẫn trẻ mãi như xưa, nếu
biết đạo thuật thì chẳng có gì là khó. Hoặc có đoạn nói người tiên có kẻ thót lên
mây, không cánh vẫn bay được; có kẻ cưỡi rồng mây đến cõi trời; có kẻ bay lượn
trên danh sơn; có kẻ ăn nguyên khí; có kẻ nhá cỏ chi; có kẻ tới lui cõi nhân gian mà
không người biết; có kẻ tàng ẩn thân hình nên chẳng ai hay (Thần tiên truyện, Bành
Tổ truyện). Đây là phát triển những ý cơ bản vốn có trong thiên Tiêu dao du ở sách
Trang Tử khi nói về đặc điểm của Chân nhân với đặc điểm không ăn ngũ cốc, chỉ
hít gió uống sương, cưỡi rồng mây mà rong chơi ngoài bốn biển (Bất thực ngũ cốc,
hấp phong ẩm lộ, thừa vân khí, ngự phi long nhi du hồ tứ hải chi ngoại). Nói tóm
lại, thần tiên có hai đặc trưng, một là trường sinh bất tử, và hai là thần thông quảng
đại, phép thuật cao cường. Hai đặc trưng đó của Đạo giáo khi vào truyện ngắn, tiểu
thuyết Việt Nam 1932-1945 được thể hiện qua sự xuất hiện “một nhà tu hành kì
quái, không ở đâu lại, thinh không hiện ra giữa chừng không trung” (Hoàng Kim
Ốc – Cung Khanh). Nhà tu hành có phép lạ giúp Thổ công, Thành Hoàng, Đông trù
thấy được Hoàng Kim Ốc bằng cách “rút trong tay áo ra một hạt ngọc trong như
thủy tinh, hạt ngọc chiếu những tia sáng tinh anh (...) tức thì cách đó ba dặm, trong
một cảnh thật huyền ảo, cái nhà vàng rực rỡ xuất hiện giữa một vườn cây kì dị”
(Hoàng Kim Ốc – Cung Khanh). Nhà tu hành chính là một đạo sĩ có phép thần
thông biến hóa. Đạo sĩ đã biến thành cây đèn (thần đăng) đã hai mươi năm cùng
chàng thư sinh miệt mài trên những trang sách. Thần đăng có phép biến hóa lạ lùng
“chiếc đèn bỗng nhiên sáng rõ khác thường” đưa chàng thư sinh “đi vào một cõi
sống khác (...) có thể lướt qua những lá liễu, đùa những làn hương và tia sáng” rồi
“ngọn đèn tự nó dài ra mãi, tượng thành một dạng người, rồi lìa cái thân bằng
sành, Đạo sĩ hiện ra nhè nhẹ” (Hoàng Kim Ốc – Cung Khanh). Những con người
cốt cách khác người mà theo quan niệm của dân gian, họ là cầu nối giữa thế giới
76
siêu nhiên và người trần thế. Họ luôn luôn thoắt ẩn thoắt hiện, họ xuất hiện gắn với
những điều kì lạ “vào năm Gia Long, ở làng Gía Lụa, một buổi chiều bỗng có ráng
vàng như nghệ. Từ Đông sang Tây, dải cầu vòng ngũ sắc vắt ngang (...) Giữa lúc
ấy, một ông già, râu tóc bạc phơ, không biết từ đâu đến, chống gậy trúc (...) bộ râu
ba chòm trắng xóa và mớ tóc như bông (...) người ta chịu không đoán được tuổi
ông” (Cây đa ba chạc – Đỗ Huy Nhiệm). Ông già có phép thuật lạ ấy đã chọn gò
Con Qui làm nơi tịnh tọa và luyện phép “chỉ giơ một ngón tay lên trời, thằng bé tự
nhiên ríu hai chân lại, không tiến được một bước” (Cây đa ba chạc – Đỗ Huy
Nhiệm). Nhờ phép thuật, vị thần tiên đã giúp chàng Thi sĩ đi tìm nguồn mạch nuôi
dưỡng tâm hồn đẹp đẽ và nhận ra thiếu tài năng thi sĩ sẽ cằn cỗi già nua và chết
“ông lão đầu râu bạc trắng, mặc áo thụng màu lam”, vị thần tiên dùng phép thuật
“hóa gió và biến linh hồn người chết thành hạt mưa rào để vào được thế giới bên
trong của thi sĩ” (Đi tiêu dao – Cung Khanh). Ông phó Sần được “một ông cụ già
râu tóc lông mi trắng xốp như bông chống một cái gậy trúc” chỉ bảo về việc đi tu
sửa đền Đức Thánh Tản. Cả đám thợ lên đỉnh núi bằng phép thuật của người nữ tỳ -
người nữ tỳ hầu cận nữ Sơn chủ “cô cầm trong tay một nắm lá trông sắc đỏ như lá
mãn đình hồng, phân phát cho mỗi người một lá, bảo ngậm lấy, lấy sức mà lên cao”
(Trên đỉnh non Tản – Nguyễn Tuân). Trên đỉnh non Tản là một chốn bồng lai tiên
cảnh mà con người không biết tới với những con voi trắng kéo gỗ xây đền, những
vườn hồ đào, những hồ cá ngư hương, những chiếc cung tên vàng, bạc để con người
tha hồ bắn cá bắn chim mà “cứ bắn ra, rồi mũi tên sẽ vòng quay lại, không bao giờ
hết tên”. Thế giới ấy mãi mãi chỉ tồn tại trong tâm linh mỗi con người về nơi ngự trị
và những điều “thiên cơ thần cơ” của non ngàn núi thẳm – nơi ngự của một vị thần
trong Tứ bất tử Thánh Tản Viên. Trên cõi bồng lai, những linh hồn của các vị danh
nhân hiền triết hóa thành tiên“nhẹ bỗng tợ khói, uốn thành hình người” (Trên bồng
lai – Cung Khanh).
Ma thuật, bùa ngải phổ biến trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-
1945 chủ yếu là những hình thức bùa ngải mà con người tin rằng nó có khả năng
giúp họ phòng thủ trước sự đe dọa của thú dữ, ma quỷ, tai ương... hoặc thứ bùa ngải
77
giúp họ thực hiện những điều mong ước trong cuộc sống. Đó là những hình thức
làm phép, niệm thần chú, đeo những chiếc bùa hộ mệnh có những vật kỵ ma tà làm
bằng túi vải, bên trong ghi câu thần chú, bùa làm bằng chỉ ngũ sắc... Đó là lá bùa hộ
thân mà nàng Peng Slao cho Đèo Lầm Khẳng uống có phép tránh bị hổ ăn thịt “đạo
bùa ấy sẽ làm cho anh có phép ẩn mình; mỗi khi anh thấy hổ, anh trông thấy nó mà
nó không thấy anh” tuy nhiên bùa phép cũng sẽ vô hiệu nếu người được hộ mệnh
không giữ những điều kiêng. Vì vậy nàng Peng Slao dặn dò “anh không bao giờ
nên ngủ trong rừng, vì hễ ngủ, anh sẽ bị hiện nguyên hình, hổ sẽ trông thấy anh. Nó
sẽ không hại được anh ngay, vì anh đã làm phép thế thân rồi. Nhưng nếu lúc đó, nó
liếm vào mặt anh, thì bao nhiêu phép thiêng của đạo bùa mất hết; và không những
thế, tính mệnh anh cũng khó bảo toàn” (Thần Hổ - Tchya Đái Đức Tuấn). Trong
cuộc mưu sinh, muốn cho gia đình được no ấm, bác Diệm trai phải ngậm ngải tìm
trầm. Ngải là loại luyện những giống thực vật đặc biệt và truyền cho chúng những
khả năng siêu nhiên “Ngải là một thứ củ cây do người Mọi ở Trường Sơn luyện rất
công phu. Họ hấp củ cây ngải trong vò rượu mật ong một tháng, để giữa dòng suối
chảy một trăm ngày. Đoạn phải đặt trong tay đủ năm người chết, và đeo trước ngực
năm bà già trong đời giữ vẹn trinh tiết. Xong phải nhét vào trong cái giò heo để lừa
cho hổ ăn. Đoạn phải bẫy cho được con hổ ấy, rồi giết ngay và lấy ngải ra. Ngải là
cái bùa thiêng có sức mạnh huyền bí. Ai ngậm nó mà đi vào rừng không ăn không
uống cũng sống được. Và thú dữ đi bên cạnh cũng không thấy mình được. Nhưng
hạn trong ba tháng mười ngày phải trở về nhà nhả ngải ra. Nếu không thì người ấy
sẽ mọc lông, trổ vuốt, thêm nanh và hóa ra hổ” (Ngậm ngải tìm trầm – Thanh
Tịnh). Vì không tìm được trầm mà bác Diệm quên hay bác vẫn nhớ nhưng cố tìm
được trầm để việc ngậm ngải quá cả kỳ hạn. Bác phải hóa thành hổ và vĩnh viễn bị
ngăn cách với thế giới loài người. Trong tác phẩm Đôi vịt con - Lan Khai, cô Nhình
vì quá yêu chồng, không muốn người chồng phụ bạc mình nên trước khi Biên –
người chồng cô Nhình về trung châu, cô đã luộc hai quả trứng mà bố cô đã yểm bùa
ngải để cho chồng ăn. Dường như cô biết sự hữu hiệu của phép thuật ấy nên căn dặn
chồng phải trở lại trong một tháng “nếu đúng hẹn mà không lên thì có sự chẳng
78
lành”. Quá hạn một tháng thầy Biên “tự nhiên nổi cơn đau bụng dữ dội” sau đó “thổ
huyết rất nhiều rồi chết. Biên vừa tắt nghỉ, một đôi vịt con tự trong bụng chàng vụt
chui qua cuống họng ra ngoài rồi biến mất” và “ở trên rừng, người ta thấy xác mẹ
con cô Nhình nổi lập lờ theo dòng suối trong xanh” (Đôi vịt con – Lan Khai). Niềm
tin về phép thuật, bùa ngải có tính thần bí mông lung nhưng con người vẫn cứ tin và
tìm đến nó trong những lúc họ cần một cứu cánh để cân bằng cuộc sống tinh thần.
Cũng vì thế, vợ Bổng sau khi tìm mọi cách để cầu con “vào tận Hương Tích kêu
cầu, xin dấu”, “hội Đền nào nàng cũng gửi tiền”, “nàng mua cả thuốc Mường,
thuốc Mán” và nàng “tìm đến sư cụ chùa Tiên nổi tiếng về môn phù thủy một đạo
bùa cầu tự buộc vào cổ yếm” (Con Trâu – Trần Tiêu). Đó là thứ bùa mà người
khách Tàu mang theo một cách bí mật cả cuộc đời và khi biết mình không còn sống,
ông trao lại cho ân nhân đã tốt bụng cho ông tá túc. Vợ chồng ông Bá ngạc nhiên vô
cùng trước túi bùa của người Tàu và “ông Bá máy tay, bèn mở cái túi bùa đeo ở cổ
xác chết, gỡ hết mấy lần lụa phết nhựa ... Ngắm kĩ thì là một ngón tay út, đủ ba đốt”
(Một truyện không nên đọc vào lúc giao thừa – Nguyễn Tuân). Từ niềm tin vào
phép thuật bùa ngải mà dân làng Sam Na “nhờ một thầy pháp bện cho họ mấy sải
dây ngũ sắc và yểm phép vào dây để họ đi rình trói con mụ ké hay là con hùm tinh”
(Tiếng hú ban đêm – Thế Lữ).
Ngoài phép thuật, bùa ngải, sự linh ứng mang tính ma thuật còn thể hiện qua
những câu thần chú. Thần chú là những mật ngữ giúp con người giao tiếp với thế
giới vô hình tựa như tờ giấy mà người trai Thổ lấy từ tay ông già bị chết khi vào
hang thần Văn Dú. Người Thổ Kao Lâm gọi đó là thần chú: “Miệng có hai răng...
ba chân bốn tay” “Mày vào trăm chân, mày lên ba tay...tên mày là đá, đá sinh ra
trứng... Trứng đá giữ của. Mày có sức mang... Mày giàu mày chết” (Vàng và máu –
Thế Lữ). Đó cũng là những câu thần chú mà người Tàu - khách bán thuốc ơ truyền
dạy cho vợ chồng ông Bá để vào hang núi lấy của “Dzế pẳn dì! Dzế pẳn dì! “tả sín
tì. “Coỏng voòng vảy. Sồi sắn hối mùn. “Hối mùn!” (Một truyện không nên đọc
vào lúc giao thừa – Nguyễn Tuân). Ông Bá đọc thần chú “giữa rừng khuya sâu, như
các bài chú về hư linh”, dứt tiếng hô bỗng “có tiếng nổ như tiếng ống lệnh rồi ầm
79
ầm cây và đá tảng đổ nhào và cứ bắn thẳng vào cái miếu sơn thần” (Một truyện
không nên đọc vào lúc giao thừa – Nguyễn Tuân). Phép thuật, bùa chú không biết là
thực hay hư nhưng tất cả những phép thuật, bùa chú trong truyện ngắn, tiểu thuyết
Việt Nam 1932-1945 đều có sự linh ứng như xác tín cho một niềm tin thiêng liêng
tồn tại trong đời sống tâm linh của dân người Việt thời đại đó.
Vấn đề ma thuật, bùa chú không rõ là có thật hay chỉ là sự ảo tưởng nhưng
hiển nhiên trở thành một hiện tượng văn hoá mang tính trao truyền giữa các thế hệ.
Đặc biệt đối với người dân ở những miền đất xa xôi hẻo lánh, rừng thiêng nước độc,
những vùng thượng du... niềm tin và sự thực hành về phép thuật, bùa chú vẫn còn
tồn tại. Điều đó cho ta thấy sự ảnh hưởng dai dẳng của Đạo giáo đối với văn học và
đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam.
2.4.2. Bói toán, tướng thuật
Bói toán là hành động tiên đoán tương lai, vận mệnh cho ai đó. Do nhu cầu
cuộc sống đòi hỏi con người phải tìm hiểu sự biến đổi của tự nhiên và sự ảnh hưởng
của nó đối với đời sống của mỗi con người. Vì thế xuất hiện một số người chuyên đi
tìm những điều bí ẩn đó. Mặc dù dân gian nói “thiên cơ bất khả lậu” nhưng trong
cuộc sống, con người luôn mong biết được vận hạn của mình để tìm cách ứng xử
trong những hoàn cảnh cụ thể, để hiểu thời cuộc, tiên tri tương lai. Từ đó xuất hiện
các hình thức bói toán: tử vi, bói âm dương, tướng thuật...
Bói toán có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng khi du nhập vào Việt Nam, nó
cũng được thay đổi thành nhiều hình thức nhằm phù hợp với đời sống tâm linh của
người dân. Trong sách Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam có viết “Nước ta
tin việc quỉ thần, cho nên cũng theo cách Tàu mà chuộng việc bói toán. Bói cốt là
đem việc mình mà hỏi quỉ thần, để quyết cái lòng mình ngờ vực, định cái sự mình
hồ nghi” [58;tr714]. Vì người Việt Nam tin vào bói toán nên nó trở thành một hiện
tượng phổ biến trong đời sống tâm linh của họ. Đó là lối bói tử vi xem vận hạn của
Xuân Tóc Đỏ đã hiện qua lá số “Tuần triệt đương đầu kiếp không thân mệnh” ứng
vào số bồ côi sớm của Xuân. Số Xuân có danh phận to về sau vì quẻ bói gieo “Khốc
Hư tý ngọ cư quán, Tiếng tăm dậy khắp giang sơn” và “Từ năm nay trở đi đã mở
80
vận đấy”. Quả thật lời tiên đoán đã ứng nghiệm khi Xuân Tóc Đỏ đã liên tục thăng
tiến bằng sự may mắn khó lí giải nổi. Bói toán là cách con người tìm đến trong
những lúc con người không tự tìm được cách giải thích thỏa đáng, không tự mình
quyết định được cảnh ngộ của mình. Vì thế trước sự thay đổi thất thường của chủ,
thằng Dần đi xem bói “ ngài dạy cậu gặp vía âm, phải cúng ngay mới giải được
hạn” (Trại Bồ Tùng Linh – Thế Lữ). Vợ Khoản xem bói “tôi còn nhớ nhời thầy bói
bảo mình năm băm nhăm mới khấm khá”. Không biết lời thầy bói có thiêng hay
không nhưng nó cũng giúp cho vợ chồng Khoản có thêm niềm tin, niềm hi vọng
vào tương lai “chồng sung sướng tủm tỉm cười” và “đêm ấy, hai vợ chồng không
nằm yên, cùng mơ tưởng đến cách làm giàu” (Con Trâu – Trần Tiêu). Bói toán khi
du nhập vào Việt Nam, nó được người dân thay đổi để phù hợp với tâm lí và tín
ngưỡng của dân tộc mình. Cô Ngọc tìm đến cách bói Kiều để biết vận mệnh và tiên
tri tương lai với lời khấn “Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều,
tên tôi là Hoàng Thị Ngọc, ở làng Vân Trình, thành tâm xin một quẻ” (Lều chõng –
Ngô Tất Tố). Và những điều ứng trong những trang sách có vẻ rất phù hợp với vận
hạn của cô. Tuy nhiên, bói toán cũng là cách cô Liệt lợi dụng để tìm ra thủ phạm
giết chồng. Cô đã lấy kẻ bị tình nghi là giết chồng mình và sắp đặt dặn dò trước với
cô thầy bói rồi “một hôm Liệt gọi một ông thầy bói vào xem. Cô thầy bói gieo quẻ”,
nói “nhà này như có oan hồn lẩn khuất, phải lập đàn giải thoát không thì tai vạ”
(Giết chồng báo thù chồng – Nhất Linh). Bói toán là biểu hiện tâm linh của người
Việt rất dễ trở thành mê tín dị đoan nếu gặp những thầy bói “buôn Thần bán Thánh
lợi dụng lòng tin của người dân để trục lợi.
Tướng thuật là thông qua hình thể để đoán biết cát hung họa phúc của một
con người. Sự quan sát hình thể nhằm mục đích vạch ra thiện ác về tính tình, sự
thiện ác của tính tình là cơ sở của cát hung. Tướng thuật cho rằng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2013_02_28_4069530311_1_3878_1871139.pdf