MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ Lí LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI CÓ ĐẤT BỊ THU HỒI ĐỂ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP 7
1.1. Đất cho phát triển công nghiệp và sự cần thiết phải thu hồi đất để phát triển công nghiệp
7
1.2. Nội dung giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi để phát triển công nghiệp 14
1.3. Kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố trong giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi
23
Chương 2: THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI DÂN CÓ ĐẤT BỊ THU HỒI ĐỂ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH NGHỆ AN TỪ NĂM 2001-2007 33
2.1. Vị trớ của Nghệ An và tỡnh hỡnh thu hồi đất để phát triển công nghiệp trên địa bàn 33
2.2. Tỡnh hỡnh giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi 47
2.3. Những vấn đề đặt ra trong giải quyết việc làm của người có đất bị thu hồi ở Nghệ An hiện nay.
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI CÓ ĐẤT BỊ THU HỒI ĐỂ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH NGHỆ AN THỜI GIAN TỚI 80
3.1. Dự báo nhu cầu và phương hướng giải quyết việc làm cho người lao động có đất bị thu hồi ở tỉnh Nghệ An đến năm 2020 80
3.2. Giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi để phát triển công nghiệp ở tỉnh Nghệ An thời gian tới 90
KẾT LUẬN 111
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 113
PHỤ LỤC 118
124 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2371 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Việc làm của người có đất bị thu hồi để phát triển công nghiệp ở tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rở lên (đối với đất trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản), 24 tháng trở lên (đối với đất rừng) hoặc 18 tháng trở lên (đối với đất trồng cây lâu năm) khi Nhà nước thu hồi thì không được bồi thường về đất, nhưng được hỗ trợ như sau:
+ Hộ gia đình, cá nhân nhận giao khoán đất là cán bộ, công nhân viên của nông lâm trường đang làm việc; Hộ gia đình, cá nhân nhận khoán đang trực tiếp sản xuất nông nghiệp và có nguồn sống chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp: Hỗ trợ bằng 25% giá đất bồi thường tính theo diện tích đất thực tế thu hồi, nhưng không vượt hạn mức giao đất nông nghiệp quy định.
+ Hộ gia đình, cá nhân nhận giao khoán đất là cán bộ, công nhân viên của nông lâm trường nghỉ thôi việc được hưởng trợ cấp hàng tháng: Hỗ trợ bằng 20% giá đất bồi thường tính theo diện tích đất thực tế thu hồi, nhưng không vượt hạn mức giao đất nông nghiệp quy định.
+ Hộ gia đình, cá nhân nhận khoán đất là cán bộ, công nhân viên của nông lâm trường đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động: Hỗ trợ bằng 15% giá đất bồi thường tính theo diện tích đất thực tế thu hồi, nhưng không vượt hạn mức giao đất nông nghiệp quy định.
+ Trường hợp hộ gia đình, cá nhân nhận giao khoán đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản của các nông, lâm trường không thuộc các đối tượng quy định trên đây chỉ được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi toàn bộ đất ở hoặc trên 30% diện tích đất nông nghiệp được giao (hoặc giao khoán) ổn định, hiện có mức sống thuộc diện hộ nghèo theo tiêu chí hộ nghèo do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội công bố trong từng thời kỳ có xác nhận của phòng Thương binh xã hội cấp huyện thì ngoài các chính sách chung về ưu đãi đối với hộ bị thu hồi đất và chính sách đối với hộ nghèo, còn được hỗ trợ để vượt qua hộ nghèo tính theo nhân khẩu hiện có. Mức cụ thể như sau: hộ nghèo tại đô thị: 3.600.000đ/khẩu; hộ nghèo tại nông thôn: 5.760.000đ/khẩu
Gần đây, ngày 08/01/2008 UBND tỉnh ban hành Quyết định số 03/2008/QĐ-UBND về ban hành đơn giá xây dựng nhà và vật kiến trúc trên địa bàn tỉnh Nghệ An làm cơ sở xác định giá trị bồi thường và hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
Các chủ trương, chính sách trên được hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh như đài phát thanh, đài truyền thanh, đài truyền hình, các báo… đã liên tục thông tin; các cấp ủy và chính quyền thành phố và huyện đã chỉ đạo chặt chẽ các chi bộ, đảng bộ tăng cường công tác giáo dục tư tưởng để mọi người dân nhận thức sâu sắc về công tác giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi của tỉnh, của địa phương.
2.2.2. Tình hình triển khai thực hiện chủ trương, chính sách giải quyết việc làm ở Nghệ An
Trên cơ sở các chủ trương và chính sách giải quyết việc làm đã ban hành, các cơ quan chức năng của tỉnh đã xây dựng các biện pháp cụ thể, tổ chức triển khai các biện pháp đó trong thực tiễn.
- Thực trạng giải quyết việc làm qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh:
+ Giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi thông qua Chương trình phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa. Tỉnh Nghệ An đã chỉ đạo tập trung thâm canh đất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng năng suất, chất lượng, hiệu quả. Với sự đầu tư đúng hướng trong nông nghiệp, bước đầu tỉnh đã hình thành được một số trang trại sản xuất rau an toàn, vùng sản xuất nông sản tập trung, chuyển đổi cây có hiệu quả thấp sang cây có hiệu quả cao hoặc chuyển đổi thành vùng nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi theo mô hình CN tập trung. Nhờ chương trình phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, mà giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản trong 5 năm (2001 - 2005) đã từ 5.478.814 triệu đồng tăng lên 9.068.055 triệu đồng, gấp gần 1,7 lần trong thời gian 5 năm, riêng giá trị nuôi trồng thủy sản tăng gần 2 lần. Những năm qua diện tích vụ Đông liên tiếp được mở rộng và đạt giá trị ngày càng lớn. Diện tích lúa hiện chỉ còn 67.254 ha, giảm gần 7.000 ha. Năng suất lúa đạt 120 tạ/ ha/ năm. Sản lượng lương thực bình quân đầu người đạt 477 kg/ năm. Giá trị sản phẩm trên 1 ha đất nông nghiệp đạt 37,7 triệu đồng, gần 20% diện tích đất nông nghiệp đạt giá trị sản xuất trên 50 triệu đồng/ ha. Từng bước hình thành và nhân rộng một số mô hình sản xuất trang trại, vùng sản xuất nông sản tập trung đạt giá trị cao từ 70 - 100 triệu đồng/ ha. Mở rộng diện tích trồng rau màu, chuyển đổi mạnh diện tích cấy lúa năng suất, hiệu quả thấp sang trồng cây ăn quả và nuôi trồng thủy sản cho giá trị kinh tế cao hơn. Những năm qua, giá trị sản xuất chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản tăng 14,1%/ năm. Tỉnh đã hình thành được một số mô hình chăn nuôi theo quy mô công nghiệp, bán công nghiệp. Để thực hiện chương trình phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, hệ thống khuyến nông được thành lập từ tỉnh đến huyện và luôn luôn được tăng cường cả về số lượng và chất lượng.
+ Giải quyết việc làm qua chương trình phát triển CN, tiểu thủ CN và xây dựng kết cấu hạ tầng. Đây là một nội dung rất quan trọng trong giải quyết việc làm cho người bị thu hồi đất và đóng vai trò quyết định đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong quá trình phát triển CN ở Nghệ An.
Từ năm 2001 đến nay, do tăng nhanh nguồn vốn huy động vào xây dựng kết cấu hạ tầng, hỗ trợ đầu tư phát triển, nên sản xuất CN, tiểu thủ CN của tỉnh đã phát triển với tốc độ cao. Chỉ riêng 3 năm (2001-2003), giá trị sản xuất CN từ 1.951.136 triệu đồng tăng lên 3.308.587, gấp 1,7 lần, trong đó CN ngoài nhà nước (không kể doanh nghiệp CN có vốn đầu tư nước ngoài) từ 651.397 tăng lên 1.346.111 triệu đồng, tức là tăng 106,6% trong vòng 3 năm. Cơ cấu ngành nghề chuyển dịch nhanh theo hướng tăng ngành nghề, thu hút nhiều lao động như: may mặc, giày dép, chế biến lương thực, thực phẩm. Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh. Năm 2003, toàn tỉnh có 29.454 cơ sở sản xuất CN thu hút 78.620 lao động.
Quỹ khuyến công của tỉnh được thành lập tháng 9/2002 đã có những hoạt động tích cực trong việc thúc đẩy phát triển các cơ sở CN, nhất là các cơ sở sản xuất tiểu thủ CN trên địa bàn. Toàn tỉnh đã khôi phục và thành lập mới được 117 làng nghề, trong đó có 8 mô hình: làng nghề chế biến mộc dân dụng và mỹ nghệ, làng mây tre đan, làng dệt thổ cẩm, làng đóng mới và sửa chữa tàu thuyền vỏ gỗ ở các huyện Nghĩa Đàn, Nghi Lộc, Quỳnh Lưu, Yên Thành, Con Cuông, Thanh Chương, Quế Phong. Những địa phương có nhiều làng nghề đăng ký xây dựng là: Diễn Châu (6 làng), Quỳnh Lưu (8 làng), Nghi Lộc (6 làng). Nghề sản xuất - kinh doanh được đăng ký nhiều là: mây tre đan (20 làng), chế biến hải sản (5 làng), dệt thổ cẩm (5 làng), ươm tơ dệt lụa (5 làng). Đến nay, toàn tỉnh đã có 46 làng nghề đủ tiêu chí thro quy định. Có làng nghề như Trung Kiên, Nghi Thiết, Nghi Lộc chuyên đóng, sửa tàu thuyền thu hút trên 800 lao động, chiếm trên 50% số lao động trong làng. Phụ lục 1 là bảng thống kê các sản phẩm CN chủ yếu của tỉnh Nghệ An những năm gần đây.
Nhờ phát triển các hình thức sản xuất CN và tiểu thủ CN mà trên địa bàn tỉnh Nghệ An đã thu hút thêm hàng chục nghìn lao động, trong đó có nhiều người vốn trước đây làm nông nghiệp bị thu hồi đất.
+ Giải quyết việc làm qua phát triển các hoạt động dịch vụ. Những năm qua ở Nghệ An, các hoạt động dịch vụ có sự chuyển biến tích cực, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sản xuất và đời sống nhân dân. Trong giai đoạn 2001-2005, giá trị sản xuất ngành dịch vụ tăng bình quân 8,74%/ năm (cả nước 7,3%). Các loại dịch vụ vận tải, dịch vụ bưu chính viễn thông, tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn, dịch vụ quanh KCN tập trung… phát triển khá tốt; các hoạt động xúc tiến thương mại - du lịch, xây dựng thương hiệu được tăng cường. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 2001 - 2005 tăng bình quân 30,2%/ năm. Tổng mức luân chuyển hàng hoá và dịch vụ xã hội tăng bình quân hàng năm 11,3%/ năm. Hoạt động du lịch tăng khá: số lượng khách du lịch tăng bình quân 18,4%, doanh thu du lịch tăng 17,2%/năm.
Sự phát triển khu vực dịch vụ đã giải quyết được chỗ việc làm mới cho trên 30 ngàn lao động, trong đó có hàng ngàn lao động bị mất đất do Nhà nước thu hồi.
- Thực trạng giải quyết việc làm qua thực hiện các đề án cho vay vốn hỗ trợ việc làm (Thực hiện Nghị quyết số 147/2003/HĐND-XIV).
Cho vay vốn hỗ trợ giải quyết việc làm là một hướng tích cực để giải quyết việc làm. Trong 7 năm (2001 - 2007), toàn tỉnh đã triển khai thực hiện hàng nghìn dự án với tổng số tiền cho vay mỗi năm bình quân là 1.324 tỷ đồng; đã cho 143.956 hộ vay, bình quân hơn 9 triệu đồng/ hộ. Tổ chức Quỹ tình thương cho chị em phụ nữ vay để phát triển kinh tế bình quân mỗi hộ là 6,5 triệu đồng/ năm. Nhờ đẩy mạnh hoạt động cho vay vốn hỗ trợ việc làm, nên đã góp phần giải quyết việc làm cho trên 13.000 lao động. Thực tế, bình quân cứ 5 triệu đồng vốn Nhà nước cho vay giúp giải quyết được 1 lao động có việc làm. Ngoài nguồn vốn vay hỗ trợ giải quyết việc làm, phải kể đến vai trò tích cực của Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các tổ chức tín dụng đã huy động được một lượng vốn lớn cho các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, các hộ gia đình vay để phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, góp phần tạo việc làm mới cho người lao động có đất bị thu hồi.
- Thực trạng giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi qua xuất khẩu lao động.
Nghệ An đã lựa chọn giải pháp xuất khẩu lao động hỗ trợ để giải quyết việc làm cho người dân trong đó có cả những người có đất bị thu hồi. Thực hiện Quyết định số 39/2003/QĐ-UB ngày 14/4/2003 của UBND tỉnh, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương tìm biệc pháp khắc phục tình trạng buông lỏng hoặc ít chú trọng đến xuất khẩu lao động, khắc phục được tình trạng khoán trắng cho một số cơ quan chức năng. Để triển khai Quyết định của tỉnh, các huyện, thành phố đã lập ra Ban chỉ đạo thực hiện, hướng dẫn các xã, phường trong tỉnh phổ biến để người dân có sự chuẩn bị và hưởng ứng.
Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động các huyện, thành phố đã chỉ đạo cụ thể, giải đáp mọi vướng mắc, phối hợp chặt chẽ với hoạt động của Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động các xã, phường, với các công ty xuất khẩu lao động từ khâu sơ tuyển, đến khâu tổ chức dạy nghề, tổ chức đưa lao động đi xuất khẩu lao động, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các trường hợp cò mồi, lừa đảo, hạn chế thiệt hại cho người lao động. Hàng năm, Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động của các huyện, thành phố đã mở hội nghị sơ kết đánh giá kết quả hoạt động và đưa ra các biện pháp khắc phục hạn chế, vướng mắc. Các đồng chí Bí thư chi bộ, Trưởng thôn, tất cả các tổ chức đoàn thể xã hội đều tham gia vào đề án xuất khẩu lao động và coi đó là nhiệm vụ chính trị của mình.
Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động của tỉnh còn trực tiếp cử đoàn cán bộ đi khảo sát tình hình lao động Việt Nam đang làm việc tại Malayxia và Nhật Bản. Nhờ có sự chỉ đạo sát sao của Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động tỉnh cũng như sự hoạt động tích cực của Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động các cấp, nên số lao động ở Nghệ An được đưa đi làm việc ở nước ngoài tương đối nhiều. Từ 2001 - 2005, toàn tỉnh đã đưa được gần 30,6 ngàn lao động (chiếm 18,3% tổng số lao động đi lao động ở nước ngoài. Phần lớn lao động của Nghệ An được đưa sang lao động ở Đài Loan, Malayxia.
- Tình hình giải quyết việc làm thông qua đào tạo nghề cho người có đất bị thu hồi:
Theo một khảo sát thực tế ở Nghệ An thì trong tổng số người bị thuộc diện thu hồi đất, chỉ có 1,85 % là có trình độ đại học và cao đẳng, 2,67% là trung cấp; số đã học nghề và các khóa đào tạo tương đương là 10,68 %; số không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 84,8 %. Do tình trạng trên, nên cơ hội tự tìm việc làm của phần lớn lao động sau khi bị thu hồi đất là rất khó khăn (Biểu đồ 2.1).
Biểu đồ 2.1: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động
ở Nghệ An trước khi bị thu hồi đất
Theo điều tra trên, trước khi bị thu hồi đất, có 78,2% số người trong độ tuổi lao động sản xuất nông, lâm nghiệp; 7% số người trong độ tuổi làm việc trong lĩnh vực CN, tiểu thủ CN; 14,8% làm việc trong các ngành dịch vụ và các công việc khác. Tuy nghề nghiệp của người dân khi bị thu hồi đất khá đa dạng, nhưng số người làm nông nghiệp vẫn là chủ yếu.
Nếu đi sâu vào từng địa bàn (huyện, thành phố, thị xã), thì các tỷ lệ trên có sự biến đổi khác nhau: Chẳng hạn, ở huyện Nghi Lộc, trong số được được điều tra, cơ cấu lao động theo nghề đối với những người trước khi bị thu hồi đất năm 2001 là: số lao động làm nghề nông, lâm nghiệp chiếm 83,1%; số lao động trong ngành CN, tiểu thủ CN chiếm 5%; số lao động làm dịch vụ 11,9%.
Kết quả tổng hợp từ các phiếu điều tra trên cho thấy trên ba địa bàn này, trước khi bị thu hồi đất, trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật của người lao động có đất bị thu hồi như sau (bảng 2.5).
Bảng 2.5: Trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật của ngườicó đất trước khi Nhà nước thu hồi
Số phiếu điều tra mẫu 298 phiếu
TT
Trình độ văn hóa và CNKT
Tp Vinh
Tx Cửa Lò
H Nghi Lộc
Tổng số
Số người
Tỷ lệ (%)
Số người
Tỷ lệ (%)
Số người
Tỷ lệ (%)
Số người
Tỷ lệ (%)
1
Trình độ văn hóa
50
100,0
86
100,0
162
100,0
298
100,0
Cấp 1
0
0,0
0
0
55
33,9
55
18,5
Cấp 2
14
28,0
29
33,7
91
56,2
134
45,0
Cấp 3
36
72,0
57
66,3
16
9,9
109
36,5
2
Trình độ CMKT
50
100,0
86
100,0
162
100,0
298
100,0
Đại học, cao đẳng
2
4,0
7
8,1
0
0,0
9
3,0
TH chuyên nghiệp
2
4,0
2
2,4
1
0,6
5
1,7
CNKT + sơ cấp
6
12,0
10
11,6
2
1,2
18
6,0
Chưa qua đào tạo
40
80,0
67
77,9
159
98,2
266
89,3
Nguồn: Tác giả luận văn tiến hành điều tra (tháng 4/2008).
Để giải quyết tình trạng trên và để thực hiện chủ trương đa dạng hóa các hoạt động dạy nghề, Nghệ An đã củng cố và mở rộng quy mô đào tạo trường Đại học sư phậm Vinh lên thành Đại học Vinh và mở rộng quy mô đào tạo trường Đại học Sư phạm kỹ thuật, tăng qui mô đào tạo của 4 trường Cao đẳng, làm cho tổng số sinh viên lên gần 40.000. Theo hướng này, 5 trường Trung học chuyên nghiệp cùng 8 trường đào tạo công nhân kỹ thuật và trung tâm đào tạo nghề đã thu hút hàng năm khoảng 20.000 học sinh. Ngoài ra, 19 huyện, thị đều có trung tâm dạy nghề ở huyện. Trường trung cấp du lịch Cửa Lò, trường kỹ thuật Việt Đức, trường công nhân Việt Nam - Hàn Quốc sẽ được nâng cấp lên thành trường Cao đẳng dạy nghề. Trung tâm dạy nghề Cửa Lò, trung tâm dạy nghề Phủ Quỳ và trung tâm dạy nghề thành phố Vinh sẽ được nâng cấp thành trường trung cấp dạy nghề. Tỉnh còn có chính sách hỗ trợ nhà trường và giáo viên để mở nhiều hình thức dạy nghề, cho phép thành lập các cơ sở dạy nghề thuộc các thành phần kinh tế, khôi phục và phát triển làng nghề, đẩy mạnh dạy nghề, truyền nghề, tạo nhiều việc làm cho lao động trong đó có chế độ ưu tiên cho những người có đất bị thu hồi.
Tỉnh đã thực hiện xã hội hóa việc dạy nghề, đa dạng hóa các loại hình dạy nghề (công lập, bán công, dân lập, tư thục) đa dạng hóa cấp độ đào tạo nghề (dài hạn, ngắn hạn); đa dạng hóa hình thức dạy nghề (tại trường lớp, tại doanh nghiệp, tại làng nghề, thôn, xã…) đa dạng hóa các hình thức tuyển sinh. Nhờ đó, đã làm cho quy mô đào tạo tăng nhanh, cơ cấu đào tạo nghề thêm đa dạng. Các nghề đào tạo dài hạn gồm: lái xe ô tô, cơ khí, tin học, điện tử, may công nghiệp, điện xí nghiệp, lái máy thi công, thợ nề, bảo quản giao nhận xăng. Các nghề đào tạo ngắn hạn gồm: thêu, móc, bán lẻ xăng dầu, điện dân dụng, mộc, chạm khắc gỗ, sửa chữa xe máy…
Các cơ sở đào tạo nghề đã chủ động đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy, mở thêm nhiều nghề dễ đào tạo, dễ tìm việc, phù hợp với nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương như: may công nghiệp, sửa chữa cơ khí nhỏ, điện dân dụng, thêu ren, móc len sợi, mây giang xiên xuất khẩu… Chủ yếu trong những năm qua các cơ sở dạy nghề đào tạo ngắn hạn gắn với tạo việc làm tại chỗ theo hướng đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ.
Quy mô đào tạo nghề của Nghệ An khoảng trên 20.000 người/ năm, trong đó 6.000 dài hạn và 14.000 ngắn hạn. Ngoài ra, các doanh nghiệp, làng nghề trên địa bàn hàng năm còn tổ chức dạy và tạo việc làm cho trên 4.000 lao động. Để đáp ứng nhu cầu mở rộng qui mô dạy nghề, đội ngũ giáo viên dạy nghề của tỉnh đã tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Đến nay, toàn tỉnh hiện có trên 1.000 giáo viên dạy nghề, trong đó có nhiều giáo viên có trình độ đại học, cao đẳng. Nhà nước đã hỗ trợ một phần học phí cho người học nghề.
- Thực trạng hoạt động dịch vụ việc làm.
Do các quy định Pháp luật về giới thiệu việc làm ngày càng hoàn thiện cả về nội dung và hình thức, nên các trung tâm dịch vụ việc làm của tỉnh Nghệ An cũng dần được hoàn thiện cả về tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt động, đã gắn kết được hoạt động dạy nghề với giới thiệu việc làm, tạo khả năng bố trí việc làm tốt hơn cho người lao động.
Tỉnh còn coi trọng hoạt động thông tin thị trường lao động. Nội dung thông tin về thị trường lao động hướng vào:
Các báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, Niên giám thống kê của tỉnh.
Các thông tin về biến động lao động, việc làm, cơ cấu lao động, việc làm, tỷ lệ lao động thất nghiệp ở khu vực thành thị, tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở khu vực nông thôn tỉnh Nghệ An. Các thông tin này được điều tra vào tháng 7 hàng năm theo quyết định 385/TTg ngày 06/6/1997 của Thủ tướng Chính phủ về điều tra lao động và việc làm.
Các thông tin về tình hình việc làm của đối tượng bị thu hồi đất cho xây dựng KCN, cụm CN, KĐT…Các thông tin về năng lực, ngành nghề đào tạo của các cơ sở dạy nghề chủ yếu của tỉnh. Các thông tin về hoạt động của hội chợ việc làm hàng năm do tỉnh thực hiện.
Nhờ những hoạt động này, mà số lao động tìm được việc làm tăng lên đáng kể.
Kết quả giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi ở Nghệ An từ 2001-2007 là:
Theo số liệu tính toán của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội năm 2005, thì giai đoạn 2001-2005 cả nước đã có 366.440 ha đất nông nghiệp được chuyển đổi mục đích sử dụng, trong đó chủ yếu là để phát triển CN, đã ảnh hưởng đến đời sống và việc làm của 627.495 hộ gia đình, khoảng 950.000 lao động và 2,5 triệu người. Từ thực tế trên và căn cứ vào điều tra của tác giả đề tài (tháng 2/2008), thì từ năm 2001-2007, toàn tỉnh Nghệ An có 8.049 hộ dân bị thu hồi đất, tính trung bình mỗi hộ có 1,5 lao động, tức là có 12.073 người phải chuyển đổi việc làm. Quá trình giải quyết việc làm từ 2001 đến nay, trong số này đã có khoảng 80% số lao động tìm được việc làm. Bảng số liệu dưới đây là tình hình tuyển dụng người lao động sau khi bị thu hồi đất vào làm việc (bảng 2.6).
Bảng 2.6: Tình hình tuyển dụng lao động sau khi bị thu hồi đất vào làm việc
§¬n vÞ tuyÓn dông
Sè ngêi
Tû lÖ (%)
§¬n vÞ nhËn ®Êt
8
2,68
Nhµ níc
8
2,68
Doanh nghiÖp t nh©n
20
6,71
Tù t¹o viÖc lµm
172
57,72
Kh«ng x¸c ®Þnh
90
30,21
Tổng số
298
100,00
Nguồn: Điều tra của tác giả luận văn (tháng 4/2008).
Bảng 2.6 cho thấy phần lớn người dân sau khi bị thu hồi đất tự tạo việc làm cho mình (57,72%); việc làm mà đơn vị nhận đất bố trí cho người dân còn chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn. Dường như các dự án phát triển CN vẫn chưa thật sự quan tâm đến giải quyết việc làm cho dân địa phương, nhất là cho người nông dân bị mất đất.
+ Tỷ lệ lao động đủ việc làm giảm khá mạnh:
Bảng 2.7: Tình trạng việc làm trước và sau khi thu hồi đất
T×nh tr¹ng viÖc lµm
Trước khi thu hồi đất
Sau khi thu hồi đất
Sè ngêi
Tû lÖ (%)
Sè ngêi
Tû lÖ (%)
- §ñ viÖc lµm
127
42,62
97
32,55
- ThiÕu viÖc lµm
129
43,29
141
47,32
- Cha cã viÖc lµm
42
14,09
60
20,13
Tæng sè
298
100,00
298
100,00
Nguån: T¸c gi¶ tiÕn hµnh ®iÒu tra (th¸ng 4/2008).
Kết quả điều tra thể hiện trên bảng 2.7 cho thấy trong 298 người thì trước khi thu hồi đất có 42,62% số lao động đủ việc làm, nhưng sau khi thu hồi đất số lao động này đã giảm xuống chỉ còn 32,55% (tăng hơn 10%); tỷ lệ lao động thiếu việc làm từ 43,29% trước khi thu hồi đất tăng lên 47,35% sau khi thu hồi đất (tăng 4%); và tỷ lệ lao động thất nghiệp từ 14,09% tăng lên 20,13% tức là tăng khoảng 6%. Nếu tính chung tỷ lệ lao động thiếu và không có việc làm sau thu hồi đất ở các địa điểm được điều tra đã tăng lên 9,68% so với trước khi Nhà nước thu hồi đất.
Dưới đây là một số phân tích chi tiết về tình hình lao động đủ việc làm, thiếu việc làm và chưa có việc làm ở ba địa phương gồm thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò và huyện Nghi Lộc theo số liệu tác giả điều tra tháng 4/2008.
Bảng 2.8: Tỷ lệ lao động đủ việc làm trước và sau khi thu hồi đất
Tên địa bàn
Số LĐ bị thu hồi đất
LAO ĐỘNG ĐỦ VIỆC LÀM
Trước khi thu hồi đất
Sau khi thu hồi đất
Tổng số
Tỷ lệ (%)
Tổng số
Tỷ lệ (%)
Tổng số
298
127
42,6
97
32,6
Tp Vinh
50
2
4,0
19
38,0
Tx Cửa Lò
86
34
39,5
25
29,1
Huyện Nghi Lộc
162
91
56,2
53
32,7
Nguồn: Điều tra của tác giả luận văn (tháng 4/2008).
Trong số lao động được điều tra, tỷ lệ lao động có đủ việc làm trước khi Nhà nước thu hồi đất là 42,6%, nhưng sau khi thu hồi đất số này đã giảm xuống còn 32,6%. Điều này thể hiện rõ nhất là ở vùng người dân làm nông nghiệp: huyện Nghi Lộc từ chỗ 56,2% số lao động loại này có việc làm đã giảm xuống còn 32,7% sau khi Nhà nước thu hồi đất; thị xã Cửa Lò số lao động có việc làm cũng giảm từ 39,5% xuống còn 29,1%. Tỷ lệ lao động có việc làm giảm có nghĩa là tỷ lệ lao động thiếu và không có việc làm tăng lên.
Bảng 2.9: Tỷ lệ lao động thiếu việc làm trước và sau khi thu hồi đất
Tên địa bàn
Số LĐ bị thu hồi đất
LAO ĐỘNG THIẾU VIỆC LÀM
Trước khi thu hồi đất
Sau khi thu hồi đất
Tổng số
Tỷ lệ (%)
Tổng số
Tỷ lệ (%)
Tổng số
298
129
43,3
141
47,3
Tp Vinh
50
33
66,0
27
54,0
TX Cửa Lò
86
31
36,1
30
34,5
Huyện Nghi Lộc
162
65
40,1
84
51,8
Nguồn: Điều tra của tác giả luận văn (tháng 4/2008)
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ lao động có việc làm, thiếu việc làm và chưa có việc làm trước và sau khi thu hồi đất
Đơn vị tính: %
Nguồn: Điều tra của tác giả luận văn (tháng 4/2008)
Bảng 2.10: Tỷ lệ lao động thất nghiệp trước và sau khi thu hồi đất
Tên địa bàn
Số LĐ bị thu hồi đất
LAO ĐỘNG THẤT NGHIỆP
Trước khi thu hồi đất
Sau khi thu hồi đất
Tổng số
Tỷ lệ (%)
Tổng số
Tỷ lệ (%)
Tổng số
298
42
14,1
60
20,1
Tp Vinh
50
15
30,0
4
8.0
TX Cửa Lò
86
21
24,4
31
36,1
Huyện Nghi Lộc
162
6
3,7
25
15,4
Nguồn: Điều tra của tác giả luận văn (tháng 4/2008).
Qua khảo sát cho thấy, tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp của lao động bị thu hồi đất diễn ra khá phổ biến, trầm trọng. Trong số 298 lao động bị thu hồi đất được điều tra, đã có 141 người thiếu việc làm và 60 người thất nghiệp, chiếm tỷ lệ 67,4 % tổng số lao động bị thu hồi đất. Nếu tính bình quân thì mỗi hộ giao đất có 1 lao động thiếu việc làm hoặc thất nghiệp và cứ mỗi ha đất Nhà nước thu hồi sẽ có 10 lao động thiếu việc làm và thất nghiệp. Đây là vấn đề bức xúc đối với quá trình phát triển CN không chỉ riêng ở tỉnh Nghệ An, mà còn là hiện tượng khá phổ biến ở các tỉnh trong cả nước.
+ Nhìn chung việc làm của lao động có đất bị thu hồi sau khi bàn giao đất cho Nhà nước là tạm thời và thu nhập thấp:
Phần lớn việc làm của lao động có đất bị thu hồi sau khi bàn giao đất cho Nhà nước đều là những việc làm tạm, có thu nhập thấp, bấp bênh như: phụ hồ, thợ xây, buôn bán rau cỏ, thực phẩm với mức thu nhập chỉ khoảng 500 - 600 ngàn đồng/ tháng. Một số chuyển sang chăn nuôi nhỏ, trồng cây ăn quả hoặc sản xuất tiểu thủ CN như mây tre đan xuất khẩu, chế biến lương thực, mộc… Nhìn chung các công việc này cũng bấp bênh bởi thị trường tiêu thụ không ổn định và thu nhập thấp. Một số ít chuyển sang kinh doanh dịch vụ xung quanh KCN, cụm CN như kinh doanh ăn uống, nhà trọ, trò chơi giải trí… Bảng 2.11. là số liệu điều tra tình hình việc làm của người có đất bị thu hồi mà tác giả tiến hành tại thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò và hai xã có nhiều đất bị thu hối nhất của huyện Nghi Lộc tháng 4/2008.
Bảng 2.11: Tình hình việc làm của người lao động sau thu hồi đất(Từ 298 phiếu điều tra được thu về)
Nội dung việc làm
Số người
Tỷ lệ (%)
N«ng d©n
98
32.89
C«ng nh©n
89
29.87
Hµnh chÝnh
8
2.68
Bu«n b¸n nhá
14
4.70
Bu«n b¸n cã cöa hiÖu
9
3.02
Xe «m
8
2.68
Lµm viÖc kh¸c
36
12.08
Kh«ng cã viÖc lµm
36
12.08
Tổng số
298
100,00
Nguồn: Điều tra của tác giả luận văn (tháng 4/2008).
Đây chỉ là những công việc có thu nhập rất thấp, thất thường. Chỉ có một số ít lao động trẻ, có tay nghề được tuyển dụng vào các KCN, cụm CN hoặc đi lao động xuất khẩu là công việc khá ổn định và có thu nhập cao hơn.
Nguyên nhân của tình trạng những người bị mất việc làm do thu hồi đất, không tìm được việc làm là rất đa dạng, trong đó chủ yếu tập trung vào các nguyên nhân sau: không có việc gì để làm, có nghĩa là cả địa phương và gia đình không tạo được việc làm mới, hoặc sức thu hút thấp không thu hút hết số lao động bị mất việc làm.... Việc làm không phù hợp có nghĩa là việc làm nhưng do trình độ, sức khỏe, tuổi tác, tính kỷ luật của người lao động không đáp ứng được; có việc làm nhưng người lao động không chấp nhận (do lao động vất vả, thu nhập thấp...).
Bảng 2.12 dưới đây là điều tr
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van Toan16.6.doc
- Bia.Mucluc.doc