Luận văn Việc làm và thu nhập ở nông thôn huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hoá

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ VIỆC LÀM VÀ THU NHẬP Ở NÔNG THÔN 6

1.1. Việc làm, thu nhập và đặc điểm của việc làm, thu nhập ở nông thôn 6

1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập ở nông thôn 22

1.3. Kinh nghiệm giải quyết việc làm và thu nhập ở nông thôn một số huyện 41

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ THU NHẬP Ở NÔNG THÔN HUYỆN NÔNG CỐNG TỈNH THANH HOÁ TỪ NĂM 1996 ĐẾN NAY 47

2.1. Đặc điểm giải quyết việc làm và thu nhập cho người lao động nông thôn huyện Nông Cống 47

2.2. Đánh giá thực trạng giải quyết việc làm và thu nhập ở nông thôn huyện Nông Cống từ năm 1996 đến nay 73

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VIỆC LÀM VÀ THU NHẬP Ở NÔNG THÔN HUYỆN NÔNG CỐNG TRONG THỜI GIAN TỚI 85

3.1. Phương hướng giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập 85

3.2. Các giải pháp chủ yếu đảm bảo việc làm và tăng thu nhập của người dân nông thôn huyện Nông Cống trong thời gian tới. 89

KẾT LUẬN 108

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 110

 

 

doc114 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2478 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Việc làm và thu nhập ở nông thôn huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t phi nông nghiệp chiếm 27,75% tương ứng với 7952,94ủtong đó đất chuyên dụng chiếm 3592,86 ha, đất ở chiếm 2197,82ha. Hiện còn 9,85% đất chưa sử dụng, tương ứng với 2824,27 ha. Đất đai của Nông Cống bao gồm các loại: phù sa không được bồi hàng năm, đất mặn ít và đất đồi núi. Nhìn chung đất đai của Nông Cống thích hợp với cây trồng nông nghiệp hàng năm và lâu năm, tạo điều kiện cho huyện có thể phát triển một nền nông nghiệp trồng cây đa canh. Theo bản “Điều tra, nghiên cứu bổ sung xây dung bản đồ thổ nhưỡng”, đất đai của huyện Nông Cống có các loại như sau: - Đất phù sa bão hoà bazơ: có diện tích là 820 ha, nằm ngoài triền đê của các con sông, thuộc địa bàn các xã: Tân Thọ, Tân Khang, Tế Tân, Tế Thắng, Tế Nông, Minh Khôi, Thăng Thọ, Trường Minh. Địa hình cao, độ xốp khá, thành phần cơ giới nhẹ, mùa đông thường hay bị khô hạn. Loại đất này thích hợp cho việc trồng các loại cây ngắn ngày như lạc, đậu đỗ, ngô, khoai lang. - Đất phù sa bão hoà bazơ kết von nông: Có diện tích là 420 ha, nằm dọc theo sông hoặc các dải đất cao trong đồng, địa hình vàn, vàn cao. Đây là loại đất thịt và đất thịt nhẹ, hàm lượng dinh dưỡng khá, phù hợp với một số loại cây trồng ngắn ngày như lạc, đậu đỗ và rau màu. - Đất mặn điển hình glây nông: Có diện tích 400ha, phân bố dọc theo sông Yên và sông Thị Long thuộc đại bàn xã Trường Giang, Trường Sơn, Tượng Văn…, Địa hình thấp trũng, bị nhiễm mặn bởi nước ngầm, thuộc loại đất thịt từ trung bình đến nặng, thường bị lầy thụt khi ngập nước, phù hợp với các loại cây cói, sú, vẹt và nuôi trồng thuỷ sản. - Đất phù sa lầy bão hoà bazơ: diện tích 700 ha, phân bố tại vùng thấp trũng, độ no bazơ cao, thường dùng để cấy một vụ lúa chiêm, tiêu nước kém. Là loại đất thịt từ trung bình đến nặng, hàm lượng đạm và lân giàu nhưng nghèo kali. Phân bố tại các xã: Thọ Bình, Trường Minh, Trường Giang, Tượng Văn, vùng đầm lầy Minh Thọ. - Đất phù sa chua glây nông: Có diện tích 8300 ha, phân bố ở vùng địa hình thấp và vàn thấp. Hàm lượng mùn đạt khá, lân nghèo, Kali trung bình đến nghèo. Cây trồng chủ yếu trên loại đất này là lúa, trồng 2 vụ/năm. - Đất phù sa chua kết von nông: Diện tích vào khoảng 2800 ha, nằm ở địa hình cao, thoát nước tốt, thành phần cơ giới là thịt nhẹ đến cát pha, kết cấu kém, rời rạc. Đất này thường bố trí 3 vụ: 2 lúa 1 màu, hoặc 2 màu 1 lúa. - Đất phù sa biến đổi cơ giới li mon: Diện tích 2500 ha, có nguồn gốc là đất phù sa hình thành trên vùng tiếp giáp giữa trung du với đồng bằng, lớp mặt rời rạc khi khô và chặt khi gặp nước. Rất nghèo dinh dưỡng, thiếu vi lượng. Đất này cần bố trí trồng các cây họ đậu trong cơ cấu mùa vụ, các giống cây trồng cạn có quả, củ để tăng độ phì cảI tạo đất. - Đất xám frtalit kết von sâu: Diện tích 1070 ha, hình thành vùng đồi phù sa cổ, tiếp giáp vùng núi, đồng bằng, thành phần cơ giới thịt nặng, tầng dầy trên 50 cm, kết von trên 15%. Loại đất này thích hợp cho việc trồng cây công nghiệp lâu năm như: dứa, chè, hoặc các loại cây chịu hạn giỏi như ngôn, kê. - Đất đỏ vàng trên macma bazơ trung tính: Diện tích 1500 ha, nằm ở các dãy đồi (Thăng Long, Công Liêm, Tượng Sơn, Yên Mỹ). Loại đất này thích hợp với các loại cây trồng như chè, càphê, cao sau, mía. Hình thành trên địa hình đồi thấp, dốc thoải, tầng đất dầy, thịt trung bình, mịn, kết cấu viên, giàu độ mùn. Loại thích hợp cho trồng cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày, cây ăn quả. - Đất xám Feralit lẫn đá nông: Diện tích 2000 ha nằm ở các đồi núi thấp thuộc xã Công Chính, Công Bình và một số núi lẻ khác. Loại đất này có độ xói mòn trung bình, rất chua, thích hợp với trồng các loại cây công nghiệp dài ngày như cà phên, chè, dứa và các loại cây ăn quả lâu năm. Trên diện tích các loại đất này nen bố trí trồng rừng đẻ tăng độ che phủ đất, chống xói mòn. - Đất xói mòn trơ sỏi đá: Tầng đất mỏng dưới 30 cm gặp đá ong dày phân bố ở các xã Trường Sơn, Công Chính, Tượng Sơn, Tượng Trung, Tượng Lĩnh. Loại đất này chủ yếu dụn đẻ trồng cây lâm nghiệp, cần bố trí các loại cây chịu hạn tốt như cây thông, các loại cây phòng hộ, che phủ đất chống xói mòn như keo tai tượng, keo lá chàm… Nhìn chung, tài nguyên đất của Nông Cống là đa dạng và phong phú, thích hợp cho việc phát triển một nên nông nghiệp đa canh. Đây là một thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp, mặt khác sự đa dạng này cũng hạn chư việc phát triển nền công nghiệp cần nguyên liệu tại đại phương trên quy mô lớn. + Tài nguyên khoáng sản Bên cạnh nguồn tài nguyên đất đa dạng và phong phú, Nông Cống cũng có một số khoảng sản có trữ lượng đáng kể, tạo nền tảng cho ngành công nghiệp khai thác tại địa phương. cụ thể là: - Nguyên liệu luyện kim: Nông Cống có 4 khoáng sản kim loại trên địa bàn với trữ lượng khá, đó là mỏ Crômit Cổ Định chạy dọc theo núi Nưa. Đây là một mỏ có trữ lượng lớn nhất ở VIệt Nam, chừng 28 triệu tấn, chất lượng quặng sau khi tuyển tốt: Crômit đạt 46,0-47,0%, hiện đang được khai thác để phục vụ công nghiệp luyện kim; Mỏ Nilen-Coban Bãi áng đã thăm dò xong. Theo đánh giá ban đầu trữ lượng của mỏ này là khoảng 55.557 tấn, 5 điểm quặng sắt cũng đã khảo sát để làm phụ gia xi măng tại xã Tượng Sơn, với trữ lượng ban đầu là 485.186 tấn, ngoài ra mới phát hiện được mỏ sắt tại Thông Thị Long xã Tuợng Sơn với trữ lượng ban đầu đánh giá là 606.800 tấn; Mỏ Secpenttin Bãi áng trữ lượng 15,354 triệu tấn, hiện nay đang được khai thác phục vụ cho sản xuất phân lân nung chảy hàm lượng MgO đạt 34%, SiO đạt 38% - Khoáng sản phục cho nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng Mỏ đất sét làm gạch ngói Cầu Vạy, Trữ lượng khoảng 32.800 m3; mỏ đá vôi thuộc Yên Thái với diện tích 2-3km3. Đá có màu xám sáng, xám xanh loang lổ, kết cấu dạng khối tới phân lớp dầy, nhiều nứt nẻ, hạt từ trung đến mịn. Trữ lượng khoảng 1,5-2 trăm triệu tấn, là vùng phụ vụ nguyên liệu cho phát triển ngành xi măng. Huyện Nông Cống được đánh giá là huyện có nguồn tài nguyên khoáng sản chiếm ưu thế trong toàn tỉnh tạo điều kiện cho phát triển các ngnàh công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản, vật liệu xây dựng. Đặc biệt là các mỏ Cromit, phụ gia ximăng, Secpentin có trữ lượng lớn. Do đó, nếu được quản lý và khai thác tốt thì chúng sẽ có giá trị kinh tế cao phục vụ cho công nghiệp luyện kim, sản xuất phân bón, cung cấp nguồn phụ gia ximăng không chỉ cho điạ phương, trung ương mà còn là một nguồn xuất khẩu có giá trị. + Tài nguyên nước Nông Cống có một hệ thống sông ngòi tự nhiên và nhiều hồ chứa nước, bên cạnh đó lượng mưa hàng năm lại lớn do đó huyện có nguồn nước mặt dồi dào. Mỗi năm tổng lượng nước do các dòng chảy của sông ngòi cung cấp trung bình là 1 tỷ m3, trong đó lượng nước mưa trên địa bàn là 400 triệu m3, nếu được điều tiết tốt có thể thoả mãn nhu cầu sản xuất và đời sống. Nguồn nước mặt chủ yếu là do các sông Yên, sông Nhơm, sông Hoàng, sông Thị Long, sông Mực, hồ Yên Mỹ cung cấp. Tuy nhiên việc khai thác nguồn nước mặt còn gặp nhiều khó khăn do lượng nước phân bố không đều giữa các mùa trong năm và giữa các khu vực trong địa bàn. Về mùa mưa, vùng Tây Nam của huyện có địa hình dồi núi dốc thường xuyên phải chống chọi với lũ lụt, ngập úng. Về mùa khô thì một số vùng đồi núi do không có sự điêù tiết của kênh Nam nên thường bị hạn hán. Để khai thác tốt nguồn tài nguyên nước này, cần phải đầu tư mở rộng và xây dựng các ao, hồ, đầm để chứa nước, kết hợp với nuôi cá nước ngọt. Đây chính là tiềm năng để có thể tạo ra việc làm cho nhân dân nếu thu hút được nguồn vốn đầu tư. Bên cạnh nguồn nước mặt khá dồi dào, Nông Cống cũng có tài nguyên nước ngầm phong phú. Theo điều tra của Trạm dự báo khí tượng – Thuỷ văn Thanh Hoá thì Nông Cống nằm trên dải nước ngầm của đồng bằng Thanh Hoá với địa chất là trầm tích hệ thứ 4, có 3 lớp ngươc ngầm với bề dày trung bình 60cm3, lưu lượng hố khoan mạnh, có nới tới 22 l/s, độ khoáng hoá từ 1-2,2g/l. Nước có chất lượng tốt, chưa bị ô nhiễm. Nguồn nước này có khả năng đáp ứng đủ nhu cầu nước cho sản xuất tiểu thủ công nghiệp và sinh hoạt hiện tại và trong tương lai. + Tài nguyên rừng Hiện nay huyện Nông Cống có khoảng 2.932,4 ha diện tích rừng và đất lâm nghiệp, trong đó diện đất có rừng bao phủ là 2.177,22 ha, bao gồm rừng tự nhiên chiếm 14,85 ha và rừng trồng chiếm 2.162,7 ha. ý thức được tầm quan trọng của rừng trong việc bảo vệ môi trường đất và môi trường dân sinh, trong những năm qua, Đảng bộ và Uỷ ban nhân dân huyện đã vận động nhân dân thực hiện phong trào trồng mới, khoanh nuôi, chăm sóc bảo vệ cây rừng và trồng rừng phòng hộ, đặc biệt là ở các xã thuộc vùng Tây Nam của huyện, nơi có nhiều đồi núi và có nguy cơ bị xói mòn cao. Tóm lại, đặc điểm tự nhiên của Nông Cống cho thấy có nhiều thuận lợi trong việc tổ chức một nền nông nghiệp đa canh, một nền công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản có nhiều tiềm năng. Đây chính là thuận lợi của việc tạo công ăn việc làm cho nhân dân trong huyện. Mặt khác, sự đa dạng và phong phú của đất đai trong địa bàn một huyện cũng làm cho việc tổ chức sản xuất theo quy mô lớn gặp khó khăn. 2.1.1.1. Đặc điểm kinh tế xã hội a. Đặc điểm kinh tế Huyện Nông Cống có một nền sản xuất đa ngành nghề, trong những năm gần đây đang có nhiều chuyển biến. Bên cạnh những ngành nghề truyền thống cũng đã triển khai nhiều ngành nghề mới để tăng thu nhập và tăng khả năng tạo việc làm cho nhân dân trong huyện. Những nét lớn của kinh tế Nông Cống có thể khái quát như sau: - Nông nghiệp Nông nghiệp của Nông Cống có vai trò chủ đạo trong kinh tế của huyện và chiếm vị trí quan trọng trong kinh tế toàn tỉnh. Việc phát triển nông nghiệp trên điạ bàn huyện nhìn chung là toàn diện, nổi bật là việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng mạnh mẽ cho phù hợp với tình hình hiện tại, ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, tăng mùa vụ, tăng hiệu quả sử dụng đất và năng suất lao động là xu hướng phát triển chính của nông nghiệp Nông Cống trong thời gian gần đây. Huyện đã có những chính sách khuyến khích việc áp dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Hàng năm, diện tích những cây công nghiệp ngắn ngày có năng suất cao, phù hợp với điều kiện đất đai, thổ nhưỡng ngày càng mở rộng. Năng suất và sản lượng cây trồng cũng tăng cao. Những cây trồng chính của Nông Cống là: - Cây lúa: hàng năm diện tích trống lúa cũng có tăng nhưng không đáng kể, huyện chủ trương ổn định diện tích lúa để đầu tư thâm canh tăng năng suất. Năm 1995, diện tích trồng lúa là 19.435 ha, năng suất bình quân 36,39 tạ/ha; năm 2000 diện tích trồng là 19.691 ha, năng suất bình quân 44,03 ta/ha; năm 2005 diện tích trồng là 20.112,6 ha, năng suất bình quân 50,3 tạ/ha. Hàng năm, các giống lúa mới có năng suất cao đều được các xã đưa vào sản xuất. Hiện nay, các giống lúa cao sản này đã trồng trên 80% tổng diện tích trồng lúa. Đó chính là nguyên nhân cơ bản để sản lượng lương thực hàng năm tăng đều đặn, cụ thể là 70.725 tấn, 86.709 tấn và 101.147,9 tấn tương ứng với các năm 1995, 2000, 2005. - Cây ngô là cây luơng thực thứ hai sau lúa được sản xuất tại huyện Nông Cống. Cũng như cây lúa, việc trồng trọt ngô cũng phát triển theo cả hai xu hướng: tăng diện tích trồng và tăng năng suất. Do đó sản lượng ngô cũng tăng đều góp phần làm tăng sản lượng lương thực của huyện. Lấy các mốc 1995, 2000, 2005 để tính diện tích, sản luợng của ngô có các thông số cụ thể sau: năm 1995 diện tích trồng là 255,7 ha, sản lượng là 511,4 tấn; diện tích trồng 247,5 ha, sản lượng 289,6 tấn; diện tích trồng là 1.743,6 ha, sản lượng là 6.852,4 tấn là các thông số tương ứng cho các năm 2000 và 2005. - Cây lạc là loại cây được trồng nhiều ở Nông Cống; diện tích và năng suất của loại cây trồng này biến động không tuyến tính, khi tăng, khi giảm, nếu lấy mốc là những năm 1995, 2000 và 2005 thì biểu đồ của thông số dành cho cây lạc thật thú vị. Năm có diện tích trồng ít nhất thì năng suất lại cao nhất, năm có tổng diện tích trồng lớn nhất thì năng suất lại thấp nhất. Vì thế, tổng sản lượng lạc biến động ít hơn so với diện tích trồng trong những năm khảo sát nêu trên, cụ thể: 1995: diện tích: 635 ha, năng suất: 10,16 tạ/ha, sản lượng 645 tấn; năm 2000: diện tích: 452,6 ha, năng suất: 12,4ta/ha, sản lượng 561 tấn; Năm 2005: diện tích: 632 ha, năng suất: 10,88ta/ha, sản lượng 645 tấn. - Cây mía là một trong những huyện được quy hoạch tạo nuyên liệu mía cho nhà máy đường Nông Cống. Diện tích quy hoạch dành riêng cho loại cây công nghiệp này là 1.200 ha. Tuy nhiên, diện tích quy hoạch cho cây mía không có hệ thống tưới tiêu chủ động, thêm vào đó lại nằm phân tán thành các khu đất nhỏ lẻ ở rải rác nhiều xã, kể cả các xã ở xa nhà máy, nên vẫn chưa thể triển khai sản xuất mía trên toàn bộ diện tích quy hoạch. Trong 5 năm 2000-2005, huyện mới trồng được 1.000-1.100 ha mía, nhưng năng suất thấp và không ổn định, do đó không cung cấp đủ nguyên liệu cho nhà máy theo chỉ tiêu kế hoạch đề ra. - Cây cói là loại cây trồng truyền thống của Nông Cống, là loại cây công nghiệp quan trọng của huyện cung cấp nguyên liệu để phát triển một số ngành thủ công và chế biến hàng xuất khẩu. Diện tích và sản lượng trồng cói cũng tăng đáng kể trong những năm gần đây. Cụ thể: năm 2000: diện tích là 265 ha, sản lượng: 1602 tấn; năm 2005 các thông số tương ứng là: 520 ha và 3106 tấn. Các cây thực phẩm như vừng, rau, đậu các loại cũng được chú trọng phát triển và đạt kết quả khả quan cung cấp đủ cho nhu cầu tại chỗ và một phần cho nhu cầu chung của thị trường huyện. Diện tích của các loại cây trồng này là: 1.471 ha và 2138.8ha vào các năm 2000 và 2005. Nhìn chung về sản xuất nông nghiệp trong những năm gần đây có nhiều biến chuyển đáng khích lệ. Huyện đã chỉ đạo chuyển dịch hợp lý cơ cấu cây trồng theo hướng tránh thiên tai và đạt hiệu quả kinh tế cao. Một số diện tích lúa hay bị úng lụt vào vụ mùa đã chuyển sang trồng vào vụ hè thu, một số diện tích trồng cây lương thực không đạt hiệu quả cao sang trồng cây công nghiệp. Diện tích cây công nghiệp hàng năm đều tăng. Bên cạnh việc phát triển toàn diện ngành trồng trọt thì chăn nuôi cũng là một ngành được quan tâm của huyện. Những năm gần đây do chịu ảnh hưởng những diễn biến phức tạp của tình hình dịch bênh trên toàn quốc chăn nuôi cúng gặp không ít khó khăn, nhưng nhờ các chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi của tỉnh cùng với sự chỉ đạo sát sao của các cấp chính quyền huyện và xã nên việc chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng thuỷ sản đều phát triển. Những nét chính có thể kể đến là: - Gia súc: trâu, bò và lợn là ba loại gia súc chủ yếu của Nông Cống. Bò và lợn có xu hướng phát triển nhanh và đều đặn, còn trâu thì phát triển không ổn định, thậm chí còn có xu huớng giảm. Những thông số sau đây cho thấy rõ xu hướng này: năm 1995: bò: 5734 con, trâu: 10.570 con, lợn: 48.208 con; năm 2000: bò: 6.683 con, trâu: 9.270 con, lợn: 53.350 con; năm 2005: bò: 12.412 con, trâu: 7.438 con, lợn: 64.455 con. Một số giống vật nuôi mới có triển vọng đang được đưa vào chăn nuôi, như giống bò lai Zebu. - Gia cầm: Đàn gia cầm của Nông Cống tăng khá nhanh trong 5 năm từ 2000 đến 2005 số lượng gia cầm nuôi đã tăng lên gần gấp đôi (năm 2000 là 483.710 con; năm 2005: 880.000 con) làm tăng tổng sản lượng thực phẩm từ gia cầm tăng đáng kể, góp phần cải thiện đời sống của nhân dân và thu hút lao động nhàn rỗi. Tỷ trọng của chăn nuôi trong cơ cấu nông nghiệp không ngừng tăng, xác nhận vị trí ngày một quan trọng của ngành này trong kinh tế của huyện. Nếu năm 2000 tỷ trọng của ngành là 23% thì năm 2005 tỷ trọng đó đã là 27,3%. Song song với việc phá triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, nghề nuôi trồng thuỷ sản ở Nông Cống cũng tăng cả về chất lượng và số lượng, tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo. Tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản năm 2005 là 805 ha, tăng 239 ha, sản lượng đạt 854 tấn, tăng 304,3 tấn so với năm 2000. Điều kiện tự nhiên tạo cho Nông Cống tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản lớn trong thời kỳ 2000-2005 huyện đã đầu tư một sự án nuôi tôm công nghiệp tại xã Trường Giang với tổng diện tích là 66 ha. Dự án đã hoàn thành và đua vào nuôi trồng. Tuy nhiên, do thiếu kinh nghiệm quản lý và trình độ kỹ thuật còn tháp nên hiệu của của dự án nuôi trồng này chưa cao. Một đặc điểm nổi bật nữa của nền kinh tế Nông Cống trong những năm gần đây là sự ra đời và phát triển của kinh tế trang trại. Năm 2000, mới có 69 trang trại hoạt động thì năm 2005 đã có 164 trang trại. Những trang trại này đã phát huy được tính đa dạng sinh thái và tài nguyên của Huyện, nhiều trang trại có thu nhập cao từ 50 triệu đồng đến 200 triệu đồng/ năm. Tuy nhiên, kinh tế trang trại chưa phát huy hết tiềm năng, quy mô sản xuất nhìn chung còn nhỏ, trình độ quản lý và trình độ kỹ thuật của các chủ trang trại còn thấp, sản phẩm chủ yếu tiêu thụ ở dạng thô, chưa có thị trường ổn định và chưa phát huy được lợ thế của địa phương. Một trong lĩnh vực được huyện Nông Cống quan tâm trong những năm gần đây là việc khoanh nuôi, trồng mới và phát triển nghề rừng. Trong 5 năm, huyện đã chỉ đạo trồng tập trung 506,3 ha rừng phòng hộ, chăm sóc 1.478 ha rừng trồng, trong đó có khoanh nuôi, tái sinh được 700 ha. Ngoài ra, còn trồng 87,7 vạn cây phân tán, nâng độ che phủ rừng lên cao góp phần bảo vệ môi trường, chống xói mòn cho đất. - Công nghiệp – tiểu, thủ công nghiệp Tình từ khi thực hiện chính sách đổi mới đến nay, đặc biệt là giai đoạn 2000-2005, ngành công nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp của Nông Cống có nhiều khởi sắc. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng đều hàng năm, tính trung bình mỗi năm bình quân tăng 20,1%, cao hơn so với mức tăng bình quân của cả tỉnh 3,2%. Do tính tích cực của cơ chế và chính sách kích cầu qua đầu tư, chính sách thuế và các chính sách tài chính cùng với các biện pháp quản lý thị trường nên nhiều cơ sở quốc doanh đã phục hồi và phát triển. Bên cạnh việc phát triển công nghiệp quốc doanh, công nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp tư nhân cũng phát triển mạnh. Năm 2000, giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh là 22,2 tỷ đồng, năm 2005 đã tăng lên 28,3 tỷ đồng tăng 27,3%. Kể từ khi có Luật doanh nghiệp ra đời cùng với chính sách khuyến khích phát triển ngành tiểu thủ công nghiệp của tỉnh đã tạo điều kiện cho nhiều cơ sở sản xuất tư nhân phát triển mạnh. Tính đến hết năm 2005, trên địa bàn của huyện đã có 3.505 cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp trong đó có hai doanh nghiệp của Trung ương đóng trên địa bàn: nhà máy đường và công ty khai thác Secpentin. Còn lại, đều là các cơ sở sản xuất ngoài quốc doanh. Các mặt hàng công nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp chủ yếu của Nông Cống là: đường, giấy, đá, quặng secpentin, cát xây dung, hàng mộc dân dụng, đá phụ gia ximăng, vôi, chiếu, phân bón, công cụ cầm tay, của sắt…Bảng thống kê dưới đây cho thấy tình hình phát triển và cơ cấu của ngành tiểu, thủ công nghiệp của Nông Cống trong những năm gần đây. Sự phát triển cuả công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã làm thay đổi cơ cấu kinh tế của huyện, thu hút nhiều nhân công từ nông nghiệp sang tham gia sản xuất công nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp. Đặc điểm xã hội Nông Cống là một địa danh có truyền thống lịch sử lâu đời, là huyện có nhiều đóng góp công sức viết nên trang sử vẻ vang của dân tộc trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Nơi đây còn giữ lại nhiều di tích lịch sử và di sản văn hoá cổ truyền. Núi Nưa đã từng là nơi Bà Triệu cho luyện tập quân sĩ, làm căn cứ khởi nghĩa. Trong những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, Nông Cống đã cống hiến nhiều sức người sức của, đặc biệt là các nhân tài. Là một nơi có truyền thống lịch sử văn hoá lâu đời, Nông Cống còn lưu giữ được nhiều giá trị văn hoá cổ truyền, như các lễ hội truyền thống (Lễ hội đề Tam Giang, đền Mưng, Đông cao, Vĩnh Thái)…Nhiều di tích lịch sử văn hoá vật thể cũng còn được gìn giữ và được phong tặng di tích cấp quốc gia như đền thờ Vũ Uy, đền thờ Lê Hiển – Lê Hưu (xã Tân Phúc). Ngoài ra, còn có 18 di tích cấp tỉnh được công nhận như Chùa Vĩnh Thái (Hoàng Giang), thành Nguyễn Chích (Xã Hoành Sơn), các đề thờ như đền thờ Tú Phương, Ngô Quỳnh, Tú Đa, Xa Lý, Đền Mưng, đền bà Triệu, Đền Đỗ Bí…Cảnh quan môi trường mang đậm sắc thái văn hoá nông thôn Việt Nam là tiềm năng để phát triển du lịch sinh thái và văn hoá. Nông Cống là huyện đông dân cư. Dân số toàn huyện tính đến năm 2005 là 188.288 người, mật độ dân bình quân trên toàn huyện là 657người/ km2. Sự phân bố dân cư tại các vùng trong huyện là không đồng đều. Mật độ dân cao nhất là ở thị trấn Chuối. Đến năm 2005, số người ở độ tuổi lao động của huyện chiếm 49,63% dân số (93.440 người). Tỷ lệ tăng dân số trong một số năm gần đây đã giảm do việc thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình. Trong những năm gần đây, điều kiện xã hội của Nông Cống đã được cải thiện rõ rệt, đặc biệt là giai đoạn những năm 2000. Mạng lưới giáo dục đã phát triển trên địa bàn huyện với nhiều hình thức đa dạng. Quy mô giáo dục ngày càng mở rộng theo hướng xã hội hoá giáo dục. Đội ngũ giáo viên được tăng cường cả về chất lượng và số lượng. Cơ sở vật chất đã được củng cố và nâng cấp. Năm học 2005-2006, toàn huyện đã có 76 trường phổ thông tiểu học và trung học, với 21 trường đạt chuẩn quốc gia; 1 trung tâm giáo dục thường xuyên. Huyện đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học trên toàn huyện. Tuy nhiên, về cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành cũng còn nhiều khó khăn, đội ngũ giáo viên vẫn cần phải tiếp tục nâng cao trình độ theo hướng chuẩn hoá. Điều kiện y tế trong huyện cũng cải thiện nhiều. Tính đến năm 2005 huyện có 558 cán bộ y tế, trong đó y, bác sỹ là 199 người. Do thực hiện chủ trương tăng bác sỹ cho các tuyến huyện và xã nên tỷ lệ y bác sỹ tăng nhanh trong những năm gần đây. Hiện huyện có một bệnh viện đa khoa, một trung tâm y tế dự phòng, 100% số xã đã có trạm y tế. Văn hoá thông tin, thể thao cũng có những đóng góp tích cức trong phát triển kinh tế – xã hội. Các phương tiện thông tin đại chúng đã có những bước cải tiến đáng kể cả về nội dung, thời luợng và phương thức thể hiện, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ tuyên truyền kịp thời mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, động viên và cổ vũ các nhân tố tích cực, đấu tranh chống các tệ nạn xã hội. Diện tích phủ sóng phát thanh và truyền hình trung ương và địa phương luôn luôn được mở rộng. Đến nay có 80% số hộ được xem truyền hình. Toàn huyện có 204 làng đạt tiêu chuẩn làng văn hoá. Nông Cống có nhiều tuyến giao thông quan trọng đi qua, gồm quốc lộ 45, đường sắt Bắc Nam, 4 tuyến đường tỉnh lộ và nhiều tuyến đường huyện, xã, thôn xóm. Trong những năm gần đây, hệ thống giao thông trên địa bàn huyện phát triển khá nhanh. Trong 5 năm 2000-2005, huyện đã đầu tư hoàn thành tuyến đường nhựa Minh Nghĩa-Hoàng Giang, Minh Tho – Cầu Trạp, tuyến Chợ Chậm vào mỏ phụ gia xi măng, tuyến Vạn Thiện – Tưọng Sơn. Nhiều cây cầu đã được xây mới, hệ thống giao thông nông thôn được quan tâm, nâng cấp, đặc biệt là chủ trương bê tông hoá đường các thôn đã được nhân dân hưởng ướng mạnh mẽ. Thị trấn Chuối là trung tâm hành chính- chính trị-văn hoá-thương mại của huyện, là đầu mối giao lưu hàng hoá của nhiều điểm dân cư và vùng phụ cận. Tốc độ đô thị hoá của thị trấn này thuộc loại chậm. Tuy diện tích của thị trấn có mở rộng, dân cư tăng nhanh, nhưng kiến trúc đô thị còn chắp vá. Quản lý và quy hoạch chưa được quan tâm đúng mức. Một số thị tứ, trung tâm cụm xã cũng phát triển theo kiểu đô thị ở một số nơi có đường giao thông thuận tiện như: Yên Thái, Cầu Quan, Thăng Long, Thăng Bình, Công Liêm, Công Chín, Công Bình, Tế Lợi, Minh Thọ, Truờng Sơn. Các khu dân cư nông thôn hình thành từ rất lâu đời tập trung thành các làng, bản, thôn, xóm. Trong khuôn viên mỗi hộ, diện tích nhà ở, sân, giếng nước, chuồng trại còn có vườn cây, ao cá. Diên tích đất cư trú của mỗi hộ là 300-400m2, thậm chí có hộ có 500-1.000m2. Khu dân cư nông thôn phát triển theo xu hướng mở rộng các làng, xóm cũ, do đó diện tích khu dân cư mở rộng chủ yếu là đất nông nghiệp xung quanh làng. Việc sử dụng đất đai trong khu dân cư nông thôn những năm gần dây có nhiều điểm tiến bộ. Đã thực hiện mô hình VAC, góp phần nâng cao thu nhập cho các hộ. Một số xã đã hình thành khu trung tâm hoặc cụm dân cư phát triển theo quy hoạch thuận tiện cho việc giao lưu, trao đổi buôn bán và dịch vụ theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. c. Những thuận lợi và khó khăn trong việc giải quyết việc làm và thu nhập trong huyện Nông Cống Những đặc điểm về điều kiện tự nhiên và xã hội trên đây đã tạo cho huyện nhiều thuận lợi cũng như những bất cập trong việc giải quyết việc làm và thu nhập cho người dân nông thôn. Cụ thể là: - Thuận lợi Nông Cống có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội, gần các khu kinh tế động lực, các vùng giàu tiềm năng của tỉnh, điều kiện tài nguyên phong phú, điều kiện đất đai đa dạng phù hợp cho nhiều loại cây trồng phát triển, đặc biệt là cây lúa, cây màu và cây công nghiệp, đồng thời thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi gia súc và đại gia súc. Với khả năng phát triển này sẽ tạo điều kiện hình thành một thị trường lao động với nhu cầu đa dạng và phong phú, giúp huyện thu hút được nguồn nhân lực dồi dào của địa phương và cũng là điều kiện để tăng thu nhập cho nhân dân trong huyện nói chung và nhân dân nông thôn nói riêng; Tiềm năng phát triển ngành trồng trọt đa canh mà ta phân tích trên đâ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLvTranVanTamSua2.doc
  • docBia.doc
Tài liệu liên quan