MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 7
1.1. Quan niệm về công vụ 7
1.2. Quan niệm về cán bộ, công chức 14
1.3. Yêu cầu và nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức 25
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY 40
2.1. Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Phú Thọ hiện nay 40
2.2. Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tại tỉnh Phú Thọ 46
2.3. Đánh giá chung về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Phú Thọ 59
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TẠI TỈNH PHÚ THỌ 65
3.1. Phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tại tỉnh Phú Thọ 65
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dung đội ngũ cán bộ, công chức tại tỉnh Phú Thọ 73
KẾT LUẬN 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107
103 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7479 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tại tỉnh Phú Thọ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, quản lý trẻ giai đoạn 2003-2015; Nghị quyết số 103/2007/NQ-HĐND ngày 31/5/2007 của Hội đồng nhân dân tỉnh về chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2006-2010, định hướng đến 2015; Đề án Đào tạo đội ngũ cán bộ công chức có trình độ cao tỉnh Phú Thọ đến năm 2020... Các chương trình đào tạo được thực hiện theo quy chế do Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành và kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện của Ban Tổ chức Tỉnh ủy. Đối tượng đào tạo áp dụng cho: cán bộ đương chức, dự nguồn quy hoạch trong hệ thống chính trị của tỉnh, ưu tiên cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số có triển vọng, có lý lịch rõ ràng... Nhìn chung, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung được hầu hết các cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm, tạo điều kiện; tình trạng cán bộ "nợ" tiêu chuẩn về trình độ đang giảm dần; việc phối hợp với các cơ quan Trung ương, các cơ sở đào tạo trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngày càng chặt chẽ và đồng bộ hơn; chủ động hơn trong việc mở lớp, chiêu sinh, tuyển sinh, quản lý học viên trong quá trình đào tạo và sử dụng cán bộ sau đại học; kịp thời khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, qua đó đã tạo nên những chuyển biến tích cực về chất lượng và cơ cấu ngạch công chức.
- Về lý luận chính trị: 5 năm qua, đã có gần 900 cán bộ, công chức thuộc các cơ quan đơn vị trong tỉnh tốt nghiệp cử nhân, cao cấp chính trị, hơn 5000 cán bộ, công chức tốt nghiệp trung cấp lý luận chính trị. Nhìn chung người được cử đi học lý luận chính trị đều là cán bộ, công chức đương chức hoặc dự nguồn trưởng, phó phòng. Đến nay đã có 96,2% cán bộ, công chức lãnh đạo diện Tỉnh uỷ quản lý có trình độ cao cấp, cử nhân chính trị, tăng 19,2% so với năm 2003 [18].
- Về chuyên môn, nghiệp vụ: đội ngũ cán bộ, công chức lãnh đạo các cơ quan cấp tỉnh 99,4% có trình độ đại học trở lên, tăng 5,9% so 2002, 21,8% có trình độ trên đại học. Cán bộ, công chức lãnh đạo cấp huyện có 95,3% trình độ đại học trở lên, 6,1% có trình độ trên đại học. Cán bộ, công chức dự nguồn chức danh Tỉnh uỷ quản lý có 100% trình độ cao đẳng, đại học trở lên tăng 5,7% so 2002, trong đó 10,7% có trình độ trên đại học. Ngoài ra các cấp uỷ, chính quyền đã chủ động mở nhiều lớp bồi dưỡng về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, công tác đảng, công tác đoàn thể, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh, chuyên môn nghiệp vụ mới, ngoại ngữ, tin học…vì vậy trình độ cán bộ, công chức ngày một nâng cao [15,16,18,56].
Nhìn chung, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại tỉnh Phú Thọ đã có những bước chuyển biến tích cực, số lượng cán bộ, công chức hàng năm được đào tạo, bồi dưỡng ngày càng tăng, gắn với quy hoạch, sử dụng cán bộ. Tuy nhiên, bên cạnh đó, việc đào tạo, bồi dưỡng vẫn chưa thực sự gắn với cơ cấu phát triển kinh tế của tỉnh. Chưa chú trọng đúng mức đến đào tạo nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, tỷ lệ cán bộ đào tạo trên đại học thấp, chủ yếu tập trung và đào tạo hệ tại chức. Nội dung đào tạo còn trùng lặp, không cần thiết, người có trình độ cử nhân luật, cử nhân hành chính vẫn phải học chương trình chuyên viên, chuyên viên chính. Trình độ ngoại ngữ, tin học và kỹ năng chuyên môn của một số cán bộ, công chức chưa phù hợp để đáp ứng yêu cầu quan hệ công tác. Chưa quan tâm đến đào tạo đội ngũ chuyên gia đầu ngành, nhất là đối với các ngành kinh tế, kỹ thuật phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt, công chức cấp xã đã có nhiều cố gắng song chưa đạt yêu cầu, chất lượng đội ngũ chưa đồng đều, tỷ lệ cán bộ chưa cập chuẩn còn cao.
2.2.4. Điều động, luân chuyển cán bộ, công chức
Thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Chỉ thị số 11-CT/TU ngày 20/8/2002; kế hoạch số 42-KH/TU ngày 9/10/2003 về luân chuyển cán bộ, công chức cấp xã; quyết định số 4247/QĐ-UBND ngày 04/12/2009 về điều động cán bộ, công chức… đồng thời hướng dẫn các cấp ủy đảng, các cơ quan, đơn vị triển khai thực hiện công tác điều động, luân chuyển cán bộ, công chức. Trong quá trình chỉ đạo, thực hiện công tác điều động, luân chuyển cán bộ, công chức, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ luôn lấy quy hoạch cán bộ làm căn cứ, gắn với việc sắp xếp kiện toàn tổ chức, bố trí, sử dụng cán bộ, công chức và quan tâm đến chính sách động viên, hỗ trợ vật chất đối với cán bộ luân chuyển. Theo quy định, căn cứ vào yêu cầu công tác, trình độ năng lực, tư cách đạo đức, cán bộ lãnh đạo từ cấp phó phòng trở lên đều có thể được các cơ quan có thẩm quyền xem xét để bộ nhiệm lại, điều động, luân chuyển đến các vị trí phù hợp. Việc làm này không những có thể bồi dưỡng năng lực, trình độ cho cán bộ, công chức chuẩn bị bổ nhiệm vào chức vụ cao hơn mà còn làm cho công tác cán bộ trở nên cởi mở hơn, cán bộ, công chức phải nỗ lực phấn đấu công tác, học tập và rèn luyện hơn.
Sau hơn 6 năm thực hiện luân chuyển cán bộ, công chức theo tinh thần Nghị quyết số 11-NQ/TU, tỉnh Phú Thọ đã luân chuyển được 680 lượt cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý và dự nguồn các chức danh lãnh đạo, quản lý (có biểu thống kê kèm theo). Trong đó cán bộ, công chức lãnh đạo thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản lý là 190 lượt, 98 cán bộ cấp huyện và 127 cán bộ, công chức lãnh đạo thuộc các sở, ban ngành, đoàn thể tỉnh được thực hiện luân chuyển giữa các phòng ban trong nội bộ. Luân chuyển cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản lý được đặc biệt quan tâm, chú trọng. Nhiều đồng chí có năng lực, nằm trong quy hoạch dự nguồn lãnh đạo tỉnh đã được thực hiện luân chuyển qua nhiều cương vị công tác (có những đồng chí đã được luân chuyển qua 2- 3 chức danh). Nhìn chung, ở bất kỳ cương vị công tác nào, các đồng chí đều khẳng định được khả năng của mình, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, đã và đang là dự nguồn nhân sự chủ chốt của địa phương, đơn vị. Ngoài ra, Tỉnh uỷ đã điều động, bố trí công tác cho hơn 60 đồng chí cán bộ, công chức lãnh đạo thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu trong các giai đoạn.
Tuy nhiên, công tác điều động, luân chuyển cán bộ, công chức của tỉnh mới chỉ thực hiện ở mức độ hẹp. Luân chuyển cán bộ, công chức từ cấp huyện xuống cấp xã chưa nhiều; cán bộ theo quy hoạch còn hạn chế; nguồn cán bộ trong quy hoạch, nhất là cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ xuất thân từ thành phần công nhân còn ít, chưa đảm bảo yêu cầu. Ranh giới phân định cán bộ luân chuyển theo quy hoạch để đào tạo, bồi dưỡng nguồn kế cận với cán bộ, công chức được điều động, bố trí, sắp xếp theo yêu cầu nhiệm vụ có lúc, có nơi chưa thực sự rõ ràng.
2.2.5. Chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức
Cùng với việc thực hiện kịp thời, đầy đủ các chính sách chung của Đảng và Nhà nước đối với cán bộ, Tỉnh uỷ, ủy ban nhân dân tỉnh đã vận dụng ban hành một số chính sách riêng của tỉnh để thu hút, sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức như Quy định 151-QĐ/TU ngày 25/4/2001 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc thực hiện một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức; Quyết định 164-QĐ/TU về nâng lương trước thời hạn; Nghị quyết số 187/2009/NQ-HĐND ngày 24/7/2009 và các Quyết định số 2640/2009/QĐ-UBND, Quyết định số 2641/2009/QĐ-UBND ngày 10/9/2009 của ủy ban nhân dân tỉnh quy định mức hỗ trợ cho cán bộ, công chức, viên chức đi học và mức ưu đãi thu hút người có trình độ cao về tỉnh công tác…
Về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức: Trên cơ sở quy hoạch cán bộ và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức các cơ quan, đơn vị đã thực hiện tốt việc chọn cử và khuyến khích cán bộ, công chức đi học, tạo điều kiện thuận lợi về thời gian, hỗ trợ kinh phí học tập. Tỉnh có chính sách quy định trợ cấp và chế độ ưu đãi đối với cán bộ, công chức đi học như: được hưởng nguyên lương đối với cán bộ, công chức nhà nước; được cấp tiền mua giáo trình, tiền học phí, tiền lệ phí thi, tiền đi thực tập, thuê nhà ở; trợ cấp 1 phần tiền ăn ở xa trường; tiền tàu xe đi về; trợ cấp tiền làm luận án tốt nghiệp, trong đó tiến sỹ khoa học là 30 triệu đồng; tiến sỹ, bác sỹ chuyên khoa cấp II, dược sỹ chuyên khoa cấp II là 20 triệu đồng; thạc sỹ, bác sỹ chuyên khoa cấp I, dược sỹ chuyên khoa cấp I là 15 triệu đồng. Khi được cấp văn bằng học vị, học hàm được hưởng chế độ ưu đãi 1 lần: Giáo sư, Tiến sỹ khoa học là 30 triệu đồng; Phó giáo sư, Tiến sỹ, Bác sỹ chuyên khoa II, Dược sỹ chuyên khoa II: 25 triệu đồng; Thạc sỹ, Bác sỹ chuyên khoa I, Dược sỹ chuyên khoa I: 15 triệu đồng; trợ cấp thêm cho cán bộ nữ đi học ngắn hạn: 200.000đ/tháng, dài hạn 100.000đ/tháng; tiền gửi trẻ cho con nhỏ dưới 24 tháng 300.000đ/tháng đối với các trường trong tỉnh, 500.000đ/tháng đối với các trường ngoài tỉnh [62].
Về chế độ thu hút nhân tài về công tác tại tỉnh: bước đầu đã thu được kết quả tốt. Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học loại giỏi về công tác ở tỉnh những năm gần đây tăng khá. Qua gần 4 năm thực hiện chính sách thu hút cán bộ, công chức, riêng khối các cơ quan hành chính sự nghiệp trong tỉnh đã thu hút được 53 người; trong đó sinh viên tốt nghiệp đại học loại giỏi ở các trường đại học trong cả nước về công tác tại Trường đại học Hùng Vương, Trường trung học phổ thông chuyên Hùng Vương, Khu di tích lịch sử Đền Hùng và một số trường chuyên nghiệp, trường trung học phổ thông trong tỉnh là 28 người [61].
Các cơ quan, đơn vị thường xuyên quan tâm bảo đảm điều kiện làm việc thuận lợi cho cán bộ, công chức; vận dụng thực hiện chính sách tiền lương, chuyển ngạch, nâng ngạch, nâng lương trước thời hạn đối với cán bộ, công chức có thành tích xuất sắc; triển khai có hiệu quả công tác thi đua khen thưởng, tạo động lực tốt cho đội ngũ cán bộ, công chức. Ngoài ra, theo phân cấp quản lý, trên địa bàn tỉnh đã thực hiện các chính sách ưu đãi về chăm sóc sức khoẻ, về thăm hỏi, thăm viếng, tổ chức tang lễ khi cán bộ hoặc người thân từ trần,...Đặc biệt công tác điều dưỡng đối với cán bộ diện chính sách bao gồm cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản lý nghỉ hưu, đại diện gia đình có công với nước, cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ tiền khởi nghĩa, cán bộ được tặng thưởng Huy hiệu 40 năm tuổi đảng trở lên…
2.2.6. Trách nhiệm cán bộ, công chức
Để bảo đảm cho cán bộ, công chức thực thi công vụ một cách thật sự vô tư tận tụy và ngay thẳng, với mục tiêu tăng cường trách nhiệm của cán bộ công chức đối với các hoạt động công vụ của mình, trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật của Đảng và Nhà nước về trách nhiệm công chức, tỉnh Phú Thọ đã ban hành các Quyết định số 3900/2009/QĐ-UBND về việc ban hành quy định về kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện chức trách và nhiệm vụ được giao; Quyết định số 2959/2009/QĐ-UBND ngày 29/9/2009 của ủy ban nhân dân tỉnh về việc ban hành Quy định chế độ trách nhiệm trong thi hành nhiệm vụ, công vụ đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị của nhà nước tại tỉnh Phú Thọ... Theo đó, cán bộ, công chức phải chịu trách nhiệm toàn diện về các hoạt động trong quá trình thực thi công vụ của mình, bao gồm cả trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm vật chất và trách nhiệm hình sự, tùy theo tính chất, mức độ của hành vi khi xảy ra vi phạm. Trong trường hợp cơ quan, đơn vị thực hiện cơ chế điều hành tập thể, khi giải quyết vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của tập thể lãnh đạo, nếu ý kiến của đa số thành viên lãnh đạo là trái với chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước mà người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu được phân công lãnh đạo, quản lý lĩnh vực đó không có ý kiến khác thì phải bị xử lý trách nhiệm nặng hơn một mức so với các thành viên khác trong tập thể lãnh đạo của cơ quan, đơn vị... Việc quy định cụ thể trách nhiệm của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ về cơ bản đã giúp cho cán bộ công chức hiểu và nhận thức rõ hơn về trách nhiệm của mình, đồng thời phát hiện và truy cứu trách nhiệm kịp thời đối với những cán bộ, công chức vi phạm pháp luật. Việc xử lý đã có nhiều chuyển biến, bảo đảm đúng trình tự, thủ tục, đúng người, đúng tội, từng bước hạn chế những vi phạm pháp luật và yếu kém trong hoạt động quản lý, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, củng cố được niềm tin của nhân dân với chính quyền các cấp. Trong 5 năm , Phú Thọ đã tiến hành kỷ luật 27 cán bộ công chức, trong đó: khiển trách là 26 trường hợp; cảnh cáo 01 trường hợp đối với cán bộ lãnh đạo do thiếu tinh thần trách nhiệm trong lãnh đạo, điều hành công vụ.
Mặc dù việc áp dụng và tăng cường trách nhiệm của cán bộ, công chức thời gian qua đã có nhiều tiến bộ tích cực nhưng vẫn chưa tạo được bước chuyển căn bản trong xử lý vi phạm, chưa ngăn chặn và đẩy lùi được tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Tệ tham ô, bòn rút tài sản công, sách nhiễu, lãng phí vẫn tồn tại khá phổ biến ở mức độ và hình thức khác nhau trong đội ngũ cán bộ, công chức, bộ máy lãnh đạo và quản lý, nhất là trong lĩnh vực quản lý nhà đất, xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách; việc kiểm tra uốn nắn và xử lý các sai phạm chưa nghiêm, còn để lại nhiều vụ việc, chưa kiên quyết xử lý kỷ luật đối với những người đứng đầu để xảy ra tham nhũng, lãng phí ở ngành, lĩnh vực, địa phương mình quản lý. Một số cơ quan, đơn vị chưa quy định cụ thể trách nhiệm đối với cán bộ, công chức không chấp hành mệnh lệnh cấp trên, hoặc ban hành quyết định trái pháp luật nhưng không bị xử lý kịp thời, dẫn đến tình trạng kỷ luật, kỷ cương quản lý lỏng lẻo.
Trong quá trình áp dụng trách nhiệm đối với cán bộ, công chức vi phạm pháp luật còn thiếu sự kết hợp giữa các biện pháp trách nhiệm với nhau và với các biện pháp tác động xã hội, đồng thời chưa có biện pháp chế tài đối với các cơ quan, người có thẩm quyền khi không thực hiện quy định này. Vì vậy, vấn đề này trên thực tế xử lý không được thực hiện nghiêm chỉnh.
2.3. Đánh giá chung về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Phú Thọ
2.3.1. Nhận xét chung
2.3.1.1. ưu điểm
Trong quá trình thực hiện các Nghị quyết về chiến lược cán bộ, Tỉnh ủy đã coi trọng lãnh đạo các khâu trong công tác cán bộ; từ tuyển dụng, tiếp nhận, bố trí, sử dụng đến quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, chú trọng đến trình độ, năng lực, phẩm chất chính trị, đạo đức của cán bộ, công chức nên chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị của tỉnh ngày càng được nâng lên.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, công chức trong tỉnh đều giữ vững lập trường tư tưởng, có phẩm chất đạo đức, luôn trung thành và tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của đất nước do Đảng và Nhà nước khởi xướng và lãnh đạo. Có ý thức tôn trọng và biết phát huy quyền làm chủ của nhân dân, giữ được mối liên hệ tốt với nhân dân, có tinh thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật. Đại đa số cán bộ, công chức luôn cần cù, chịu khó học hỏi, đổi mới tư duy, do đó trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức từ tỉnh đến cơ sở tăng lên qua mỗi nhiệm kỳ, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chuyên môn, tạo bước chuyển quan trọng về kinh tế – xã hội, góp phần ổn định chính trị và thúc đẩy sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Cơ cấu độ tuổi trong đội ngũ cán bộ, công chức toàn tỉnh hiện tương đối hợp lý, đảm bảo sự kế thừa giữa các thế hệ cán bộ, công chức. Đội ngũ cán bộ, công chức trẻ; cán bộ nữ; cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số; cán bộ, công chức xuất thân từ công nhân; cán bộ khoa học kỹ thuật, chuyên gia đầu ngành đang từng bước được tăng cường.
2.3.1.2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh Phú Thọ thời gian qua còn bộc lộ những thiếu sót, hạn chế sau:
- Đội ngũ cán bộ, công chức tại tỉnh Phú Thọ tuy đông nhưng trình độ không đồng đều, còn tình trạng vừa thừa, vừa thiếu. Một bộ phận cán bộ, công chức trình độ thấp, năng lực yếu hoặc tinh thần trách nhiệm chưa cao. Không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa được đào tạo cơ bản, hệ thống. Một số cán bộ, công chức chuyển biến tư duy còn chậm, chủ quan, làm việc chủ yếu dựa trên kinh nghiệm, không chịu khó học tập nâng cao trình độ, đúc rút kinh nghiệm dẫn đến bất cập trong xử lý công việc, nhất là những tình huống mới phát sinh từ thực tiễn. Cơ cấu cán bộ đang dần hợp lý nhưng dự báo số cán bộ, công chức thuộc các chuyên ngành khoa học, kỹ thuật, kinh tế sẽ sụt giảm do chính sách động viên, khuyến khích, thu hút nhân lực chất lượng cao vẫn thấp hơn so với khu vực tư.
- Công tác quy hoạch cán bộ, công chức bước đầu đã đi vào nền nếp, song ở một số địa phương, đơn vị chưa thật sự toàn diện, ít tính đột phá. Tỷ lệ cán bộ, công chức đào tạo không cơ bản (tại chức) đưa vào quy hoạch các chức danh lãnh đạo chủ chốt các sở, ngành, đơn vị của tỉnh trong thời gian 05 năm tới còn cao. ở một số huyện, ngành chưa tiến hành xây dựng quy hoạch chức danh lãnh đạo cấp phòng, ban, lãnh đạo cấp xã và các đơn vị trực thuộc.
- Đội ngũ cán bộ, công chức trẻ có kiến thức, trình độ học vấn cao nhưng còn thiếu kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý, chậm được phát hiện và bồi dưỡng đào tạo để đề bạt, bổ nhiệm vào các vị trí tương xứng. Số lượng cán bộ, công chức là nữ giữ vị trí chủ chốt ở các ngành còn ít. Cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số cán bộ, công chức của tỉnh cũng như cán bộ chủ chốt.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức chưa mang tính đồng bộ, chưa thực sự gắn với cơ cấu phát triển kinh tế của tỉnh. Chưa chú trọng đúng mức đến đào tạo nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ, tỷ lệ cán bộ công chức có trình độ trên đại học còn thấp. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã đã có nhiều cố gắng song chưa đạt yêu cầu, chất lượng đội ngũ chưa đồng đều, tỷ lệ cán bộ, công chức chưa cập chuẩn còn cao.
- Trong đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ, công chức ở một số cơ quan, đơn vị vẫn còn tình trạng nể nang, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ chưa đủ tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, khả năng quản lý, chỉ đạo, điều hành. Một số ít hiện tượng thành kiến với cán bộ, công chức, không tạo điều kiện để cán bộ, công chức được thể hiện khả năng, bố trí cán bộ, công chức không hợp lý, đề bạt cán bộ không đúng quy hoạch.
- Các chính sách đãi ngộ về vật chất và tinh thần, thu hút người tài, hỗ trợ cán bộ, công chức học tập nâng cao trình độ tuy đã có song chế độ còn thấp. Cơ sở vật chất, trụ sở làm việc ở một số đơn vị còn nghèo nàn, lạc hậu dẫn đến chưa động viên khuyến khích được cán bộ, công chức phấn đấu phát huy hết khả năng trong thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao.
- Một bộ phận cán bộ, công chức sa sút về phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm kém, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, hách dịch, sách nhiễu nhân dân. Tư tưởng cục bộ, bè phái, ý thức tổ chức kỷ luật trong cơ quan nhiều nơi còn buông lỏng, để xảy ra tình trạng cán bộ, công chức đi muộn về sớm. Việc thực hiện Quy chế văn hóa công sở chưa nghiêm. Tình trạng lãng phí tài sản nhà nước, lãng phí thời gian công sở vẫn chưa được khắc phục; sử dụng xe công không đúng đối tượng, tiêu chuẩn; vấn đề công tác phí còn nhiều bất cập, không phù hợp với thực tế.
2.3.2. Nguyên nhân
2.3.2.1. Nguyên nhân ưu điểm
- Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, nghị quyết đúng đắn, kịp thời và toàn diện trên tất cả các mặt về công tác tổ chức cán bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên cơ sở đó, Tỉnh uỷ, ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ đã nghiên cứu, quán triệt và vận dụng sáng tạo, sát với tình hình của địa phương để tạo nguồn và tạo điều kiện cho cán bộ, công chức phát triển.
- Nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc tập thể có thẩm quyền quyết định về cán bộ, công chức được thực hiện ngày càng nghiêm túc góp phần phát huy được trách nhiệm của cấp uỷ các cấp, các tổ chức trong hệ thống chính trị, của cơ quan tham mưu và người đứng đầu.
2.3.2.2. Nguyên nhân hạn chế
* Nguyên nhân khách quan
- Thể chế pháp luật để quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội còn lỏng lẻo và nhiều kẽ hở là điều kiện để phát sinh những vi phạm về đạo đức, phẩm chất của người cán bộ, công chức. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đội ngũ cán bộ, công chức tuy đã từng bước được hoàn thiện nhưng đến nay còn nhiều bất cập, đặc biệt về phân cấp quản lý cán bộ, công chức. Các quy định, chính sách về cán bộ, công chức khi cần chỉnh sửa đều phải chờ Trung ương sửa đổi và thường bị chậm nhiều so với thực tế.
- Mặc dù các chính sách về tiền lương và thu nhập của cán bộ, công chức thời gian qua luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, cải cách và chấn chỉnh nhưng vẫn không theo kịp tình hình kinh tế - xã hội. Tiền lương và thu nhập của cán bộ, công chức chưa đủ nuôi sống bản thân và gia đình ở mức trung bình, chưa tương xứng với khu vực tư do đó tình trạng "chảy máu chất xám" trong khu vực công ngày một gia tăng, đồng thời cũng là nguyên nhân gây nên tình trạng tham nhũng, tiêu cực trong cán bộ, công chức; làm cản trở công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức nói riêng và đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước nói chung.
* Nguyên nhân chủ quan
- Khả năng dự báo và đánh giá đúng những nhân tố ảnh hưởng đến tiến trình xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức như xu thế toàn cầu hóa với những diễn biến nhanh chóng, phức tạp của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mặt trái của nền kinh tế thị trường, cũng như đặc điểm hoạt động và sinh hoạt của đội ngũ cán bộ, công chức trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế- xã hội còn kém và bị động. Có những cấp ủy, người đứng đầu tổ chức chưa đầu tư đúng mức thời gian, công sức cho công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hoặc giao phó công tác này cho cơ quan chuyên môn; chưa cụ thể hóa nội dung quy định về phân công, phân cấp quản lý cán bộ, công chức phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ chính trị và thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức của cơ quan, đơn vị mình; chưa thực sự coi trọng vai trò của các tổ chức, các lực lượng và của quần chúng trong việc tham gia quản lý, giám sát đội ngũ cán bộ, công chức.
- Việc cụ thể hoá các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức, luân chuyển cán bộ, công chức lãnh đạo và các chủ trương có liên quan đến công tác cán bộ còn chậm hoặc xây dựng văn bản cụ thể hoá chưa thật sự phù hợp với thực tiễn địa phương, chưa đồng bộ, sự phối kết hợp giữa các cơ quan chưa chặt chẽ, thiếu sự tổng kết, đánh giá kịp thời sau mỗi giai đoạn dẫn đến trong thực hiện còn nhiều hạn chế. Công tác nhận xét, đánh giá cán bộ, công chức có lúc, có nơi còn nể nang, không thực chất. Trong bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm chưa thực sự quan tâm tăng cường đội ngũ cán bộ, công chức xuất thân từ công nhân, cán bộ khoa học kỹ thuật.
- Trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức còn bất cập có nguyên nhân do lịch sử để lại dẫn đến tác phong tuỳ tiện, ý thức kỷ luật kém. Kinh nghiệm, trình độ, kiến thức không đồng đều, phần lớn chưa được đào tạo hoàn chỉnh theo tiêu chuẩn ngạch bậc; một bộ phận có trình độ lý luận chính trị lại thiếu trình độ chuyên môn và ngược lại; một số cán bộ, công chức hạn chế về năng lực điều hành, quản lý nhưng chưa thể thay thế nên chất lượng, hiệu quả công tác thấp.
- Phú Thọ là một tỉnh miền núi nghèo, các quy định về chế độ đãi ngộ cho cán bộ, công chức còn hạn chế, đa số những người có thực lực giỏi đều thoát ly làm việc ở các vùng kinh tế lớn dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám làm tỉnh thiếu hụt cán bộ, công chức chất lượng cao, các chuyên gia đầu ngành hầu như không có.
- Đội ngũ cán bộ, công chức trong tỉnh tuổi đời bình quân và tính ổn định còn cao, nhất là cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh và huyện nên khó thực hiện trẻ hoá và gặp khó khăn trong thực hiện quy trình điều động, luân chuyển. Việc tuyển dụng cán bộ, công chức bằng xét tuyển được thực hiện trong thời gian tương đối dài; chủ trương thực hiện tuyển dụng cán bộ, công chức tốt nghiệp đại học hệ chính quy chỉ mới được thực hiện trong những năm gần đây nên chưa tạo được một đội ngũ đông đảo trí thức trẻ trong toàn đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh.
- Việc quản lý, nắm bắt tình hình đội ngũ cán bộ, công chức trong toàn tỉnh còn hạn chế do chưa thiết lập được hệ thống cơ sở dữ liệu đồng bộ, thống nhất để cập nhật, theo dõi thường xuyên, làm khó khăn cho công tác quản lý và xây dựng quy hoạch, kế hoạch liên quan đến đội ngũ cán bộ, công chức.
Chương 3
Phương hướng và giảI pháp xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức tại tỉnh phú thọ
3.1. phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tại tỉnh Phú Thọ
3.1.1. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ
Trong quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của Phú Thọ giai đoạn 2010- 2015 và định hướng đến năm 2020 được tỉnh xác định là:
- Tạo chuyển biến cả về tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế với mức cao hơn nhiệm kỳ trước, tăng trưởng đi đôi với phát triển bền vững, bắt nhịp với đà phát triển chung của cả nước; phấn đấu đến năm 2010, cơ bản ra khỏi tỉnh nghèo. Tiếp tục đổi mới toàn diện, khai thác tiềm năng, thế mạnh để phát triển, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; xác định khâu đột phá quan trọng là “Phát triển kết cấu hạ tầng”. Nâng cao hiệu quả các nguồn lực đầu tư, cải thiện chất lượng kết cấu hạ tầng, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tại tỉnh Phú Thọ hiện nay.doc