MỞ ĐẦU. 1
1. Lý do chọn đề tài luận văn . 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn . 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn. 5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn . 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn. 7
7. Kết cấu của luận văn . 7
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ LÝ KỶ LUẬT
CÔNG CHỨC TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC . 8
1.1. Khái niệm, nguyên tắc, ý nghĩa và điều kiện bảo đảm thực hiện việc xử
lý kỷ luật công chức trong cơ quan hành chính nhà nước . 8
1.1.1. Khái niệm . 8
1.1.2. Nguyên tắc xử lý kỷ luật công chức. 15
1.1.3. Ý nghĩa của việc xử lý kỷ luật công chức. 21
1.1.4. Các điều kiện bảo đảm thực hiện xử lý kỷ luật công chức trong cơ
quan hành chính nhà nước . 23
1.2. Điều chỉnh pháp luật về xử lý kỷ luật công chức trong cơ quan hành
chính nhà nước . 24
1.2.1. Nội dung và hình thức xử lý kỷ luật công chức. 24
1.2.2. Thẩm quyền xử lý kỷ luật công chức . 32
1.2.3. Quy trình xử lý kỷ luật công chức . 34
Chương 2: TÌNH HÌNH VI PHẠM KỶ LUẬT VÀ XỬ LÝ KỶ LUẬT
CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ
NƢỚC TẠI TỈNH NINH THUẬN . 49
127 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 23/02/2022 | Lượt xem: 527 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xử lý kỷ luật công chức trong cơ quan hành chính nhà nước - Từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được cơ quan có thẩm quyền giao
hàng năm. Theo đó tại hai thời điểm năm 2010 và năm 2016 CC thuộc các cơ
quan hành chính nhà nước tỉnh Ninh Thuận như sau:
- Tổng số CC được tuyển dụng vào làm việc trong các cơ quan hành
chính nhà nước tỉnh Ninh Thuận tại thời điểm năm 2010 là 2.447 người/2.679
định biên (biên chế cấp có thẩm quyền được giao). Trong đó, CC thuộc các cơ
quan hành chính nhà nước cấp tỉnh là 1.180 người/1.186 định biên; cấp huyện
là 618 người/621 định biên; cấp xã là 649 người/872 định biên.
51
- Tổng số CC được tuyển dụng vào làm việc trong các cơ quan hành
chính nhà nước tỉnh Ninh Thuận tại thời điểm năm 2016 là 2.516 người/2.720
định biên. Trong đó, CC thuộc các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh là
1.186 người/1.223 định biên; cấp huyện là 621 người/625 định biên; cấp xã là
709 người/872 định biên.
Tình trạng vi phạm kỷ luật của một bộ phận CC nói chung và CC tỏng
các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng trong những năm qua diễn biến
phức tạp, với số lượng ngày càng nhiều, hình thức biểu hiện đa dạng không
chỉ tại tỉnh Ninh Thuận mà trên phạm vi cả nước; đây thật sự là một rào cản
trong quá trình đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước.
Trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2016 tổng số CC vi phạm pháp
luật trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp tại tỉnh Ninh Thuận phải
XLKL là 178 người. Trong đó, CC bị XLKL công tác tại các cơ quan hành
chính nhà nước cấp tỉnh là 50 người; CC bị XLKL công tác tại các cơ quan
hành chính nhà nước cấp huyện 42 người và CC bị XLKL công tác tại các cơ
quan hành chính nhà nước cấp xã là 86 người.
Những lý do khiến CC vi phạm kỷ luật chủ yếu liên quan đến các vấn
đề như: chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, phẩm chất đạo đức, thực
hiện công tác an sinh xã hội, quản lý đất đai, thu chi ngân sách, chấp hành kỷ
luật, kỷ cương của đơn vị, những việc CC không được làm theo quy định của
Luật CBCC, vấn đề tham nhũng, v.v..
Vấn đề tham nhũng trong đội ngũ CC là một vấn đang được dư luận
quan tâm. Theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) thì Việt Nam
thuộc nhóm nước tham nhũng nghiêm trọng, (Theo tiêu chí của TI, thang
điểm là 10; những nước có điểm dưới 3 được coi là tham nhũng nghiêm
trọng). Những năm gần đây, chỉ số cảm nhận tham nhũng của Việt Nam được
xếp như sau: năm 2007 đạt 2,6 điểm, xếp thứ 123/179 quốc gia và vùng lãnh
52
thổ được xếp hạng; năm 2008 đạt 2,7 điểm, xếp thứ 121/180; năm 2009 đạt
2,7 điểm, xếp thứ 120/180; năm 2010 đạt 2,7 điểm, xếp thứ 116/178; năm
2011 đạt 2,9 điểm, xếp thứ 112/182; từ năm 2012 đến 2015 đạt 3,1 điểm; năm
2016 tăng nhẹ lên 3,5 điểm, xếp thứ 113/176. Đây được coi như là chỉ báo
tích cực đối với các nỗ lực phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua. Tuy
nhiên, xét trên thang điểm từ 0 - 10 của CPI (trong đó điểm 0 là rất tham
nhũng và điểm 10 là rất trong sạch), vấn đề tham nhũng trong khu vực công ở
Việt Nam vẫn được coi là rất nghiêm trọng. Kết quả này cũng khẳng định
đánh giá của Đảng và Nhà nước ta về tình trạng tham nhũng tại Việt Nam.
Theo đánh giá của TI, ở châu Á, tình hình tham nhũng ở Việt Nam
nghiêm trọng hơn so với Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Brunei, Malaysia,
Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia... nhưng ít nghiêm trọng hơn Mông Cổ,
Philippines, Lào, Nepal, Campuchia, Myanmar... Tóm lại, tình hình tham
nhũng ở Việt Nam là nghiêm trọng, với những biểu hiện vừa tinh vi, phức tạp,
vừa trắng trợn, lộ liễu, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, có
những điểm giống và khác nhau so với tình hình tham nhũng ở các nước
khác, nhưng đặc điểm nổi bật là tính phổ biến. Trước đây, tham nhũng chủ
yếu xảy ra trong các lĩnh vực kinh tế, nhưng ngày nay đã lan sang các lĩnh
vực vốn được coi trọng về đạo lý như giáo dục, y tế, thực hiện chính sách xã
hội, nhân đạo, từ thiện, phòng, chống dịch bệnh,v.v..
2.2. Tình hình xử lý kỷ luật công chức hành chính trong cơ quan
hành chính nhà nƣớc tại tỉnh Ninh Thuận
2.2.1. Kết quả xử lý kỷ luật công chức hành chính trong cơ quan
hành chính nhà nước tại tỉnh Ninh Thuận giai đoạn từ 2010 đến 2016
Vấn đề XLKL CC trong các cơ quan hành chính nhà nước là một vấn
đề đã và đang được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và của toàn thể nhân
dân ta. Nhìn chung, trong những năm qua, ý thức chấp hành kỷ luật của CC
53
trong các cơ quan hành chính nhà nước tại tỉnh Ninh Thuận đã được nâng lên.
Tuy nhiên, hoạt động công vụ của một bộ phận CC chưa được quản lý và
kiểm soát chặt chẽ, thống nhất; các sai phạm, tiêu cực về tác phong, lề lối làm
việc của CC đã và đang làm giảm sức sáng tạo, chất lượng trong hoạt động
công vụ phục vụ người dân. Các biểu hiện về thiếu tinh thần trách nhiệm, yếu
kém về năng lực và trình độ nghề nghiệp, phiền hà, sách nhiễu người dân,
tham nhũng, tiêu cực vẫn tồn tại trong đội ngũ CC, làm ảnh hưởng đến lòng
tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước. Ở nhiều nơi, vẫn còn xảy ra tình
trạng CC vi phạm kỷ luật.
Trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2016 các cấp có thẩm quyền
thuộc các cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Ninh Thuận đã xem xét XLKL
178 công chức vi phạm pháp luật. Trong đó, XLKL bằng hình thức khiển
trách 61 trường hợp; cảnh cáo 45 trường hợp; hạ bậc lương 17 trường hợp;
giáng chức 15 trường hợp; cách chức 19 trường hợp và buộc thôi việc 21
trường hợp.
Về thẩm quyền XLKL: Việc XLKL CC trong các cơ quan hành chính
nhà nước tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua bảo đảm đúng quy định của
pháp luật về thẩm quyền XLKL và quy định về phân cấp quản lý cán bộ, công
chức tại tỉnh Ninh Thuận. Trong đó Chủ tịch UBND tỉnh XLKL 25 trường
hợp; các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh XLKL 43 trường hợp và
UBND cấp huyện XLKL 110 trường hợp.
Về trình tự thủ thực hiện việc XLKL CC trong các cơ quan hành chính
nhà nước tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua cơ bản tuân thủ đúng quy định
của Luật CBCC, Nghị định 34, Nghị định 112 và các quy định khác của pháp
luật về CC và XLKL CC. Có thể nêu ra một ví dụ cụ thể trong việc XLKL CC
đúng quy định pháp luật tại một cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Ninh
Thuận như sau:
54
Năm 2014, Sở N, phát hiện ông C, CC phòng T, thuộc Sở N có hành vi
vi phạm pháp luật trong việc lợi dụng chức vụ nhận tiền của các đối tượng
liên hệ công việc trái pháp luật vì mục đích vụ lợi.
Theo quy định hiện hành thì Sở N là cơ quan quản lý ông C; do đó căn
cứ quy định tại khoản 2, Điều 15 Nghị định 34 thì việc XLKL ông C thuộc
thẩm quyền của Giám đốc Sở N. Căn cứ quy định tại khoản 2, Điều 6 Nghị
định 34, Giám đốc Sở N có thông báo bằng văn bản về việc xem xét XLKL
đối với ông C.
Thực hiện thông báo của Giám đốc Sở N, căn cứ Điều 16 Nghị định 34,
Trưởng phòng T - người đứng đầu cơ quan công tác cấu thành thuộc Sở N tổ
chức cuộc họp Phòng T để kiểm điểm đối với ông C, thành phần dự họp là
toàn thể CC của phòng T. Sau khi ông C trình bày bản tự kiểm điểm, tự nhận
hình thức kỷ luật, cuộc họp phân tích và tiến hành bỏ phiếu kín biểu quyết đề
nghị áp dụng hình thức kỷ luật đối với ông C. Phòng T có biên bản họp kiểm
điểm và kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật cảnh cáo gởi lên Giám đốc Sở N.
Sở N - cơ quan sử dụng ông C tổ chức họp kiểm điểm ông C, với thành
phần dự họp gồm Phó Giám đốc Sở N – Chủ trì cuộc họp, Bí thư đảng uỷ Sở
N, Chủ tịch Công đoàn cơ sở cơ quan Sở N và ông C. Qua kiểm điểm, cuộc
họp tiến hành bỏ phiếu kín biểu quyết áp dụng hình thức kỷ luật đối với ông
C. Cuộc họp có biên bản và kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật cảnh cáo gởi
lên Giám đốc Sở N.
Căn cứ khoản 1, Điều 17 và khoản 2 Điều 18, Nghị định 34, Giám đốc
Sở N ban hành quyết định thành lập Hội đồng kỷ luật đối với ông C có 5
thành viên, gồm: Phó Giám đốc Sở N (làm Chủ tịch Hội đồng), Chủ tịch
Công đoàn cơ sở cơ quan Sở N, Trưởng phòng T, 01 CC công tác tại phòng
T, Trưởng phòng Tổ chức thuộc Sở N kiêm thư ký. Hội đồng kỷ luật tiến
hành họp theo trình tự, thủ tục quy định tại Điều 19 Nghị định 34. Sau khi các
55
thành viên Hội đồng kỷ luật và ông C phát biểu ý kiến, Hội đồng kỷ luật tiến
hành bỏ phiếu kín kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật, kết quả 5/5 nhất trí đề
nghị áp dụng hình thức kỷ luật cảnh cáo đối với ông C. Hội đồng kỷ luật có
biên bản họp và kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật gởi lên Giám đốc Sở N.
Qua xem xét kiến nghị của Hội đồng kỷ luật, Giám đốc Sở N ra quyết
định XLKL cảnh cáo đối với ông C theo quy định tại Điều 20 Nghị định 34.
Nhìn chung, trong những năm qua đội ngũ CC nước ta nói chung và
trong các cơ quan hành chính nhà nước tại tỉnh Ninh Thuận nói riêng đã từng
bước được nâng cao và phát triển cả về số lượng và chất lượng, từng bước
đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của nền công vụ phục vụ nhân dân.
Kỷ luật trong đội ngũ CC hành chính trong các cơ quan hành chính nhà nước
tại tỉnh Ninh Thuận từng bước được nâng cao, các trường hợp vi phạm kỷ luật
đa số được xử lý nhanh chống và kịp thời nhằm răn đe, giáo dục hạn chế tình
trạng vi phạm kỷ luật. Công tác XLKL luôn được tăng cường và chú trọng,
phần lớn các CC có phẩm chất đạo đức tốt, năng động, sáng tạo và có nhiều
thành tích trong công việc. Phần lớn các trường hợp vi phạm được xem xét,
xử lý một cách nghiêm minh, chấp hành nghiêm chỉnh những chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Có thể kể đến những kết quả
đạt được chủ yếu sau:
Thứ nhất, đa số các trường hợp CC vi phạm kỷ luật được xem xét xử lý
một cách nghiêm minh và đúng pháp luật. Đa số CC tuân thủ kỷ luật và chấp
hành nghiêm chỉnh những quy định, kỷ cương cũng như phép tắc của đơn vị
và tuân thủ pháp luật.
Thứ hai, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên tổ
chức tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ CC nhằm nâng cao
nghiệp vụ công tác, phần lớn CC nhiệt tình và có trách nhiệm với công việc.
56
Thứ ba, hệ thống văn bản pháp luật về XLKL CC tương đối hoàn
chỉnh, phục vụ có hiệu quả cho công tác XLKL, đa số các cơ quan hành chính
nhà nước có thẩm quyền XLKL CC trong tỉnh đã áp dụng có hiệu quả các quy
định tại Luật CBCC; Nghị định 34; Nghị định112, Nghị định 157; Nghị định
107 và các quy định khác của pháp luật kiên quan đến trách nhiệm kỷ luật của
CC và XLKL CC.
Thứ tư, đa số CC có tư tưởng vững vàng, có phẩm chất đạo đức, có ý
thức tôn trọng và chấp hành kỷ cương, kỷ luật, luôn cần cù, chịu khó học hỏi
để nâng cao trình độ mọi mặt và có tư duy sáng tạo, yêu nghề và có trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ khá cao.
Thứ năm, việc XLKL được thực hiện đúng nguyên tắc, nội dung, hình
thức, thẩm quyền cũng như thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của
pháp luật. Có quan tâm tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ công
tác XLKL cho đội ngũ CBCC làm công tác XLKL CC; nâng cao khả năng,
kiến thức cho CC về khả năng nắm bắt, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm.
Nội dung XLKL được người có thẩm quyền nắm bắt và vận dụng một cách có
hiệu quả.
Thứ sáu, phần lớn những người có thẩm quyền XLKL trong các các cơ
quan hành chính nhà nước đều có đủ năng lực để thực hiện việc XLKL, có
trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ XLKL CC; hầu hết các trường hợp
CC vi phạm kỷ luật đã được các cấp có thẩm quyền XLKL có tình, hợp lý,
đúng nguyên tắc XLKL CC theo quy định pháp luật, nên không có trường
hợp nào khiếu nại, khởi kiện quyết định kỷ luật sau khi bị XLKL.
Thứ bảy, được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, đại bộ
phận CC hăng hái thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, công tác tư
tưởng của đội ngũ CC luôn ổn định và có sự phát triển rõ nét, luôn phát huy
tinh thần đoàn kết và vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.
57
2.2.2. Những hạn chế trong công tác xử lý kỷ luật công chức hành
chính trong cơ quan hành chính nhà nước tại tỉnh Ninh Thuận giai đoạn
từ 2010 đến 2016
Bên cạnh những kết quả đạt được thì việc XLKL CC hành chính trong
các cơ quan hành chính nhà nước tại tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua
cũng còn không ít những khó khăn, hạn chế, sai sót cần được xem xét, phân
tích làm rõ để có hướng sửa chữa, khắc phục trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, hiện nay, tình hình vi phạm kỷ luật của đội ngũ CC trong các
cơ quan hành chính nhà nước tại tỉnh Ninh Thuận vẫn còn xảy ra với những
mức độ, tính chất ngày càng phức tạp, việc chấp hành kỷ luật của một bộ
phận CC chưa nghiêm túc, kỷ luật, kỷ cương ở một số nơi vẫn còn lỏng lẽo,
chưa được nề nếp.
Thứ hai, nhận thức về hoạt động công vụ của đội ngũ CC và cơ chế
quản lý CC chưa đổi mới kịp thời với những thay đổi về nhiệm vụ của Nhà
nước trong cải cách nền hành chính Quốc gia và trong thực thi công vụ. Tư
duy về các hoạt động công vụ của một bộ phận CC vẫn mang dấu ấn của thời
kỳ kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp. Trong nhiều lĩnh vực, hoạt
động công vụ của CC còn tình trạng vi phạm về chất lượng, đạo đức và kỷ
luật, kỷ cương hành chính. Việc đánh giá, phân loại CC chưa bảo đảm khoa
học, khách quan dẫn đến việc tuyển dụng, bố trí, quy hoạch, đánh giá và đào
tạo, bồi dưỡng CC chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra, ảnh hưởng đến
việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CC.
Thứ ba, thực trạng tổ chức tuyển dụng, sử dụng và quản lý CC còn
chậm đổi mới, chưa phù hợp với điều kiện trong tình hình mới; chưa phát huy
được tài năng , sức sáng tạo của CC. Hoạt động công vụ của một bộ phận CC
hiện nay chưa được quản lý và kiểm soát chặt chẽ, thống nhất; các sai phạm
và hành vi tiêu cực về tác phong, lề lối làm việc của CC đã và đang làm giảm
58
sức sáng tạo, chất lượng trong hoạt động công vụ trong các cơ quan hành
chính nhà nước. Các biểu hiện về thiếu tinh thần trách nhiệm , yếu kém về
năng lực và trình độ nghề nghiệp, phiền hà, sách nhiễu người dân vẫn tồn tại
trong một bộ phận CC, làm ảnh hưởng đến lòng tin của người dân đối với
Đảng và Nhà nước.
Thứ tư, một bộ phận CC còn tình trạng sa sút về phẩm chất đạo đức,
tinh thần trách nhiệm kém, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, hách dịch, sách
nhiễu nhân dân, tư tưởng cục bộ, bè phái, ý thức kỷ luật ở nhiều nơi còn
buông lỏng để xảy ra tình trạng CC đi muộn, về sớm, một số trường hợp còn
đánh bạc, rượu chè, thiếu ý thức trách nhiệm và tinh thần phục vụ, “vô cảm”
trước những yêu cầu bức xúc chính đáng của nhân dân và xã hội.
Thứ năm, hệ thống pháp luật về XLKL CC tuy đã có bước hoàn thiện
những vẫn còn phức tạp, nằm rãi rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau,
một số quy định còn chung chung, nhất là quy định về trách nhiệm kỷ luật đối
với CC trên nhiều lĩnh vực chưa được cụ thể, rõ ràng, trong nhiều trường hợp
khó quy trách nhiệm cá nhân đối với những khuyết điểm, sai phạm của cơ
quan, đơn vị. Một số trường hợp còn gặp khó khăn về việc áp dụng thời hiệu
XLKL CC. Các hình thức XLKL CC còn ở mức độ nhẹ nên chưa có tính răn
đe cao.
Thứ sáu, thực tế cho thấy, hành vi vi phạm của CC rất tinh vi, có sự liên
kết giữa các đối tượng với nhau, nhất là người lãnh đạo. Khi phát hiện một
đối tượng vi phạm thường kéo theo nhiều đối tượng có liên quan có hành vi
che dấu, móc nối trong quá trình vi phạm nên việc phát hiện hành vi vi phạm
gặp rất nhiều khó khăn.
Thứ bảy, chất lượng của một bộ phận CC hiện nay vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu của nhân dân và nhiệm vụ trong tình hình mới. Mặc dù công tác
đào tạo, bồi dưỡng được chú trọng, số lượng CC qua các khoá đào tạo, bồi
59
dưỡng khá lớn, nhưng nhìn chung chất lượng, nhất là trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ còn hạn chế. Bằng cấp, chứng chỉ tăng, nhưng chất lượng thật sự
đang là vấn đề đáng lo ngại.
Thứ tám, một bộ phận CC còn thiếu trách nhiệm, chưa thực hiện tốt
chức trách, nhiệm vụ được giao, thiếu kiểm tra, đôn đốc để xảy ra tham
nhũng, lãng phí. Ở một số nơi, tình hình vi phạm kỷ luật của CC vẫn còn xảy
ra và với mức độ, tính chất vi phạm ngày càng phức tạp, tinh vi. Một số CC
không chịu tu dưỡng, rèn luyện. Vì vậy, việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật ở
một số cơ quan hành chính nhà nước còn chưa nghiêm túc.
Thứ chín, việc XLKL CC hành chính trong các cơ quan hành chính nhà
nước tại tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua đối với một số trường hợp chưa
thực hiện đúng quy định pháp luật. Cụ thể như sau:
Một là, chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật về nguyên tắc
XLKL nghiêm minh, đúng pháp luật đối với công chức vi phạm. Ví dụ một số
trường hợp cụ thể như sau:
Trường hợp 1: Năm 2011 tổ chức đảng có thẩm quyền thuộc Tỉnh ủy
Ninh Thuận tiến hành kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm theo thẩm
quyền, kết luận ông C, Giám đốc Trung tâm T (đơn vị sự nghiệp công lập),
thuộc Sở K thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện các dự án dẫn đến một số
dự án chậm tiến độ, không phát huy hiệu quả; cố ý làm trái nguyên tắc tài
chính trong việc quản lý, sử dụng nguồn vốn các dự án của đơn vị vì vụ lợi cá
nhân và tập thể, vi phạm nghiêm trọng Luật Kế toán và Luật PCTN gây thất
thoát ngân sách nhà nước 312.725.200 đồng. Các cấp có thẩm quyền XLKL
cách chức về Đảng và hành chính đối với ông C.
Theo qui định tại khoản 4, Điều 3 Luật PCTN thì: một trong những
hành vi tham nhũng là: “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành
nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi”. Do đó, theo kết luận trên, ông C với vai trò là
60
Giám đốc Trung tâm T cố ý làm trái nguyên tắc tài chính trong việc quản lý,
sử dụng nguồn vốn các dự án của đơn vị vì vụ lợi được xác định là hành vi
tham nhũng.
Theo quy định tại khoản 7, Điều 10 Nghị định 157 thì một trong những
trường hợp phải xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu là: “Để cấp phó và
cán bộ, công chức, viên chức thuộc quyền quản lý tham nhũng, lãng phí”. Tuy
nhiên, các cấp có thẩm quyền không xem xét xử lý trách nhiệm đối với Giám
đốc Sở K là chưa đúng quy định về nguyên tắc nghiêm minh, đúng pháp luật
trong XLKL CC.
Trường hợp 2: Qua công tác quản lý theo dõi cán bộ, ngày 20/03/2016,
Sở N có công văn chỉ đạo Chi cục P thuộc Sở N kiểm điểm ông H - Chi cục
trưởng Chi cục P vì đã ký quyết định cử CC thuộc Chi cục P đi học lớp cao
cấp lý luận chính trị tại Thành phố Hồ Chí Minh mà không thông qua đơn vị
chủ quản là Sở N và không hoàn thành việc xây dựng một kế hoạch do Giám
đốc Sở N giao sau 3 lần đôn đốc, nhắc nhở.
Ngày 30/3/2016 Chi cục P tiến hành họp kiểm điểm ông H và kết quả
biểu quyết nhất trí 8/8 đề nghị không kỷ luật.
Ngày 18/4/2017 Giám đốc Sở N ban hành quyết định thành lập Hội
đồng kỷ luật do Phó Giám đốc Sở N làm Chủ tịch hối đồng để xem xét tư vấn
XLKL đối với ông H theo quy định tại Nghị định 34. Tuy nhiên, Hội đồng kỷ
luật không họp để xem xét tư vấn XLKL đối với ông H. Đồng thời, qua xem
xét về thời gian nghỉ hưu của ông H là vào ngày 01/11/2016, nên Giám đốc
Sở N không tiếp tục yêu cầu xem xét XLKL đối với ông H. Sau đó Giám đốc
Sở N có văn bản đề nghị và được UBND tỉnh quyết định cho ông H nghỉ hưu
vào ngày 01/11/2016 mag không XLKL ông H theo quy định.
61
Việc Giám đốc Sở N không XLKL đối với ông H trong khi đã xác định
ông H đã có hành vi vi phạm là không thực hiện đúng pháp luật quy định về
nguyên tắc XLKL nghiêm minh, đúng pháp luật đối với CC vi phạm.
Trường hợp 3: Qua công tác kiểm tra của Đảng, ngày 22/9/2016 Ban
Thường vụ huyện ủy P quyết định thi hành kỷ luật về Đảng bằng hình thức
cách chức bí thư chi bộ đối với ông L, Bí thư chi bộ, Trưởng phòng V, huyện
P do vi phạm về nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, không tổ chức sinh hoạt
chi bộ 5 tháng liên tục; đồng thời ngày 10/10/2016 Ban Thường vụ huyện ủy
P có văn bản chỉ đạo UBND huyện P XLKL về chính quyền đối với ông L
theo quy định của pháp luật.
Ngày 10/11/2016 UBND huyện P có văn bản trả lời Ban Thường vụ
huyện ủy P: sau khi nghiên cứu Nghị định 34 thì các điều khoản áp dụng đối
với hành vi vi phạm “nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng” không có quy định
cụ thể, rõ ràng. Do đó UBND huyện chưa thể tổ chức xem xét XLKL về
chính quyền đối với ông L.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 4, Điều 8 Luật CBCC quy định về
“Nghĩa vụ của cán bộ, công chức đối với Đảng, Nhà nước và Nhân dân” phải:
“Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Pháp luật của Nhà nước”; đồng thời tại khoản 1, Điều 79 Luật CBCC quy
định: “Công chức vi phạm quy định của Luật này và các quy định khác của
pháp luật có liên quan thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm phải chịu một
trong những hình thức kỷ luật sau đây: a) Khiển trách; b) Cảnh cáo; c) Hạ
bậc lương; d) Giáng chức; đ) Cách chức; e) Buộc thôi việc”. Hướng dẫn thực
hiện Luật CBCC về XLKL đối với CC, tại khoản 3, Điều 3 Nghị định 34 quy
định về các hành vi CC bị xử XLKL: “Vi phạm quy định của pháp luật về
phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; bình đẳng
giới; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của pháp luật liên
62
quan đến công chức nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Căn cứ các điều khoản quy định nêu trên cho thấy, việc UBND huyện P viện
dẫn Nghị định 34 về các điều khoản áp dụng đối với hành vi vi phạm “nguyên
tắc tổ chức, sinh hoạt đảng” không có quy định cụ thể, rõ ràng để không
XLKL ông L là chưa thực hiện đúng pháp luật quy định về nguyên tắc XLKL
nghiêm minh, đúng pháp luật đối với CC vi phạm.
Hai là, chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật về áp dụng hình
thức kỷ luật. Ví dụ một số trường hợp cụ thể sau:
Trường hợp 1: Năm 2013, qua điều tra, truy tố xét xử, Toà án kết án bà
A, kế toán đơn vị T, trực thuộc Sở Y phạm tội tham ô tài sản với số tiền
1.304.871.665 đồng của Bệnh viện, xử phạt 16 năm tù. Đồng thời xác định
ông P, Giám đốc đơn vị T có hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng nhưng không vì mục đích vụ lợi, kịp thời phát hiện trình báo và giúp
cho cơ quan chức năng làm rõ vụ án nên không xử lý hình sự.
Trên cơ sở Bản án của Tòa án, Giám đốc Sở Y đã chủ trì cuộc họp đơn
vị T để kiểm điểm XLKL ông P theo quy định tại khoản 2, Điều 16 Nghị định
107, kiến nghị XLKL ông P bằng hình thức khiển trách. Qua xem xét kết quả
kiểm điểm và tư vấn của Hội đồng kỷ luật, Chủ tịch UBND tỉnh ra quyết định
lý xử kỷ luật bằng hình thức khiển trách đối với ông P theo thẩm quyền (theo
quy định phân cấp quản lý CB, CC tại Tỉnh Ninh Thuân).
Theo quy định tại Điều 10 Nghị định 107 thì: “Hình thức cách chức
được áp dụng trong trường hợp người đứng đầu, cấp phó của người đứng
đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra vụ, việc tham nhũng đặc biệt nghiêm
trọng”; đồng thời tại điểm d, khoản 2, Điều 3 Nghị định 107 quy định:
“Tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng là vụ, việc mà trong đó người có hành vi
tham nhũng bị phạt tù từ 15 năm trở lên, tù chung thân hoặc tử hình”. Bà A
63
bị phạt tù 16 năm được xác định là tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng. Căn cứ
theo quy định trên thì lẽ ra phải XLKL ông P bằng hình thức cách chức.
Tuy nhiên, tại điểm b, khoản 3, Điều 11 Nghị định 107 cũng quy định
“Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để
xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách
được giảm nhẹ một mức kỷ luật nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
báo cáo kịp thời với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về hành vi tham nhũng”.
Theo Bản án của Toà án xác định ông P “kịp thời phát hiện trình báo và giúp
cho cơ quan chức năng làm rõ vụ án nên không xử lý hình sự”; do đó theo
quy định trên thì ông P được giảm nhẹ một mức kỷ luật từ cách chức xuống
còn cảnh cáo (vì theo Nghị định 107 nêu trên quy định có 3 hình thức kỷ luật:
khiển trách, cảnh cáo, cách chức). Do đó việc áp dụng hình thức khiển trách
để XLKL ông P là không đúng quy định pháp luật về áp dụng hình thức kỷ
luật trong việc XLKL CC.
Trường hợp 2: Ngày 09/6/2016, qua kết quả công tác kiểm tra, tổ chức
đảng có thẩm quyền thuộc Thành phố R có thông báo kết luận và đề nghị xem
xét, XLKL vi phạm đối với ông Q, CC Tư pháp - Hộ tịch, thuộc UBND
Phường M, Thành phố R. Sau khi thực hiện các quy trình XLKL theo quy
định tại Nghị định 112, ngày 18/7/2016 UBND thành phố R ban hành quyết
định kỷ luật ông Q bằng hình thức buộc thôi việc, với lý do: Là CC Tư pháp –
Hộ tịch của phường, ông Q hiểu rõ về quy trình xin phép xây dựng, sửa chữa
nhà ở, biết rõ việc xây dựng nhà ở, công trình trên đất nông nghiệp là vi phạm
pháp luật về đất đai, xây dựng, nhưng vẫn cố tình gửi đơn xin sửa chữa nhà ở
đến UBND phường M, nơi không có thẩm quyền giải quyết, dẫn đến Phó Chủ
tịch phường xác nhận đơn xin sửa chữa nhà ở không đúng thẩm quyền, sai
quy định và bị XLKL.
64
Qua xem xét lý do XLKL nêu trên cho thấy, ông Q có 02 hành vi vi
phạm: một là hành vi xây dựng nhà ở trên đất nông nghiệp đã hết thời hiệu xử
lý vi phạm hành chính (vì trong quyết định không ghi nội dung xử lý hành vi
xây dựng nhà ở trên đất nông nghiệp); hai là hành vi cố tình gửi đơn xin sửa
chữa nhà ở đến nơi không có thẩm quyền.
Về hậu quả được xác định trong quyết định là dẫn đến Phó Chủ tịch
phường xác nhận không đúng th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_xu_ly_ky_luat_cong_chuc_trong_co_quan_hanh_chinh_nh.pdf