MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
Chương 1: Một số vấn đề liên quan đến hoạt động xuất khẩu. 3
I. Khái quát về hoạt động xuất khẩu. 3
1. Khái niệm về xuất khẩu. 3
2. Các hình thức của hoạt động xuất khẩu. 3
2.1. Xuất khẩu trực tiếp. 3
2.2. Xuất khẩu nhận gia công uỷ thác. 3
2.3. Xuất khẩu uỷ thác. 4
2.4. Buôn bán đối lưu. 4
2.5. Xuất khẩu tại chỗ. 4
2.6. Gia công quốc tế. 4
2.8. Tạm nhập, tái xuất 5
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu. 5
II. Nội dung chủ yếu của hoạt động xuất khẩu. 5
1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường. 5
2. Tìm hiểu tiếp xúc với thương nhân, khách hàng . 6
3. Nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh với hàng xuất khẩu của ta những mặt mạnh, mặt yếu của họ về chính sách 6
4. Lập phương án kinh doanh. 6
5. Lựa chọn đối tác. 6
6. Đàm phán ký kết hợp đồng. 6
7. Thực hiện hợp đồng. 7
III. Lợi thế so sánh của Việt Nam trong xuất khẩu hàng dệt may và vị trí hàng dệt may xuất khẩu trong nền kinh tế Việt Nam. 7
1. Lợi thế so sánh của Việt Nam. 7
1.1. Về lao động. 7
1.2. Về giá sản phẩm. 9
2. Vị trí hàng dệt may với Việt Nam. 9
2.1. Góp phần công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 9
2.2 Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. 9
2.3. Hội nhập kinh tế quốc tế. 9
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU. 11
I. Khái quát chung về thị trường eu 11
1. Liên minh Châu Âu và quan hệ Việt Nam - Liên minh Châu Âu. 11
2. Đặc điểm của thị trường EU. 12
2.1. Tập quán, thị hiếu người tiêu dùng. 12
2.2. Chính sách thương mại nội khối. 13
II. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của việt nam sang EU. 13
1. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua. 13
2. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU. 15
3. Đánh giá kết quả đạt được của dệt may Việt Nam sang EU. 17
3.1. Kết quả đạt được. 17
3.2. Tồn tại. 18
4. Chuyển từ gia công là chủ yếu sang xuất khẩu trực tiếp. 19
Chương 3: Giải pháp nhằm thúc đẩy hàng dệt may việt nam sang eu. 20
I. triển vọng phát triển hàng dệt may của việt nam. 20
1.Những nhân tố phát sinh từ Việt Nam. 20
2. Những khó khăn khi xuất khẩu sang thị trường EU. 20
3. Triển vọng xuất khẩu dệt may của Việt Nam đến 2010. 22
II. Giải pháp kiến nghị. 24
1. Chiến lược cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 24
1.1. Cạnh tranh bằng giá. 24
1.2. Cạnh tranh bằng chất lượng. 24
1.3. Cạnh tranh bằng quan hệ thị trường và khách hàng. 25
1.4. Cạnh tranh bằng thương hiệu. 25
1.4. Cạnh tranh bằng xúc tiến thương mại. 25
2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp. 26
2.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm - Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. 26
2.2. Sử dụng phương thức thâm nhập thị trường và nghiên cứu thị trường xuất khẩu, thị hiếu người tiêu dùng, kênh tiêu thụ hàng. 27
2.3. Sử dụng chiến lược Marketing. 28
2.4. Thu hút vốn đầu tư và sử dụng hiệu quả nguồn vốn. 28
3. Kiến nghị đối với Nhà nước. 28
3.1. Củng cố mở đường vào thị trường xuất khẩu. 28
3.2. Tạo mối liên kết giữa các doanh nghiệp, chú trọng công tác đào tạo và nâng cao năng lực cán bộ. 29
3.3. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất hàng xuất khẩu. 30
3.4. Tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp cạnh tranh năng động để thúc đẩy nâng cao tính linh hoạt và khả năng thích ứng nhanh. 30
3.5. Cơ chế xuất nhập khẩu và cải cách hành chính tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. 31
Kết luận 32
Tài liệu tham khảo 33
46 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2724 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU - Thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường này. Đặc biệt với hàng dệt may đang chuyển dần sang các nước khác có giá nhân công rẻ nên thị trường này có xu hướng nhập khẩu ngày càng nhiều hàng dệt và may mặc.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi mà hàng hoá đều trong tình trạng cung vượt quá cầu. Lúc đó, người tiêu dùng được đặt lên vị trí hàng đầu và thực hiện nghiêm chỉnh phương châm “ chiều khách để bán hàng”. EU tích cực tham gia chống nạn hàng giả bằng cách không nhập khẩu những mặt hàng đánh cắp bản quyền và tìm những thị trường có mặt hàng rẻ, đẹp song cũng phải đảm bảo chất lượng.
Ngoài ra, ở khối EU vấn đề văn hoá là rất quan trọng và từng nước có khác nhau. Nó quyết định cách thức mua sắm và tiêu dùng của từng nơi. Tuy tập quán, thị hiếu tiêu dùng của EU là của Châu Âu, nhưng từng nước EU cũng giữ những đặc tính riêng của mình.Thời gian tới khi EU sẽ là 25 nước, quan hệ kinh tế với Việt Nam sẽ có cẩ thuận lợi và khó khăn. Với 15 thành viên cũ thì tập quán tiêu dùng có phần khác với 10 thành viên mới, trước hết, do các thành viên cũ có trình độ phát triển cao hơn (như Đức, Pháp, ý... ) trong khi đó ở các nước thành viên mời thì phát triển kinh tế thấp hơn. 15 nước thành viên cũ có tập quán tiêu dùng chặt chẽ, khắt khe hơn.
Cần lưu ý là khi đã thành khối 25 nước EU thống nhất không có biên giới hải quan nên khi hàng nước ngoài đã vào được một nước thì tự do lưu thông ở tất cả các nước còn lại trong khối. Quan hệ của Việt nam với các nước Đông Âu như Ba Lan, Cộng hoà Séc, Slovakia...đã hình thành và quen biết từ lâu nên hàng của Việt Nam có thể vào EU qua các “cửa hải quan” đó dễ hơn các nước khác.
Mặt khó khăn với Việt Nam là EU vẫn áp dụng các biện pháp hỗ trợ nông nghiệp (trợ cấp) nên hàng noong nghiệp Việt Nam vẫn bị gián tiếp “phân biệt đối xử”.
2.2. Chính sách thương mại nội khối.
Hàng hoá của nhiều nước đang phát triển xuất khẩu vào EU đang bị ràng buộc bởi nhiều hiệp định thương mại khác nhau, nhiều hàng rào thuế quan và phi thuế quan, các quy định, quy chế cũng như các yêu cầu của thị trường này về chất lượng, y tế, an toàn và môi trường.
Về thuế nhập khẩu: một khi hàng hoá đã được đưa vào EU thì không còn có bất kỳ thủ tục thông quan nào nữa tại biên giới nội bộ EU.
Nhờ có hệ thống ưu đãi thuế phổ cập(GSP) hay các hiệp định thương mại khác, hàng xuất khẩu từ các nước đang phát triển như Việt Nam có thể được giảm thuế hoặc miễn thuế nhập khẩu.
II. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của việt nam sang EU.
1. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua.
Xuất khẩu của Việt Nam chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng. Trong những năm qua kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam không ngừng tăng. Đến nay, dệt may là một trong những ngành xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Quan hệ buôn bán thương mại Việt Nam - EU phát riển rất khả quan, trong 10 năm tư năm 1990 - 1999 với quy mô tăng lên 12 lần và tốc độ tăng bình quân mỗi năm là 32%. Năm 1999 tổng kim ngạch xuất khẩu hai chiều đạt gần 4500 triệu USD, trong đó, Việt Nam xuất khẩu hơn 3300 triệu USD. 6 tháng đầu năm 2000, Việt Nam xuất khẩu sang EU đạt khoảng 1400 triệu USD. Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 2 tỷ USD gấp 16,9 lần so với năm 1990 và chiếm tỷ trọng 13,25% trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu.
Việt Nam và EU đã dành cho nhau chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) và EC ( cộng đồng Châu Âu) cam kết dành cho hàng hoá xuất xứ từ Việt Nam chế độ ưu đãi phổ cập (GSP), gia hạn và tăng hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam.
Mặc dù là trong quý I năm 2003 ngành dệt may tăng nhưng ở thị trường Nhật và đặc biệt là ở thị trường EU bị giảm sút do Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ và Canada..
Kết thúc quý I/2003 hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đạt được những kết quả đáng mừng, với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 4,667 tỷ USD (bình quân mỗi tháng đạt 1,555 tỷ USD). Đặc biệt là sự tăng vọt kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may (tăng 90,6%)so với cùng kỳ năm ngoái.
Bảng 2: Giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Đơn vị: Triệu USDNăm
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
Tổng kim ngạch xuất khẩu
Tỉ trọng dệt may/tổng kim ngạch xuất khẩu
1992
211
2.581
8,1%
1993
350
2.985
11,7%
1994
550
4.054
13,6%
1995
750
5.200
14,4%
1996
1150
7.255
15,2%
1997
1349
8.759
15,4%
1998
1351
9.361
14,4%
1999
1682
11.532
14,6%
2000
1892
14.455
13,08%
2001
2200
15.100
13,25%
2002
2710
16.530
16,4%
(Nguồn: Bộ Thương mại và tổng công ty Vinatex)
Các đặc điểm về thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam.
* Thị trường Mỹ.
Thị trường Mỹ là một thị trường rộng lớn khá hấp dẫn đối với ngành dệt may của Việt Nam. Tuy nhiên việc tham gia được vào thị trường nay là một vấn đề hết sức khó khăn buộc bởi phải chịu mức thuế nhập khẩu cao từ 40% đến 90%. Không những thế, các doanh nghiệp muốn thâm nhập vào được thị trường này cũng phải cạnh tranh gay gắt với nhiều công ty khác.
Trong những năm qua, do chưa có quy chế tối huệ quốc (MFN) nên hàng dệt may của Việt Nam vẫn còn chịu thuế xuất nhập khẩu cao.
Bảng 3: Thuế nhập khẩu hàng dệt may vào Mỹ.
Thuế suất %
Thuế MFN
Thuế phi MFN
Sản phẩm may mặc
13,4%
68,5%
Sản phẩm dệt
10,3%
55,1%
(Nguồn: Bộ thương mại Mỹ)
* Thị trường Nhật Bản.
Hiện nay, Nhật Bản là một thị trường mở quy mô lớn đối với các nhà đầu tư lớn và hàng hoá nước ngoài với khoảng 125,9 triệu dân có mức sống khá cao và là người tiêu dùng có tính khắt khe nhất. Người Nhật Bản trung bình hàng tháng chi 160 USD cho viêc mua sắm chiếm 5,8% thu nhập.
Theo thống kê của hiệp hội dệt may Việt Nam, trong tổng số 1,892 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu năm 2000 thì kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản chiếm tỷ trọng lớn gần 620 triệu USD. Song Nhật Bản là một thị trường rất khó tính về chất lượng và giá cả vì thế nên khả năng chiếm lĩnh thị phần ở Nhật Bản vẫn còn nhiều hạn chế nhưng hiện nay, Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng và là bạn hàng số một của Việt Nam.
* Thị trường Châu úc, Nam Mỹ, Đông Âu ... hàng dệt may củâ Việt Nam khó cạnh tranh được với hàng Trung Quốc về giá tại các thị trường truyền thống này.
* Thị trường các nước trong khu vực.
Hàng năm, hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu một lượng lớn sản phẩm sang các nước trong khu vực như: Hồng Kông, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc... Đặc biệt Trung Quốc vẫn là đối thủ cạnh tranh lớn của nước ta, hơn nữa Trung Quốc còn là thành viên của tổ chức WTO.
2. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU.
* Giai đoạn trước 1990.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam hết sức nhỏ bé do quan hệ giữa hai bên chưa được bình thường hoá. Về cơ cấu mặt hàng trong giai đoạn này không có nhiều chuyển biến. Từ năm 1980 Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang một số nước thành viên EU như Đức, Pháp, Anh...song kim ngạch xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Chỉ sau hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam - EU được ký ngày 15/12/1992 thì xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam mới đặc biệt phát triển.
* Giai đoạn 1991 đến nay.
Kể từ khi Việt Nam bình thường hoá quan hệ ngoại giao với EU vào ngày 22/12/1990 ký tắt hiệp định buôn bán dệt may ngày 15/12/1992 thì quan hệ Việt Nam không ngừng phát triển. Đây chính là nhân tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng Việt Nam (tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu nói chung của Việt Nam là 18,4% (1991-2000) nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của GDP 2,6 lần.) và các sản phẩm dệt may của Việt Nam (năm 1999, riêng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU đã lên đến 590 triệu USD, tăng 30 triệu so với năm 1998,năm 2000 kim ngạch xuất khẩu là 1,815 tỷ USD, năm 2001 kim ngạch xuất khẩu là 2 tỷ USD).
Từ ngày 25/2/2002, ngừng cấp giấy phép xuất khẩu tự động đối với một số “cat nóng” (4,6,7,15,78) do đã thực hiệ trên 50% hạn ngạch. Một số cat thực hiện được khoảng 20 - 30% hạn ngạch là sơ mi nam, bộ quần áo ngủ, áo lót...
Trong các mặt hàng dệt may xuất khẩu sang EU thì kim ngạch lớn nhất là áo jacket đạt trên 20 triệu, thứ hai là sơ mi nam đạt trên 14 triệu ( bảng 4 phần phụ lục)
* Tình hình chung về chất lượng .giá cả, mẫu mã sản phẩm.
Mặc dù chất lượng, giá cả, mẫu mã sản phẩm xuất khẩu sang EU được đánh giá khá tốt, nhưng không vì thế mà hàng dệt may của Việt Nam có thể thống lĩnh được thị trường này. Cụ thể là chất lượng của sản phẩm vẫn chưa đạt dược đúng tiêu chuẩn của khách hàng, điều này ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty trong việc nâng cao uy tín mở rộng thị trường. Tuy nhiên, thị trường EU tiêu dùng theo tầng lớp nên sản phẩm dệt may Việt Nam thường thích hợp, thoả mãn với nhu cầu của tầng lớp trung lưu nghĩa là đa có sự chấp nhận mặt hàng này hơn là chất lượng cũng như giá cả vừa với mức thu nhập của họ.
* Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có sự cải tiến và hoàn thiện dần dần.
Năm 1991 hàng nguyên liệu thô chiếm trên 92% tổng kim ngạch xuất khẩu, đến nay chỉ còn khoảng 60%.
Với thị trường EU luôn đòi hỏi chất lượng cao, mẫu mã được đổi mới liên tục nhưng phải thừa nhận rằng lượng hàng dệt may xuất khẩu sang EU còn quá ít. Vì vậy điều quan trọng hiện nay để thâm nhập vào thị trường EU là phải nâng cao chất lượng và đổi mới sản phẩm về mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc... nhằm cạnh tranh với các nước khác để tồn tại trên thị trường này.
Hiện tại, EU mở rộng sang phía Đông kết nạp thêm 10 thành viên, do đó, chúng ta càng khó khăn hơn khi xuất khẩu sang thịi trường này.
3. Đánh giá kết quả đạt được của dệt may Việt Nam sang EU.
3.1. Kết quả đạt được.
Ngành công nghiệp dệt may ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vì nó không chỉ phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người mà còn là ngành giải quyết được nhiều công ăn việc làm cho lao động xã hội, có thế mạnh trong xuất khẩu, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triểnvà đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách Nhà nước.
Thật vậy trong 10 năm trở lại đây, ngành dệt may đã chứng tỏ là một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế, có những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực xuất khẩuvới tốc độ tăng trưởng bình quân 24,8 %/năm, vươn lên vị trí thứ 2 trong cả nước về kim ngạch xuất khẩu, sau ngành dầu khí.
* Kim ngạch xuất khẩu luôn tăng.
Kể từ khi hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam - EU có hiệu lực (1/1/1993) kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU ngày càng tăng . Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 2 tỷ USD gấp 16,9 lần so với năm 1990 và chiếm tỷ trọng 13,25 % trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu.
* Tăng uy tín, mở rộng khả năng thâm nhập thị trường.
Việc EU tăng hạn ngạch cho Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2002 cũng chứng tỏ uy tín của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU. Vì vậy từ đâykhả năng tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào từng nước trong thị trường này ngày càng nhiều và hiệu quả hơn. Cụ thể các nước này đánh giá cao quan hệ làm ăn, ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam và độ tin cậy cao về độ giao hàng đúng thời hạn, đúng chất lượng, mẫu mã, do vậy hàng dệt may Việt Nam dần chiếm tỷ trọng nhập vào EU nhiều hơn và mở rộng thêm thị trường nhiều hơn.
* Góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ và phát triển kinh tế.
Mặc dù giá trị ngoại tệ thực tế thu được chỉ chiếm 22,4 % tổng giá trị xuất khẩu song đây là nguồn thu nhập ngoại tệ lớn góp phần quan trọng vào việc cải thiện cán cân thanh toán và tăng dự trữ ngoại tệ, tăng khả năng nhập máy móc, công nghệ tiên tiến để phát triển đất nước.
* Sử dụng nhiều lao động giải quyết công ăn việc làm
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, mấy năm qua ngành dệt may đã có những bước tiến quan trọng, tạo công ăn viêc làm cho hàng triệu lao động giúp cải thiện được đời sống cho nhân dân và là một trong những mũi nhọn xuất khẩu của kinh tế cả nước.
3.2. Tồn tại.
* Trong những năm qua, cho dù kim ngạch xuất khẩu dệt may cao nhưng lợi nhuận đem lại thấp. Trong tổng giá trị hàng hoá, có trên 80% nguyên liệu phụ liệu phải nhập ngoại.
* Quy mô của ngành dệt may xuất khẩu sang EU quá nhỏ bé so với tiềm năng kinh tế của Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu của EU.
Do bị hạn chế bởi hạn ngạch và chịu thuế suất cao, hơn nữa là những đòi hỏi khắt khe của người tiêu dùng về mẫu mã, chất lượng ... nên tỷ trọng xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam vào EU hiện nay chiếm khoảng 25% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của ta.
* Hàng dệt may của Việt Nam có giá thành cao hơn các nước trong khu vực.
Do nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành dệt may nước ta chủ yếu vẫn phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu nên luôn thiếu sự chủ động trong đầu vào.
* Khả năng tiếp thị và trình độ marketing trên thị trường EU còn yếu.
Cụ thể là khi thực hiện một dự án hợp tácthì phía doanh nghiệp Việt Nam không muốn tham gia tích cực vào phần bán hàng và làm nhiệm vụ marketing quốc tế, vì thế Việt Nam sẽ mất dần tính chủ động trên thị trường quốc tế, cũng như nắm được nhu cầu thị hiếu của khách hàng, giá cả và các thông tin khác.
* Cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may sang EU vẫn còn nhiều bất cập, hình thức xuất khẩu giản đơn.
Đó là so với ngành may thì công nghiệp dệt của Việt Nam còn rất nhiều hạn chế bởi hệ thống máy móc thiết bị chưa hiện đại và đồng bộ nên chưa đủ khả năng phục vụ chính ngành may trong nước.
* Giá cả, chất lượng hàng hoá chưa đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng.
Chất lượng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước còn kém so với các nước trong khu vực, giá thành lại cao và số lượng không đáp ứng đủ nhu cầu ngành may xuất khẩu, tỷ lệ vải trong nước có chất lượng chỉ mới đáp ứng được 12,15% nhu cầu của ngành may.
Bên cạnh những kết quả đáng mừng của ngành dệt may Việt Nam thì chúng ta vẫn phải đề cập tới những vấn đề còn tồn tại của ngành dệt may vì nếu chúng ta biết và khác phục được những điều này thì dệt may của Việt Nam ngày càng phát triển hơn.
4. Chuyển từ gia công là chủ yếu sang xuất khẩu trực tiếp.
Hàng dệt may của Việt Nam trước đây xuất khẩu sang EU chủ yếu theo phương thức gia công (chiếm tỷ trọng 80%) vì do thiếu máy móc, công nghệ hiện đại và do đội ngũ lao động chưa được tiếp xúc với các công nghệ chính vì vậy hiệu quả thực tế là rất nhỏ. Hiện có tới 70% hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU thông qua các thị trường thứ ba như thị trường Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan... các thị trường này thường là nhập khẩu hoặc thuê Việt Nam gia công rồi tái xuất sang thị trường EU. Chính điều này đã tạo nên sự bất cập đối với các công ty Việt Nam bởi như vậy họ không tự khẳng định được vị thế của mình trên thị trường mà ẩn sau nhãn mác của một hãng nước ngoài, họ không có khả năng cũng như luôn bị thụ động trong việc thực hiệ hoạt động sản xuất của mình về mẫu mã, chủnh loại. Nhưng hiện nay, do quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, Việt Nam đã và đang ký kết với rất nhiều nước khác nhau trên thế giới nên việc chuyển từ gia công là chủ yếu sang xuất khẩu trực tiếp là rất có lợi cho Việt Nam vì công việc này giúp cho ngành dệt may Việt Nam đáp ứng được nhu cầu của các đơn đặt hàng của các nước khác nhiều hơn, hơn thế nữa còn tăng kim ngạch xuất khẩu cho Việt Nam.
Chương 3
GiảI pháp nhằm thúc đẩy hàng
dệt may việt nam sang eu.
I. triển vọng phát triển hàng dệt may của việt nam.
Trong những năm qua, ngành dệt may của Việt Nam có cơ hội phát triển rất lớn nhưng bên cạnh đó cũng có rất nhiều nhân tố tác động quá trình phát triển này.
1.Những nhân tố phát sinh từ Việt Nam.
* Quá trình đổi mới nền kinh tế của Việt Nam.
Việt Nam đang trong giai đoạn quốc tế hoá về thương mại, vốn và sản xuất dưới dạng tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế.
Việc chuyển hướng này giúp cho tổng công ty dệt may Việt Nam nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm, mở rộng và thâm nhập thị trường ngày càng được tốt hơn.
* Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế “ hướng về xuất khẩu”.
Đây là sự chuyển dịch với mục đích tạo ra nhiều sản phẩm và nhiều loại sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng. Sự chuyển dịch này sẽ tạo điều kiện cho khoa học công nghệ phát triển, tGăng năng xuất lao động, đẩy mạnh xuất khẩu. Ngoài ra, các doanh nghiệp có thể cải thiện được chất lượng, mẫu mã... để có thể đáp ứng được nhu cầu khắt khe của thị trường EU.
2. Những khó khăn khi xuất khẩu sang thị trường EU.
ă Thứ nhất, EU thương lượng với các nước khác như một thể đồng nhất trong vấn đề thương mại toàn cầu và trở thành tiếng nói chung của Châu Âu trong các cuộc thảo luận quốc tế. Các doanh nghiệp làm ăn ở Châu Âu tất nhiên phải tuân theo các quy tắc, hướng dẫn và chịu sự giám sát của Uỷ ban Châu Âu (EC). EC đã ban hành và củng cố các quy tắc cạnh tranh và cấu trúc tổ chức liên quan đến những hoạt động như sát nhập, chống độc quyền và đánh thuế. Thậm chí còn quyết định cả việc định giá, quảng cáo và các hoạt động hàng ngày khác. Tuy đã có một hoạt động chung như vậy, nhưng thực tế đến nay chưa có hiệu lực hoàn toàn, nên có nhiều công ty nước ngoài đang hoạt động với sự hiểu lầm thị trường chung Châu Âu có nhiều mặt đồng nhất, cho nên đã phải chịu nhiều thất bại.
ă Thứ hai, những điểm khác biệt về văn hoá giữa các nước thành viên. Mặc dù EU là một bức tranh hợp tác kinh tế đẹp nhưng đối với các công ty nước ngoài thì vẫn là những cách giải quyết đối với 15 nước khác nhauvề các hệ thống pháp lý. Trên thực tế đã có những dấu hiệu cho người ta thấy tinh thần dân tộc của các nước thành viên của EU đang khuếch đại những sụ khác nhau giữa các nước. Ví dụ, Pháp rất quan tâm đến tính đồng nhất và đã thông qua một số điều lệ đăc biệt băt buộc phải sử dụng tiếng Pháp trên tất cả các sản phẩm, trong tất cả các tờ rơi quảng cáo, các sổ tay hướng dẫn, giấy bảo hành và các thông tin khác của sản phẩm. Đồng thời nhân danh người tiêu dùng, EU đã phát triển một chương trình trách nhiệm sản phẩm (nếu sản phẩm làm ra có những khuyết tật gây nguy hiểm cho người sử dụng thì người sản xuất phải có trách nhiệm đối với sản phẩm của họ). Có thể nhận thấy, thị trường EU chỉ thống nhất về mặt kỹ thuật, còn trong thực tế là nhóm thị trường quốc gia và khu vực, mỗi nước có một bản sắc và đăc trưng riêng mà các nhà xuất khẩu tại các nước đang phát triển thường không hay để ý tới. Các nước thành viên tạo ra những cơ hội khác nhau và yêu cầu của họ cũng khác nhau.
ă Thứ ba, EU là một thành viên của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) có chế độ quản lý nhập khẩu chủ yếu dựa trên nguyên tắc của tổ chức này. Các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch không nhiều, nhưng lại sử dụng khá nhiều biện pháp phi thuế quan. Mặc dù thuế quan của EU thấp hơn so các cường quốc kinh tế lớn và có xu hướng giảm, nhưng EU vẫn là thị trường bảo hộ rất chặt chẽ vì hàng rào phi thuế quan (rào cản kỹ thuật) rất nghiêm ngặt. Do vậy, hàng xuất khẩu của ta muốn vào được thị trường này thì phải vượt qua rào cản kỹ thuật của EU. Rào cản kỹ thuật chính là quy chế nhập khẩu chung và các biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của EU, được cụ thể hoá ở tiêu chuẩn của sản phẩm.
Đối với tiêu chuẩn chất lượng:Hệ thổng quản lý chất lượng ISO 9000 gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường EU thuộc cấc nước đang phát triển.
Đối với tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng: ký mã hiệu trở nên quan trọng nhất trong viêc lưu thông hàng hoá trên thị trườngEU.
ă Thứ tư, việc tư hoá về thương mại và đầu tư trên thế giới cũng như cải cách về chính sách và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu của EU đang có xu hướng ngày càng được nới lỏng, các nhà xuất khẩu của Việt Nam trong những năm tới chắc chắn sẽ phải đương đầu với những thử thách và cạnh tranh quyết liệt trên thị trường này.Thị trường EU có đặc tính cạnh tranh mạnh mẽ như vậy nên bắt buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải tạo ra lợi thế cạnh hơn so với các đối thủ khác. Có nghĩa là chất lượng của sản phẩm luôn được cải thiện, mẫu mã và kiểu dáng phải được đổi mới nhanh hởntước đây. Chu trình sống của sản phẩm sẽ ngắn hơn, giá thành sẽ rẻ hơn và phương thức phục vụ tốt hơn. Các nhà xuất khẩu Việt Nam có thể dựa vào chi phí để cạnh tranh.
ă Thứ năm, kênh phân phối của EU rất phức tạp. nhưng cho tới nay các doanh ngghiệp Việt Nam vẫn chưa tiếp cận được kênh phân phối này. Muốn tiếp cận được kênh phânn phối EU, các doanh nghiệp phải nắm bắt được đặc điểm của kênh phân phối để từ đó có những biện pháp cụ thể xâm nhập vào. Nhiều khi hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU chỉ theo một kênh phân phối. Việc này đã hạn chế khả năng đẩy mạnh xuất khẩu, đa dạng hoá sản phẩm và nâng cao giá trị bán của doanh nghiệp.
ăThứ sáu, chính sách thương mại và đấu tư của EU bấy lâu nay chủ yếu nhằm vào các thị trường truyền thống có tính chiến lược là Châu Âu và Châu Mỹ còn đối với Châu á trong đó có Việt Nam, chính sách thương mại của EU mới hình thành gần đây, đang trong quá trình xem xét, thử nghiệm và khai thác. Hơn nữa chính sách thương mại của EU đối với Việt Nam thời gian qua chủ yếu dựa trên cơ sở xếp Việt Nam vào danh sách những nước không phải là nền kinh tế thị trường, gần như không được hưởng chế độ ưu đãi của EU dành cho các nước đang phát triển.
Tóm lại, EU là thị trường đòi hỏi chất lượng cao, điều kiện thương mại nghiêm ngặt và được bảo hộ đăc biệt. Vì thế, chúng ta phải vượt qua những khó khăn đó để tiến vào thị trường EU.
3. Triển vọng xuất khẩu dệt may của Việt Nam đến 2010.
Với cơ cấu kinh tế hoàn toàn bổ sung cho nhau, môi trường kinh tế thuận lợi, xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế, hoạt động xuất khẩu dệt may Việt Nam vào thị trường EU sẽ có bước chuyển biến vượt bậc và phát triển mạnh mẽ.
Ngày 23/4/2001, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 với các cơ chế, chính sách cởi mở cho ngành dệt may phát triển.
Theo thương vụ của Việt Nam tại EU, từ năm 2003, nhu cầu nhập khẩu của toàn bộ khu vực EU đối với hàng dệt may 69,8 tỷ Euro, trong đó cần nhập khẩu 51,4 tỷ euro. Mặc dù hàng dệt may bị giới hạn bởi hạn ngạch, nhưng việc ký Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU tại Hà Nội mới đây là một thuận lợi để hàng dệt may của Việt Nam vào EU tăng.
Bảng 5: Các chỉ tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam đến 2010
Chỉ tiêu
Đtv
Đến 2005
Đến 2010
1. Sản xuất
- Bông sơ
Tấn
30.000
80.000
- Xơ sợi tổng hợp
Tấn
60.000
120.000
- Sợi các loại
Tấn
150.000
300.000
- Vải lụa thành phẩm
Triệu m2
800
1.400
- Dệt kim
Triệu sp
300
500
- May mặc
Triệu sp
780
1.500
2. Kim ngạch xuất khẩu
Triệu USD
4.000-5.000
8.000-9.000
3. Sử dụng lao động
Triệu người
2,5-3
4-4,5
4. Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu nội địa trên sản phẩm may xuất khẩu
%
>50
>75
5. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển
Tỷ đồng
35.000
30.000
- Vốn đầu tư mở rộng
Tỷ đồng
23.200
20.000
- Vốn đầu tư chiều sâu
Tỷ đồng
11.800
10.000
Trong đó: Vinatex
Tỷ đồng
12.500
9.500
6. Vốn đầu tư phát triển trồng bông
Tỷ đồng
1.500
(Nguồn : VINATEX)
Tiềm năng của may mặc Việt Nam trong lĩnh vực may mặc dệt kim là rất lớn. Do EU kiểm soát việc nhập khẩu hàng dệt may từ Việt Nam bằng mức quota nhập khẩu thấp trong khuôn khổ các hiệp định không ưu đãi về dệt may của EU (do chưa gia nhập WTO). Nếu các hiệp định hàng dệt may của EU có tính ưu đãi hơn thì việc xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào EU sẽ còn tăng lên nhiều.
Kể từ năm 2005 chế độ hạn ngạch bị bãi bỏ nhưng đồng thời Việt Nam cũng không được hưởng các hạn ngạch về thuế quan. Vì vậy đòi hỏi hàng dệt may của Việt Nam phải nâng cao khả năng cạnh tranh để duy trì vị trí trên thị trường này.
Bảng 6: Triển vọng các thị trường may mặc của Việt Nam trong thời gian tới
(Đơn vị: triệu sản phẩm)
Thị trường xuất khẩu Năm 2000 Năm 2005
1. SNG 30 34
2. EU 41 30
3. Nhật Bản 25 70
4. Mỹ và Bắc Mỹ 80 130
5. Canada 4 6
6. Các nước khác 20 30
Tổng 200 300
Kim ngạch 1200 1250
(Nguồn: Tổng công ty may Việt Nam)
II. GiảI pháp kiến nghị.
1. Chiến lược cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
1.1. Cạnh tranh bằng giá.
Một trong những nguyên nhân dẫn tới hiện tượng giá cao là do các loại chi phí cho một sản phẩm cao hơn từ 15 - 20% nên giá thành của các loại dệt may chưa cạnh tranh được với các nước đặc biệt là Trung Quốc và năng suất lao động của ngành dệt may Việt Nam nhìn chung chỉ bằng 2/3 so với mức bình quân của các nước ASEAN là do hoạt động kỹ năng của con người không đồng đều nên dẫn đến năng suất lao động thấp. Các chi phí đều cao do công nghệ lạc hậu, mức tiêu hao lớn, hệ thống cung cấp đầu vào chưa chạt chẽ, chi phí trung gian cao nên giá thành cao làm giảm đi khả năng cạnh tranh của Việt Nam.
Chính vì vậy, ngành dệt may của Việt Nam muốn cạnh tranh được phải khắc phục những điểm trên thì mới có thể đẩy được các đối thủ của mình được.
1.2. Cạnh tranh bằng chất lượng.
So với các nước trong khu vực thì chất lượng của nguyên phụ liệu sản xuất trong nước còn kém. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tăng cường giải pháp phát triển các nguyên phụ liệu thiên nhiên của mình để đáp ứng được nhu cầu chất lượng của người tiêu dùng. Bất kỳ nước nào cũng vậy, người tiêu dùng luôn đòi hỏi chất lượng của sản phẩm là hàng đầu mà đặc biệt là thị trường EU.
1.3. Cạnh tranh bằng quan hệ thị trường và khách hàng.
Trong bối cảnh kinh tế thương mại và khu vực hiện nay, việc thâm nhập vào một thị trường và g
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36198.doc