Luận văn Xuất khẩu hàng thủy sản Việt nam vào thị trường Mỹ

MỤC LỤC

Lời nói đầu 1

Nội dung 3

Chương I : Một số vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu hàng hóa 3

I. Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu 3

II. Các hình thức xuất khẩu hàng hóa 7

III. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu 13

Chương II : Thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ trong những năm vừa qua 20

I. Thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam 20

II. Đánh gia khái quát về hoạt động xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ trong thời gian qua 23

Chương III : Một số giải pháp nâng cao khả năng xuất khẩu cho hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ 28

I. Phát triển hoạt động nghiên cứu thị trường và đẩy mạnh xúc tiến hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ 28

II. Nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ 29

III. Tăng cường chất lượng nguồn nhân lực và nâng cao vai trò quản lý của nhà nước trong hoạt động xuất khẩu thủy sản 31

IV. Một số giải pháp khác 32

Kết luận 34

Tài liệu tham khảo 35

 

 

 

doc34 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2484 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xuất khẩu hàng thủy sản Việt nam vào thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ký hợp đồng nhưng giao hàng và thanh toán lại được tiến hành sau một thời gian nhất định với mục đích thu lợi nhuận từ chênh lệch giá giữa thời điểm ký hợp đồng với lúc giao hàng. Tuy nhiên, nếu bên bán dự kiến giá không đúng thì bên bán đề nghị với bên mua hoãn ngày thanh toán đến kỳ hạn sau và bên bán trả cho bên mua một khoản tiền bù. Khoản này được gọi là “bù hoãn bán”. 3.5. Giao dịch tại triển lãm và hội trợ. Triển lãm quốc tế là nơi trưng bày, quảng cáo, giới thiệu kết quả của một nền kinh tế hoặc của một ngành kinh tế về các lĩnh vực khoa học, công nghệ, văn hóa… thuộc các quốc gia khác nhau. Hội chợ là loại hình thị trường hoạt động định kỳ và được tổ chức vào một thời gian, địa điểm nhất định nào đó. Tại các hội chợ và triển lãm người bán (doanh nghiệp công nghiệp, tổ chức kinh tế…) tiếp xúc với người bán nhằm bán, mua được hàng và tạo ra mối quan hệ mua - bán hàng hóa giữa các bên bằng những hợp đồng ngắn hạn hoặc dài hạn. Để bán, mua được nhiều hàng qua hội chợ, triển lãm và có thể ký được nhiều hợp đồng xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp công nghiệp cần làm tốt công việc chuẩn bị mua tại những nơi này. Một số việc chủ yếu phải thực hiện là: - Tìm hiểu tình hình chính trị, kinh tế của nước mở hội trợ – triển lãm, trong đó cần biết rõ luật pháp kinh tế, điều kiện thuế quan, vận tải, tập quán thương mại của các nước tham gia hội chợ, triển lãm. - Nắm được chính xác các thông tin về danh mục các loại hàng hóa các nước sẽ trưng bày và dự định xuất, nhập khẩu của họ. - Nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới trên các khía cạnh số lượng, cơ cấu, chất lượng và giá cả hiện hành, sức cạnh tranh của từng loại hàng hóa của mỗi nước. - Chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết để tham gia hội chợ, triển lãm như mẫu đơn chào hàng, mẫu hợp đồng, điều kiện vật chất để tiến hành đàm phán, ký hợp đồng xuất khẩu. 3.6. Giao dịch tái xuất. Tái xuất là xuất khẩu ra nước ngoài những hàng hóa trước đây đã nhập khẩu chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Giao dịch tái xuất luôn thu hút 3 loại nước: Nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. Tái xuất được tiến hành bằng các hình thức dưới đây: - Hàng hóa đi từ nước xuất khẩu đến nước tái xuất khẩu và nước này lại xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu. Sơ đồ 1: Quan hệ tái xuất hàng hóa Nước tái xuất Nước nhập khẩu Nước xuất khẩu - Hình thức chuyển khẩu: Hàng hóa từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất khẩu trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu. Sơ đồ 2: Quan hệ tái xuất qua nước thứ 3 Nước tái xuất Nước xuất khẩu Nước nhập khẩu III. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. 3.1. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp. 3.1.1. Trình độ quản lý của doanh nghiệp xuất khẩu. Ban lãnh đạo doanh nghiệp: Là bộ phận đầu não của doanh nghiệp, nơi xây dựng những chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp, đề ra mục tiêu đồng thời giám sát, kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch đã đề ra. Trình độ quản lý kinh doanh của ban lãnh đạo có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất (nhập) khẩu của doanh nghiệp. Một chiến lược kinh doanh đúng đắn phù hợp với tình hình thực tế của thị trường, doanh nghiệp cùng với sự điều hành giỏi của các cán bộ doanh nghiệp sẽ là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp: Cơ cấu tổ chức đúng đắn sẽ phát huy được trí tuệ của tất cả các thành viên trong doanh nghiệp, phát huy tinh thần đoàn kết và sức mạnh tập thể; đồng thời vẫn đảm bảo cho việc ra quyết định sản xuất kinh doanh được nhanh chóng và chính xác. Cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc phối hợp giải quyết những vấn đề nảy sinh, đối phó được với những biến đổi của môi trường kinh doanh và nắm bắt kịp thời các cơ hội một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. Đội ngũ cán bộ quản trị kinh doanh xuất (nhập) khẩu: Đóng vai trò quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trên thương trường. Hoạt động xuất khẩu chỉ có thể tiến hành khi có sự nghiên cứu tỷ mỉ về thị trường hàng hoá, dịch vụ, về các đối tác- các đối thủ cạnh tranh, về phương thức giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng ... Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp phải có đội ngũ cán bộ kinh doanh am hiểu thị trường quốc tế có khả năng phân tích và dự báo những xu hướng vận động của thị trường, khả năng giao dịch đàm phán… Thêm vào đó phải thông thạo các thủ tục về hoạt động xuất (nhập) khẩu; điều đó sẽ góp phần làm cho công việc được tiến hành một cách thuận lợi và đạt hiệu quả cao nhất. 3.1.2. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp xuất (nhập) khẩu. Doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao thì khả năng tiêu thụ sản phẩm càng nhanh, tạo được uy tín trên thị trường và luôn được người tiêu dùng tin tưởng. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào các yếu tố sau: - Năng lực tài chính của doanh nghiệp: Thể hiện ở vốn kinh doanh của doanh nghiệp, lượng tiền mặt, ngoại tệ, cơ cấu vốn .. những nhân tố này doanh nghiệp có thể tác động để tạo thế cân bằng và phát triển. Vốn là một nhân tố quan trọng trong hàm sản xuất và nó quyết định tốc độ tăng sản lượng của doanh nghiệp. - Chất lượng sản phẩm: là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường, thu hút được khách hàng tiêu dùng… - Giá sản phẩm: giá cả ảnh hưởng đến khối lượng tiêu dùng sản phẩm, giá rẻ thì khả năng tiêu thụ sản phẩm sẽ nhanh hơn, khả năng tiêu thụ trên thị trường thế giới sẽ cao hơn, sẽ xuất khẩu được nhiều hơn. Tuy nhiên, không phải lúc nào giá rẻ cũng làm tăng sản lượng tiêu thụ, do đó cần phải đặt ra mức giá sao cho hợp lý để có thể tăng được khả năng cạnh tranh cho sản phẩm. - Chính sách Marketing: biện pháp này giúp nâng cao vị thế của doanh nghiệp trước các đối thủ cạnh tranh. Vì vậy xây dựng một chính sách marketing hợp lý sẽ giúp các doanh nghiệp tạo ra được sự khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh; qua đó giúp doanh nghiệp không ngừng mở rộng thị phần của mình, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. 3.2. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp. 3.2.1. Các điều kiện kinh tế. Những điều kiện kinh tế có tác động rất lớn đến khối lượng buôn bán, đầu tư…hàng năm. Song sự gia tăng buôn bán, đầu tư luôn có xu hướng biến đổi nhanh hơn sự thay đổi của nền kinh tế. Sự thay đổi mức giàu có trên thế giới đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ giá trị hàng hóa lưu chuyển quốc tế. Tỉ lệ mậu dịch quốc tế đang có xu hướng tăng nhanh hơn tỉ lệ tổng sản phẩm thế giới ở một thời kỳ dài. Điều này có nghĩa là sự tương quan so sánh giữa kinh doanh và sản xuất không cố định mà luôn thay đổi qua các thời kỳ. Mức độ gia tăng khối lượng và giá trị hàng hóa kinh doanh tùy thuộc rất lớn vào mức độ can thiệp của Chính phủ. Thông qua các chính sách, công cụ kinh tế vĩ mô mà nhà nước thực hiện sự điều tiết khối lượng hàng hóa từ nước ngoài vào và đặc biệt họ sẽ làm giảm bớt nhập khẩu khi nền kinh tế đang bị trì trệ. Còn các doanh nghiệp xuất (nhập) khẩu chỉ mở rộng kinh doanh ở nước ngoài khi nhu cầu ở nước ngoài vẫn gia tăng đều đặn, trong một thời kỳ dài. Ngày nay, trong buôn bán quốc tế, cơ cấu mặt hàng đã có sự thay đổi rõ rệt. Nhóm các mặt hàng lương thực, thực phẩm, đồ uống, mặt hàng truyền thống giảm nhanh về tỉ trọng; thay thế vào đó là các mặt hàng chế biến , mặt hàng mới, đang có xu hướng tăng rất nhanh. Điều này tác động rất lớn đến hoạt động xuất (nhập) khẩu; vì vậy, việc đa dạng hóa các hình thức và mặt hàng kinh doanh và quyết định lựa chọn hình thức kinh doanh nào, mặt hàng nào có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nó góp phần tăng cơ hội, giảm thách thức, hạn chế rủi ro đối với hoạt động kinh doanh xuất (nhập) khẩu của doanh nghiệp. 3.2.2. Khoa học và công nghệ. Sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay đang thúc đẩy mạnh mẽ tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế ở từng quốc gia, làm cho nhiều quốc gia có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Chính sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ đã làm xuất hiện những sản phẩm mới thay thế những sản phẩm cũ và làm thay đổi vị trí của từng quốc gia, từng doanh nghiệp trong hoạt động xuất (nhập) khẩu. Nhiều sản phẩm mới như máy tính, hàng điện tử… đang chiếm phần lớn trong hoạt động xuất (nhập) khẩu của từng doanh nghiệp. Hiện nay, hầu hết những công nghệ, kỹ thuật tiên tiến đều xuất phát từ các quốc gia phát triển. Vì vậy, các doanh nghiệp từ các quốc gia này đang nắm giữ phần mậu dịch và đầu tư lớn hơn trong lĩnh vực chế biến, đây là khu vực kinh tế tăng trưởng nhanh. Tình hình này đang là một sức ép lớn đối với các quốc gia nghèo và các doanh nghiệp có ít thị phần hơn và khả năng cạnh tranh kém hơn. 3.2.3. Điều kiện chính trị, xã hội và quân sự. Sự ổn định hay bất ổn về chính trị, xã hội cũng là những nhân tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất (nhập) khẩu và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể thấy hệ thống chính trị và các quan điểm về chính trị, xã hội suy đến cùng tác động trực tiếp đến phạm vi, lĩnh vực, mặt hàng, đối tác kinh doanh. Bên cạnh đó, các cuộc xung đột lớn hay nhỏ về quân sự trong nội bộ quốc gia và giữa các quốc gia đã dẫn đến sự thay đổi lớn về các mặt hàng sản xuất. Từ các mặt hàng truyền thống chuyển hướng sản xuất các mặt hàng phục vụ cho chiến tranh. Chính sự thay đổi nay đã làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, buôn bán bị gián đoạn, quan hệ giữa các quốc gia dần dần xấu đi và dẫn đến sự hình thành các rào cản “vô hình” ngăn cản hoạt động xuất (nhập) khẩu. 3.2.4. Sự hình thành các liên minh, liên kết về kinh tế, chính trị và quân sự. Việc hình thành các khối liên kết về kinh tế, chính trị, quân sự đã góp phần làm tăng hoạt động kinh doanh buôn bán giữa các quốc gia thành viên (trong khối), làm giảm tỉ lệ mậu dịch với các nước không phải là thành viên. Để khắc phục hạn chế này, các quốc gia thành viên trong khối thường tiến hành ký kết với các quốc gia ngoài khối những hiệp định, những thỏa ước để từng bước nới lỏng hàng rào “vô hình” tạo điều kiện cho hoạt động xuất (nhập) khẩu phát triển. 3.2.5. Tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái thể hiện mối tương quan về giá trị đồng nội tệ so với một loại ngoại tệ nào đó : Tỷ giá hối đoái thực tế Tỷ giá hối đoái danh nghĩa * chỉ số thực Chỉ số giá trong nước Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ giá được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng do Ngân hàng nhà nước công bố. Tỷ giá hối đoái tăng hay giảm chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau: như chênh lệch lạm phát, tình trạng cán cân thanh toán, yếu tố tâm lý… Sự biến động tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả xuất (nhập) khẩu của doanh nghiệp công nghiệp. Một tỷ giá hối đoái có lợi cho xuất khẩu lại gây nên bất lợi cho nhập khẩu. Vì vậy Nhà nước cần có những biện pháp quản lý đối với tỷ giá hối đoái sao cho hợp lý để có thể kích thích được xuất khẩu. 3.2.6. Hệ thống pháp luật. Mỗi quốc gia đều có những bộ luật riêng và đặc điểm tính chất của hệ thống pháp luật của mỗi nước phụ thuộc rất lớn vào trình độ phát triển kinh tế của từng nước. Các yếu tố pháp luật chi phối mạnh mẽ đến mọi hoạt động của nền kinh tế và xã hội nước đó. Nó quy định phạm vi nội dung và mức độ hoạt động của tất cả các doanh nghiệp không chỉ trong một quốc gia mà cả trên thị trường quốc tế. Vì vậy doanh nghiệp xuất (nhập) khẩu phải hiểu rõ môi trường pháp luật của quốc gia mình và các quốc gia mà doanh nghiệp tham gia xuất (nhập) khẩu hàng hoá hoặc dự định xuất (nhập) khẩu. Hoạt động xuất (nhập) khẩu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các mặt sau: - Các quy định về thuế, chủng loại, khối lượng, quy cách - Quy định về hợp đồng, giao dịch bảo vệ quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ. - Các quy định về quy chế sử dụng lao động, tiền lương tiền thưởng, bảo hiểm phúc lợi. - Quy định về cạnh tranh độc quyền. - Quy định về tự do mậu dịch hay xây dựng nên các hàng rào thuế quan chặt chẽ. Như vậy, một mặt các yếu tố pháp luật có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong hoạt động xuất (nhập) khẩu bằng những chính sách ưu đãi; mặt khác nó cũng tạo ra hàng rào “vô hình” cản trở sự hoạt động của doanh nghiệp xuất (nhập) khẩu khi buôn bán ra nước ngoài hay căn cứ khi doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường nội địa, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh. Chương II : thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ trong những năm vừa qua. I. Thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ trong thời gian qua. 1.1. Tình hình sản xuất và khả năng chế biến của ngành thủy sản. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê và Bộ Thủy sản, sản lượng thủy sản của Việt Nam mặc dù trước năm 1985 có sự sa sút, yếu kém nhưng từ năm 1985 trở lại đây liên tục phát triển qua các năm. Năm 1986, tổng sản lượng thủy sản chỉ đạt 830.500 tấn; năm 1990 là 1.019.000 tấn; đến năm 2000 đã đạt 2.003.000 tấn; năm 2004 đạt 3.073.600 tấn. Trong đó khai thác hải sản đạt tương ứng là 587.000 tấn; 709.000 tấn; 1.280.000 tấn và nuôi trồng thủy sản là 243.500 tấn; 310.000 tấn; 723.000 tấn; 1.150.100 tấn. Ngành công nghiệp chế biến thủy sản ở nước ta đã có bước phát triển nhanh về năng lực chế biến. Năm 1996 cả nước có hơn 40 doanh nghiệp chế biến thủy sản. Đến năm 2004, cả nước đã có 405 doanh nghiệp. Trong đó có 153 doanh nghiệp chế biến thủy sản trong Danh sách 1 xuất khẩu vào thị trường EU, 237 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào Hàn Quốc và 295 doanh nghiệp đủ điều kiện xuất khẩu vào Trung Quốc. 1.2. Tình hình xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ. 1.2.1. Về kim ngạch xuất khẩu. Nhận thức được tầm quan trọng của việc đa dạng hóa thị trường xuất khẩu trong việc gia tăng giá trị xuất khẩu, hình thành thế chủ động và cân đối về thị trường, ngành thủy sản đã thực hiện mở rộng thị trường xuất khẩu sang EU, Hàn Quốc, Trung Quốc và Hồng Kông, ASEAN, Đài Loan, Mỹ…Đặc biệt thị trường Mỹ được đánh giá là một thị trường thủy sản đầy tiềm năng: Với dân số trên 270 triệu người, lại có mức sống cao, nước Mỹ hàng năm tiêu thụ hàng triệu tấn thủy sản các loại.Theo số liệu cuả Viện Nghề cá quốc gia Hoa Kỳ (NFI), mức tiêu thụ thủy sản thực phẩm bình quân của người Mỹ năm 2000 đã đạt 7,02 kg. Bởi vậy, mặc dù là nước có tiềm năng về thủy sản ( là một trong 10 nước có sản lượng thủy sản cao nhất thế giới ), hàng năm Mỹ vẫn phải nhập khẩu rất nhiều các mặt hàng thủy sản. Hiện nay, Mỹ là nước đứng thứ hai sau Nhật về nhập khẩu thủy sản trên thế giới.Bên cạnh đó, Mỹ là một quốc gia đa sắc tộc, với những mức thu nhập khác nhau nên người tiêu dùng có sở thích mua tất cả các loại sản phẩm từ đắt tiền đến rẻ tiền từ khắp nơi trên thế giới. Ngoài ra, để bảo tồn nguồn lợi thủy sản, Mỹ chủ trương tăng nhập giảm xuất và xu hướng này vẫn kéo dài trong những năm tới đây. Chính vì lẽ đó mà Mỹ là một thị trường thủy sản rất hấp dẫn. Từ năm 1994 Việt Nam bắt đầu xuất khẩu hàng thủy sản sang Mỹ với giá trị ban đầu còn rất thấp 5,8 triệu USD, đến năm 2000 tăng lên 304.359 triệu USD và năm 2003 đạt 782,238 triệu USD (tăng 19,3% so với năm 2002). Nhưng 11 tháng năm 2004 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này lại giảm chỉ đạt 522.542 triệu USD ( chiếm 24,1% giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam). Và thị trường Mỹ từ vị trí đứng đầu giai đoạn 2001- 2003, đến 2004 xuống vị trí thứ hai sau Nhật Bản. Nguyên nhân chính của sự thay đổi cơ cấu thị trường và sự của kim ngạch xuất khẩu là do tác động của vụ kiện cá tra/basa năm 2002-2003 và vụ kiện tôm năm 2004; cũng như chất lượng, mẫu mã sản phẩm chưa theo kịp yêu cầu và thị hiếu của thị trường nhập khẩu. 1.2.2. Về cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất khẩu. Bảng: Cơ cấu các mặt hàng XK chính vào thị trương Mỹ. Đơn vị: KL: khối lượng: tấn; GT: Giá trị: triệu USD. Năm 2002 2003 11 tháng 2004 Mặt hàng KL GT KL GT KL GT Tôm 45.801 467,332 52.439 513,276 32.018 343,376 Cá 38.993 144,979 55.390 209,628 38.091 127,212 Mực & bạch tuộc 1.396 3,334 1.691 3,846 1.380 3,343 Hàng khô 140 0,416 659 2,627 Qua bảng trên ta thấy hai mặt hàng thủy sản chủ lực của Việt Nam sang thị trường Mỹ là tôm và cá. Về tôm: Đây là một trong những mặt hàng chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ thời gian qua. Năm 1999 với giá trị 95 triệu USD Việt Nam đứng thứ 9 trong 10 nước cung cấp tôm hàng đầu cho thị trường này. Năm 2000: đạt 217,4 triệu USD, vươn lên đứng hàng thứ 7. Năm 2001: đạt 339 triệu USD, chiếm vị trí thứ 6. Năm 2003: đạt 513,276 triệu USD. Nhưng 11 tháng đầu năm 2004 chỉ đạt 343,376 triệu USD, do ảnh hưởng của Bộ Thương Mại Mỹ áp đặt mức thuế cao trong vụ kiện chống bán phá giá tôm đã làm giảm kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang Mỹ. Đây là mặt hàng xuất khẩu mang lại nhiều ngoại tệ nhất trong các loại thủy sản. Nhưng mặt hàng tôm xuất khẩu dưới dạng cấp đông ít qua chế biến nên giá trị ngoại tệ thu được còn thấp so với khả năng. Về cá: Mặt hàng này trong thời gian qua có tốc độ tăng đáng kể, năm 2000 đạt gần 59 triệu USD. Với khối lượng 5 triệu Pound cá tra và cá basa chiếm 5-6% thị trường cá da trơn của Mỹ. Tuy trị giá chỉ chiếm 25% so với mặt hàng tôm, nhưng hiện nay Việt Nam là một trong số những nước đứng đầu xuất khẩu cá da trơn sang thị trường Mỹ, cạnh tranh mạnh mẽ với những nhà cung cấp cá nheo của Mỹ. Năm 2003 và 2004 thị trường Mỹ chiếm vị trí thứ nhất về giá trị mặt hàng này. Năm 2004 mặc dù khối lựong và giá trị đều giảm mạnh nhưng vẫn đạt trên 127 triệu USD (-34,3%) với khối lượng trên 38 nghìn tấn (-25%). II. Đánh giá khái quát về hoạt động xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ trong thời gian qua. 2.1. Những kết quả đạt được. Từ thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản vào thị trường Mỹ thời gian qua, chúng ta thấy xuất khẩu thủy sản đã có nhiều thành công , thể hiện rõ bước phát triển của ngành , góp phần ổn định và phát triển kinh tế đất nước. Có thể khẳng định đây là một thị trường có tốc độ tăng trưởng nhanh, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên qua các năm: năm 1994 chỉ đạt 5,8 triệu USD nhưng đến năm 2000 đã tăng lên 304,359 triệu USD và năm 2003 đã lên đến 782,238 triệu USD đóng góp lượng lớn ngoại tệ cần thiết cho sự nghiệp phát triển kinh tế nước nhà. Đồng thời đưa thị truờng Mỹ trở thành thị trường nhập khẩu hàng thủy sản của Việt Nam lớn nhất với thị phần đã thay đổi một cách ngoạn mục từ 11,6% năm 1998 lên 32,4% năm 2002 và 35,3% năm 2003. Bên cạnh đó, chất lượng của các mặt hàng ngày càng được cải thiện và đã tạo dựng được uy tín nhất định được nhiều người tiêu dùng Mỹ biết đến: Theo đánh giá của người tiêu dùng Mỹ thì các sản phẩm thủy sản của ta ngoài sự đa dạng về chủng loại( có tới 135 loại sản phẩm khác nhau) còn có chất lượng tốt, mùi vị thơm ngon vì nuôi chủ yếu theo kiểu quảng canh và quảng canh cải tiến nên vị tôm ngọt tự nhiên, ngon hơn tôm nuôi công nghiệp của Thái Lan và Indonesia nên bán được giá cao hơn. Thí dụ, năm 2000, mặc dù Việt Nam chỉ xuất 15.000 tấn tôm nhưng giá trị rất cao 224 triệu USD. Trong khi đó ấn Độ xuất những 26.000 tấn mà chỉ thu được có 223 triệu USD.Tính ra 1kg tôm của Việt Nam bán được 14,935 USD, của Mehico là 13,961 USD, của Thái Lan là 11,895 USD và của ấn Độ là 8,076 USD. Ngoài ra, nhiều nhà máy chế biến sử dụng công nghệ hiện đại nên có khả năng đáp ứng tốt hơn nhu cầu hàng giá trị gia tăng của thị trường Mỹ. Nhiều Doanh nghiệp đã đảm bảo được tiêu chuẩn về quản lý chất lượng (HACCP) ,GMP, ISO 9000, ISO 14000…Ngành Thủy sản đã có sự quan tâm hỗ trợ đối với các Doanh Nghiệp xuất khẩu thủy sản vào thị trường Mỹ. Những kết quả đạt được trên đây đã đưa Ngành thủy sản Việt Nam trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng nhất, góp phần không nhỏ vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, đưa Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới, nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế… 2.2. Những tồn tại và nguyên nhân. Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ trong thời gian qua đã có những dấu hiệu khởi sắc, nhất là từ năm 2001. Tuy nhiên, thị trường Mỹ và mặt hàng thủy sản của Việt Nam còn có những khó khăn và hạn chế: * Về phía Việt Nam: Trước hết, các mặt hàng thủy sản của ta xuất khẩu vào thị trường Mỹ chủ yếu vẫn là ở dạng nguyên liệu thô và sơ chế; chưa đáp ứng yêu cầu vệ sinh thực phẩm , tiêu chuẩn về độ tươi sống; cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa đa dạng, mẫu mã kiểu dáng chưa theo kịp yêu cầu và thị hiếu của thị trường nhập khẩu, chất lượng chưa cao.Một số trường hợp chưa đáp ứng tiêu chuẩn kiểm định ngặt nghèo của Mỹ nên bị tái xuất hoặc chưa hấp dẫn người tiêu dùng. Bên cạnh đó , thủy sản mà Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu là thủy sản thực phẩm, còn các loại thủy sản phi thực phẩm như thức ăn gia súc, dầu cá, bột cá, cá cảnh…, còn rất ít trong khi nhu cầu những sản phẩm này trên thị trường Mỹ là rất lớn. Thứ hai, thủy sản Việt Nam gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt chẳng những về giá cả, chất lượng mà cả phương thức thanh toán đối với nhiều địch thủ trên thị trường Mỹ như : Thái Lan, ấn Độ, Mehico, Ecuador…Những nước này có bề dày kinh nghiệm làm ăn với Mỹ từ vài thập niên qua, có thị phần lớn. Còn các sản phẩm về cá thì Việt Nam lại gặp phải sừ cạnh tranh của chính các doanh nghiệp thủy sản Mỹ. Đặc biệt đó là các loại cá nheo, hiện chiếm đến 95% sản lượng cá nước ngọt, 56,7% sản lượng và 52,3% giá trị nuôi trồng thủy sản của Mỹ. Thứ ba, sự hiểu biết của các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam về thị trương Mỹ, về luật lệ làm ăn của Mỹ còn quá ít. Các doanh nghiệp Việt Nam còn bị động trong việc tìm kiếm khách hàng, xây dựng hợp đồng, xác định giá cả mua bán thủy sản..., yếu về công tác marketing, xúc tiến thương mại. Cho đến nay, chỉ có một số ít doanh nghiệp là tham gia hội trợ thủy sản Boston tại Mỹ tổ chức vào tháng 3 hàng năm, mới chỉ có hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam là có văn phòng đại diện tại Mỹ. Trong khi đó, các nước xuất khẩu lớn thủy sản vào Mỹ đều đã thiết lập nhiêu văn phòng ở khắp các thành phố khác nhau trên nước Mỹ để kịp thời nắm bắt thông tin và những biến động của thị trường thủy sản Mỹ nhằm cung cấp cho các doanh nghiệp trong nước. Thứ năm, hoạt động thâm nhập thị trương còn thụ động, hầu như phải qua trung gian nên kim ngạch xuất khẩu còn thấp. Thứ sáu, chưa có chương trình tổng thể xúc tiến xuất khẩu thủy sản Việt Nam trên thị truờng Mỹ. Công tác xúc tiến thương mại vào thị trương Mỹ chưa tốt , mới chỉ thực hiện kênh thông tin cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý, còn kênh thông tin cho người tiêu dùng ở Mỹ thì chưa làm được và chưa có cơ chế huy động nguồn lực thực hiện. Thứ bảy, công nghiệp chế biến vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường Mỹ, đến nay Việt Nam mới có hơn 75 doanh nghiệp chế biến xây dựng và áp dụng chương trình quản lý chất lượng theo hệ thống HACCP, trong đó chỉ hơn 50 doanh ngiệp áp dụng có hiệu quả và được Mỹ chấp nhận. Thứ tám, trình độ học vấn và tay nghề của công nhân còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu thị trường. Thứ chín, mặc dù đã có rất nhiều cố gắng và đạt kết quả tương đối tốt, nhưng hiện nay ngành thủy sản Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề phải giải quyết như : khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên ven bờ, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp ồ ạt, thiếu quy hoạch, thiếu giống, thiếu trình độ chuyên môn. Trong chế biến thì vẫn còn đến 2/3 số doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ chưa đáp ứng yêu cầu đối với sản xuất và quản lý theo tiêu chuẩn ngành về an toàn vệ sinh thực phẩm. * Về phía đối tác: Một là, thị trường Mỹ đòi hỏi sản phẩm thủy sản nhập khẩu phải có chất lượng tốt, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm nên họ đặt những luật lệ rất nghiêm ngặt về vấn đề này. Theo đó, các doanh nghiệp xuất hàng vào Mỹ phải thực hiện kiểm tra chất lượng và vệ sinh thủy sản theo quan điểm của HACCP. Bên cạnh đó, lấy lý do là bảo vệ nguồn lợi thiên nhiênvà môi trường thế giới nói chung nên Mỹ còn đưa ra những rào cản kỹ thuật nhằm gây khó khăn cho các nhà xuất khẩu thủy sản vào thị trường Mỹ. Thí dụ, với một số nước như Thái Lan , ấn Độ…,muốn xuất khẩu được thủy sản vào Mỹ, doanh nghiệp phải có chứng nhận công nghệ đánh bắt không mang tính hủy diệt các loại hải sản quý hiếm hoặc quy trình nuôi không gây ô nhiễm môi trường xung quanh..Đây chính là những vấn đề mà Việt Nam phải nghiên cứu vì trước sau Mỹ cũng sẽ áp dụng những quy định này đối với các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Hai là, thị trường Mỹ quá rộng lớn; hệ thống pháp luật rất phức tạp và đây là thị trường ở quá xa Việt Nam, cho nên chi phí vận tải và bảo hiểm chuyên chở hàng xuất khẩu lớn; tính cạnh trạnh trên thị trường Mỹ cao. Như vậy, bên cạnh những thành công đạt được như mở rộng thị phần, tăng kim ngạch xuất khẩu… thủy sản Việt Nam còn gặp phải những khó khăn vướng mắc cần giải quyết như đã trình bày ở trên có thế mới góp phần nâng cao được khả năng xuất khẩu hàng thủy sản cả về mặt khối lựong cũng như giá trị. Chương III : Một số giải pháp nâng cao khả năng xuất khẩu cho hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ trong thời gian tới. I. Phát triển hoạt động nghiên cứu thị trường và đẩy mạnh xúc tiến hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ. 1.1. Tăng cường nghiên cứu thị trường. Đây là nội dung có ý nghĩa quan trọ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc747.doc
Tài liệu liên quan