Luận văn Ý thức pháp luật với quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay

MỤC LỤC

 

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở NÔNG THÔN NƯỚC TA HIỆN NAY 8

1.1. Những biểu hiện ý thức pháp luật của người nông dân nước ta hiện nay 8

1.2. Vai trò của ý thức pháp luật trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn hiện nay 26

Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO NÔNG DÂN NHẰM THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở NÔNG THÔN NƯỚC TA HIỆN NAY (QUA THỰC TẾ MỘT SỐ TỈNH PHÍA BẮC) 59

2.1. Thực trạng ý thức pháp luật của nông dân nước ta hiện nay 59

2.2. Một số giải pháp nâng cao ý thức pháp luật cho nông dân nhằm thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay 84

KẾT LUẬN 103

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105

PHỤ LỤC 111

 

 

 

doc112 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3253 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ý thức pháp luật với quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n đó là mục tiêu hiện thực hóa quyền lực thuộc về nhân dân, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân lao động, quyền và nghĩa vụ của người nông dân được tôn trọng và được thể chế hóa bằng pháp luật. Đó là việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ cơ sở với phương châm: "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" và ba phương thức của cơ chế: dân chủ trực tiếp, đại diện và tự quản. 1.2.2. Vai trò ý thức pháp luật với thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay 1.2.2.1. Mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật Trước hết chúng ta cần làm rõ một số khái niệm liên quan và xem xét mối quan hệ dân chủ và pháp luật trong quy luật tự do và tất yếu ra sao? Có thể nói, lịch sử từ trước tới nay, bất cứ Nhà nước dân chủ nào cũng đều phải dùng pháp luật để quản lý, điều hành xã hội, đồng thời tăng cường hoàn thiện các thiết chế tương ứng để duy trì trật tự xã hội ấy. "Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc", đó là mục tiêu lớn nhất của mỗi chế độ dân chủ nhất định. Tuy nhiên, một thực tế trở thành quy luật đó là không phải đối với người dân thứ gì Nhà nước cũng "luật hóa" nếu như quyền tự do (nhân quyền), quyền dân chủ (dân quyền) được Nhà nước bảo hộ thông qua quy phạm pháp luật là hoàn toàn đúng về nguyên tắc, song, con người không chỉ ăn ở mặc đi lại mà còn các nhu cầu vật chất, tinh thần khác nữa, chưa nói đến tâm lý, tình cảm, đạo đức, học vấn, sở thích... những việc như: trai làng nhất thiết phải tham gia Lễ hội của làng, những "quy ước" có tính chất "Luật bất thành văn" ở nông thôn Việt Nam không hẳn cần pháp luật can thiệp vào mà với tư cách là công dân, người dân trong chế độ dân chủ có quyền làm bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm. Mặt khác, để đảm bảo quyền tự do, quyền dân chủ của người dân, Nhà nước phải thể chế hóa bằng pháp luật chứ không thì xã hội trở nên rối loạn, vô chính phủ, bởi lẽ pháp luật sẽ là công cụ sắc bén, có uy quyền, có hiệu lực để đảm bảo cho mỗi người, mọi người trong xã hội không xâm phạm tự do của nhau, mọi người sống và hoạt động trong một khuôn khổ chung, theo một thước đo hành vi chung đó là pháp luật. Vậy pháp luật là gì? "Pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận) và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra trật tự ổn định trong xã hội" [34, tr.160]. Chúng ta biết rằng pháp luật với tư cách là công cụ, là phương tiện những quy tắc có tính chung nhất của một Nhà nước, của giai cấp cầm quyền nhằm mục đích củng cố và bảo vệ trật tự mà xã hội mong muốn. Bởi vậy, nói đến một chế độ dân chủ, được xem như một chế độ chính trị - xã hội, một hình thức nhà nước, lẽ dĩ nhiên nó phải gắn liền với pháp luật, không thể có Nhà nước mà không có pháp luật, vì vậy, nhấn mạnh tầm quan trọng của pháp luật trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ (khóa VII) của Đảng ta đã chỉ rõ: "tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa" [14, tr.56]. Dân chủ và pháp luật là những phạm trù chính trị - xã hội. Đây cũng được xem là hai nhân tố cần thiết tương tác hữu cơ cấu thành lên một chỉnh thể đó là nhà nước pháp quyền. Bởi lẽ, để cho Nhà nước pháp quyền xuất hiện thứ nhất, phải có nhu cầu dân chủ, với việc xác định chủ thể quyền lực nhà nước là nhân dân. Do nhu cầu phát triển dân chủ đòi hỏi phải có phương pháp quản lý có hiệu quả nhằm đảm bảo quyền tự do dân chủ của nhân dân. Thứ hai, phương pháp quản lý đó chỉ có thể bằng pháp luật, bởi vì, pháp luật là đại lượng mang tính phổ biến. Có thể đo mức độ công bằng, là tiêu chuẩn điều chỉnh hành vi con người và là phương tiện xác định quyền và trách nhiệm của nhà nước cũng như của công dân. Còn pháp chế là những chế định pháp luật bắt buộc của bộ máy quản lý pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội, để duy trì trật tự pháp luật thể hiện tính quyền uy, tính nghiêm minh của pháp luật hiện hành, là sự tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, của các cơ quan, đơn vị tổ chức và đối với công dân. Vậy mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật trong quy luật tự do và tất yếu như thế nào? - Phải khẳng định rằng, giữa dân chủ và pháp luật luôn có mối quan hệ khăng khít và tác động qua lại lẫn nhau. Nếu nói dân chủ cho mọi người, hay quyền làm chủ của mỗi công dân, quyền tự do của nhân dân cần được hiểu theo nghĩa rộng đó là quyền thực sự của mỗi công dân được làm bất cứ những gì mà pháp luật không cấm, nói một cách khác những gì ngoài "hành lang" pháp lý quy định. Còn hiểu theo nghĩa hẹp, trong mối quan hệ xã hội nhất định thì tự do của mỗi công dân phải tuân thủ theo những gì pháp luật cho phép. Biết rằng, trong một xã hội nhất định, với tư cách công dân, sẽ không có tự do nếu không tuân thủ những nguyên tác, chế định chung bắt buộc tự do của mỗi người phải đặt trong quan hệ tự do của người khác, của cộng đồng và xã hội. Nói một cách khác, một người muốn có tự do cho mình, thì tất yếu phải tuân thủ những yêu cầu pháp lý cần thiết, lợi ích của họ phải gắn liền với nghĩa vụ trách nhiệm nhất định. Cũng bởi vậy, sẽ không có dân chủ thực chất nếu như các quy định pháp luật về dân chủ không được thực thi hoặc bị cắt xén, thực thi sai lệch. Tự do được đảm bảo bằng pháp luật nhưng nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan cá nhân. Cũng như dân chủ với tư cách là một hình thức nhà nước, dân chủ là cụ thể. Nên khi đề cập mối quan hệ dân chủ và pháp luật trong quy luật tự do và tất yếu, Mác quan niệm: Tự do được thừa nhận về pháp lý tồn tại trong Nhà nước dưới dạng pháp luật. Pháp luật - đó là những tiêu chuẩn tích cực, rõ ràng phổ biến, trong đó tự do có được tồn tại không phụ thuộc vào sự chuyên quyền của cá nhân riêng biệt. Bộ luật là kinh thánh tự do của nhân dân. Mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật rất khăng khít tác động qua lại với nhau, ở chỗ: - Pháp luật ra đời cùng với Nhà nước, từ những quy tắc ứng xử chung đó là các quy phạm pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Theo Ph.Ăngghen "quy tắc đó, thoạt tiên là thói quen, sau đó trở thành pháp luật" [40, tr.378]. Pháp luật là công cụ quản lý xã hội của Nhà nước, của giai cấp cầm quyền. Với tính cách là một chế độ chính trị xã hội, dân chủ lấy pháp luật làm phương tiện đảm bảo thể chế chính trị ấy. Pháp luật là phương tiện của dân chủ nhưng không rút ra từ dân chủ, mà rút ra từ nhu cầu bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị và nhu cầu của Nhà nước để quản lý xã hội. Dân chủ với nghĩa quyền lực thuộc về nhân dân, là mục tiêu và động lực phát triển của xã hội, lại được hình thành từ kết quả đấu tranh lâu dài của nhân dân lao động. Là sản phẩm của quá trình nhận thức, là những nấc thang phản ánh tiến bộ xã hội loài người. Chúng ta biết rằng, cơ sở quyết định và chi phối sự phát triển của pháp luật và dân chủ đó là yếu tố kinh tế, là tồn tại xã hội. Pháp luật và dân chủ là những bộ phận trong kết cấu kiến trúc thượng tầng, ý thức xã hội, tuy đặc tính, chức năng có khác nhau nhưng chúng lại có mối quan hệ gắn bó mật thiết qua lại với nhau. Pháp luật nhìn chung phụ thuộc vào trình độ nền dân chủ hiện hành hoặc ảnh hưởng tác động của các nền dân chủ khác. Ví dụ, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (sửa đổi, 1992) trên nền tảng của những luật pháp (1946), (1959), (1980) nó có những điều chỉnh, sửa đổi phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế kinh tế thị trường XHCN và công ước quốc tế. Còn dân chủ lại phụ thuộc vào các điều kiện khách quan về kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên, pháp luật cũng có tác động trở lại đối với dân chủ. Pháp luật có thể thúc đẩy dân chủ phát triển, hoặc ngược lại kìm hãm sự phát triển của dân chủ dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Chẳng hạn, một quy định pháp luật không rõ ràng, thiếu minh bạch hay không đúng đắn sẽ là cơ hội để cho người ta lợi dụng, xuyên tạc, thậm chí vi phạm về dân chủ. Do vậy, trong một chừng mực nhất định, để tránh những lợi dụng dân chủ, vi phạm về pháp luật trong các văn bản quy phạm pháp luật phải hết sức tránh dùng từ ngữ đa nghĩa, trừu tượng, hay từ địa phương. Nói đến dân chủ với nghĩa quyền lực thuộc về nhân dân, điều đó cần được hiểu các quyền của công dân phải được thể chế hóa bằng pháp luật, thông qua hệ thống pháp luật; bởi pháp luật, pháp quyền XHCN là của nhân dân lao động xây dựng lên, không có dân chủ chung chung, trừu tượng, dân chủ là cụ thể. "Dân chủ là quyền làm chủ chính đáng của người dân, được thể chế bằng pháp luật cụ thể" [21, tr.35]. Với chức năng quan trọng của mình, pháp luật là cơ sở đảm bảo cho quyền dân chủ được thực hiện, pháp luật là những quy định thành văn đảm bảo cho dân chủ vận động trong khuôn khổ, trật tự, hành lang hợp lý và nó là công cụ của mỗi cá nhân trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. 1.2.2.2. Vai trò của ý thức pháp luật với thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay Như ở trên ta đã nêu, ý thức pháp luật là sự phản ảnh đời sống pháp luật của con người, là quá trình nhận thức về pháp luật nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội của con người. Như vậy, pháp luật vừa là đối tượng nhận thức của ý thức pháp luật vừa là sản phẩm hoạt động sáng tạo của ý thức đó. Pháp luật ra đời, tồn tại và phát triển thông qua ý thức pháp luật của con người, pháp luật chính là sự thể hiện những nhận thức về các hiện tượng pháp lý tồn tại trong đời sống xã hội, từ đó đưa ra những cách thức xử sự chung cho các chủ thể. Điều đó chứng tỏ ý thức pháp luật thông qua hệ thống pháp luật thể hiện vai trò quan trọng của mình đối với dân chủ. Hoàn toàn đúng, khi nói: "dân chủ là ước mơ từ ngàn xưa của loài người, là mục tiêu và phương châm hành động của các dân tộc..." [25, tr.10]. Vì rằng, dân chủ là kết quả của quá trình nhận thức, là tất yếu của tiến bộ xã hội, quá trình ấy nó được hiện thực hóa, nó được bảo đảm một cách chắc chắn bằng hệ thống pháp luật tiến bộ. Như vậy, có thể nói thước đo trình độ, tiêu chí về dân chủ, bất luận nó đều gắn với việc thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội, điều đó đồng nghĩa với việc khẳng định vai trò to lớn của pháp luật với dân chủ, bởi lẽ pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất điều chỉnh quan hệ xã hội, đảm bảo cho quyền dân chủ được thực hiện. Vì vậy, để có được pháp luật tốt thì ý thức pháp luật phải ở trình độ cao, sự phản ánh đời sống pháp luật phải chân thực, có như vậy hệ thống pháp luật mới xây dựng theo hướng tích cực phù hợp với nền dân chủ chân chính của dân, do dân, vì dân. Ngược lại, nếu ý thức pháp luật phản ánh sai lệch không chân thực, thiếu khách quan sẽ dẫn đến việc thực hiện các quy định pháp lý kém hiệu quả. Điều này càng chứng tỏ vai trò hết sức quan trọng của ý thức pháp luật trong việc đảm bảo quyền tự do dân chủ của công dân. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới hiện nay, chủ trương của Đảng ta về xây dựng và tiếp tục thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, nhằm phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân lao động thì ý thức pháp luật lại có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Điều đó thể hiện như sau: Thứ nhất, phải khẳng định vai trò ý thức pháp luật hết sức quan trọng, là khâu đột phá trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn hiện nay: Để phát huy dân chủ ở cơ sở phải xuất phát từ nhu cầu bức thiết nâng cao đời sống pháp luật, nâng cao dân trí, hiểu biết và tôn trọng pháp luật của nhân dân ta. Như Nghị quyết VI của Đảng ta đã nhấn mạnh "điều kiện quan trọng để phát huy dân chủ là phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN, nâng cao dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân" [13, tr.90-91]. Vì rằng, đời sống pháp luật, mặt bằng dân trí pháp luật của người nông dân Việt Nam vốn dĩ đã rất thấp. Dưới chế độ phong kiến thực dân trước đây, người nông dân Việt Nam luôn mất tự do, không có dân chủ. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, người dân Việt Nam nói chung và người nông dân nói riêng trở thành người làm chủ vận mệnh của mình, quyền dân chủ của họ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội được tôn trọng và bảo đảm bằng pháp luật. Chẳng hạn, ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã khẳng định: "Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa" [26, tr.9]. Tuy quyền dân chủ được pháp luật công nhận và bảo đảm, nhưng do điều kiện kinh tế chậm phát triển, cơ chế quan liêu bao cấp kìm hãm nên thói quen ứng xử các mối quan hệ xã hội theo pháp luật của người nông dân là rất hạn chế. Mặt khác, Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. song trên thực tế, trước thời kỳ đổi mới, hệ thống pháp luật ở nước ta chậm đổi mới, có những quy phạm pháp luật trở nên lạc hậu, quyền và lợi ích cá nhân bị coi nhẹ, bên cạnh đó cơ chế cũ, sự lạm quyền của một số cán bộ đảng và chính quyền đã cản trở việc tiếp cận, hiểu biết về pháp luật của người nông dân, nhất là bà con ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người. Sang thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương phát huy dân chủ cơ sở, mở rộng quyền tự chủ của mọi người dân trên cơ sở giữ vững kỷ cương phép nước, do đó phải nâng cao ý thức pháp luật cho người dân. Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: "Phát huy dân chủ, đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền giáo dục toàn dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật" [16, tr.135]. Hơn nữa do yêu cầu đòi hỏi cơ chế thị trường, phát triển sản xuất kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Nhu cầu tự chủ trong sản xuất kinh doanh, các quyền và nghĩa vụ của công dân phải được pháp luật công nhận và công khai hóa. Đối với người nông dân ở địa bàn nông thôn cơ chế mới trước hết là sản xuất nông nghiệp, cơ chế khoán sản phẩm đến người lao động (Chỉ thị 100 của Ban Bí thư) khoán đến hộ kinh tế gia đình (Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị) đã phát huy tác dụng làm thay đổi bộ mặt nông thôn, nâng cao đời sống kinh tế của người nông dân, đặc biệt nó làm thay đổi cách nghĩ cách làm của họ. Tiếp đó, những vụ việc liên quan đến pháp luật phát sinh như tranh chấp đất đai, công khai, thu chi các khoản người dân đóng góp... ở làng xã, thôn bản... đòi hỏi phải bàn bạc dân chủ trong nhân dân. Những vấn đề đó phải được quy định bằng văn bản có tính pháp lý. Do đó, để biết mình phải làm những gì, và có quyền lợi gì, người nông dân phải tiếp cận pháp luật, phải hiểu biết pháp luật mới thực hiện đúng pháp luật. Khi người nông dân còn chưa hiểu hoặc hiểu không đầy đủ về những quy định pháp luật thì rất dễ dẫn đến sai phạm pháp luật; như vậy, thái độ tôn trọng xây dựng ý thức pháp luật, hiểu biết pháp luật là rất cần thiết, đây là yếu tố đầu tiên để người nông dân ý thức được quyền làm chủ của mình. với ý nghĩa ấy, cho phép chúng ta khẳng định vai trò quan trọng của ý thức pháp luật, là khâu đột phá trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay. Hai là, ý thức pháp luật có tác động to lớn làm chuyển đổi mạnh mẽ nhận thức về quyền và trách nhiệm của người nông dân với tư cách là công dân: Như trên chúng ta đã nêu, toàn bộ hoạt động của bộ máy chính quyền cơ sở (xã, phường) ở địa bàn nông thôn và mối quan hệ xã hội của người nông dân trước đây vận hành theo cơ chế cũ, quan liêu bao cấp, do vậy người nông dân ít có điều kiện tiếp cận đến những quy định pháp luật, về kinh tế chế độ phân phối bình quân chủ nghĩa khiến người nông dân thỏa mãn với nhu cầu của mình, quan niệm "cào bằng" ai cũng như ai, khen chê do người lãnh đạo đánh giá, cơ chế thói quen cũ đã hạn chế quyền làm chủ của người dân, bởi vai trò tập thể chung chung đã che khuất, làm lu mờ vai trò của cá nhân trong xã hội, với những nhu cầu rất bức thiết khác nhau. Bước sang cơ chế mới, cùng với sự đổi mới của hệ thống chính trị, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, hệ thống pháp lý cũng đổi mới đã tác động đến ý thức pháp luật của mọi người dân; trong đó, nhận thức về quyền lợi và nghĩa vụ của người nông dân với tư cách là công dân cũng thay đổi theo, những vấn đề ăn chia, phân phối về kinh tế trước đây do Ban quản lý lập kế hoạch và phân phối lại cho xã viên, nay người nông dân tự hạch toán sản xuất trên diện tích nông nghiệp được giao, trước đây việc bình xét qua giơ tay biểu quyết, sang cơ chế mới có những việc phải thay đổi hẳn như đấu thầu, bỏ thầu sản xuất kinh tế, phải bỏ phiếu kín, dân chủ công khai, hay việc đóng góp phải dựa vào văn bản hướng dẫn nào, quyền và trách nhiệm của người nông dân được đặt ra một cách công khai, có khi rất bức xúc. Như vậy, không phải ý muốn chủ quan của con người làm thay đổi nhận thức về quyền và nghĩa vụ của người nông dân, mà do đòi hỏi của thực tế, từ sản xuất kinh tế, do tồn tại xã hội quyết định. Xem xét vấn đề quyền và nghĩa vụ của công dân lẽ tất nhiên nó phải được pháp luật cụ thể hóa, bởi pháp luật là cụ thể, dân chủ là cụ thể; quyền lợi và nghĩa vụ phải gắn với những điều kiện vật chất nếu không sẽ trở thành "quyền rơm, vạ đá" hão huyền. Vì vậy, để làm rõ quyền và nghĩa vụ của mình, người nông dân với tư cách là công dân, phải tìm hiểu, có kiến thức pháp luật nhất định, từ đó có nhận thức đầy đủ về pháp luật và có thái độ đúng về pháp luật. Những "cung bậc" quá trình chuyển đổi nhận thức về pháp luật của người nông dân cũng là những vòng khâu của quá trình nâng cao ý thức pháp luật của người nông dân trong hiện thực. Ba là, tác động của ý thức pháp luật góp phần cải tạo tư tưởng, quan niệm, tâm lý, thói quen cũ của người sản xuất nhỏ, sản xuất tiểu nông ở người nông dân, hình thành thói quen mới sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Chúng ta biết rằng, người nông dân Việt Nam ở nông thôn vốn dĩ từ nhỏ cho đến lúc trưởng thành chủ yếu là học tập, những người chủ gia đình thì tập trung sản xuất nông nghiệp, môi trường sống và những điều kiện xã hội khá hạn hẹp, đặc biệt những năm trước đổi mới. Cho nên sự hình thành ý thức pháp luật của họ chủ yếu bằng con đường giáo dục của gia đình, nhà trường. Còn vai trò giáo dục pháp luật của xã hội có thể nói hết sức đơn giản, phiến diện, chậm đổi mới. Bên cạnh đó tâm lý sản xuất nhỏ với những thói quen tập quán lạc hậu ở nông thôn như luật tục, lệ làng... thói quen ứng xử giải quyết công việc theo lối tình cảm (ở phần sau: ảnh hưởng của tâm lý sản xuất nhỏ với dân chủ - chúng ta xem xét kỹ hơn) dẫn đến tư tưởng không nhất quán, tâm lý không ổn định, hành vi thiếu tự chủ trước pháp luật... Ngày nay trong điều kiện kinh tế xã hội phát triển, cơ chế mới với những bức thiết đặt ra hàng ngày, đòi hỏi người nông dân không thể thụ động trông chờ, ỷ lại tập thể, "bó khuôn' trong phạm vi làng xã, đòi hỏi họ phải có những kiến thức pháp lý nhất định. Mặt khác, do chủ trương xã hội hóa công tác giáo dục pháp luật của Đảng, Nhà nước ta cùng với sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng, người nông dân được tiếp cận pháp luật từ nhiều "kênh" khác nhau, nên "trình độ, kiến thức về các quy phạm pháp luật hiện hành, thái độ tôn trọng đối với pháp luật và hình thành nhiều ứng xử phù hợp với yêu cầu pháp luật, có sự đánh giá và phản ứng đúng đắn đối với các hành vi pháp luật..." [60, tr.302] được nâng lên rõ rệt và nhanh chóng. Điều đó, nó góp phần loại bỏ thói quen tập quán lỗi thời "phép vua thua lệ làng", thái độ tiêu cực, xem thường pháp luật hoặc tâm lý mặc cảm, sợ sệt, lảng tránh pháp luật của một số người dân ở nông thôn. ý thức pháp luật trực tiếp tác động góp phần cải tạo tâm lý cộng đồng làng xã, xóa bỏ gianh giới thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền địa phương, bởi tuân theo hành lang pháp lý chung, người nông dân được nâng cao hiểu biết mọi mặt kinh tế, văn hóa xã hội. Từ đó nó góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân, góp phần tích cực công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Chương 2 Thực trạng và giải pháp nâng cao ý thức pháp luật cho nông dân nhằm thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay (qua thực tế một số tỉnh phía Bắc) 2.1. Thực trạng ý thức pháp luật của nông dân nước ta hiện nay 2.1.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến ý thức pháp luật của nông dân nước ta hiện nay Khác với một số hình thái ý thức xã hội khác như đạo đức, tôn giáo, văn hóa, YTPL gắn liền với một thể chế chính trị - xã hội nhất định. Nó phản ánh sâu sắc đời sống pháp luật của con người, chịu sự quy định của đời sống xã hội... ý thức pháp luật chỉ ra đời trong những điều kiện lịch sử xã hội nhất định. Do vậy, việc tìm hiểu những nhân tố ảnh hưởng YTPL của người nông dân là rất cần thiết để có những giải pháp tích cực và hữu hiệu nâng cao YTPL của họ hiện nay. 2.1.1.1. ảnh hưởng của tâm lý sản xuất nhỏ Tâm lý sản xuất nhỏ là sự phản ánh đời sống xã hội trong điều kiện nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp lạc hậu, manh mún, mang tính tự cấp tự túc. Tâm lý sản xuất nhỏ vốn dĩ là sản phẩm của xã hội phong kiến "phương thức sản xuất châu á" nó có sức ỳ rất lớn. Vì vậy, mặc dù cơ sở kinh tế - xã hội của chế độ cũ đã bị xóa bỏ từ lâu nhưng thói quen, "tâm lý sản xuất nhỏ trực tiếp là rào cản, "níu kéo" bước chuyển mình của đất nước hòa nhập vào thời đại mới" [9, tr.171]. Nó là một trong những tác nhân quan trọng gây nên nguy cơ tụt hậu về kinh tế, xã hội mà còn trực tiếp là những rào cản sự phát triển đời sống pháp luật, cản trở sự phát triển ý thức pháp luật XHCN và phát huy dân chủ của người nông dân Việt Nam hiện nay. Sức sống dai dẳng của tâm lý sản xuất nhỏ là hàng nghìn năm vì nó được duy trì và củng cố bởi nền tảng cơ sở vật chất của xã hội, bởi kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ, mà tâm lý xã hội tồn tại càng lâu dài, sức ỳ của chúng càng lớn. Với sự tồn tại lâu dài hàng nhiều thế kỷ, ảnh hưởng của tâm lý sản xuất nhỏ, sức mạnh của tập tục thói quen của người sản xuất nhỏ càng hết sức to lớn. Như V.I.Lênin nói: "Công nhân không bao giờ bị một bức tường thành nào tách khỏi xã hội cũ, mà công nhân vẫn còn giữ lại nhiều tâm lý cổ truyền" [32, tr.551]. Đến công nhân lao động trong những điều kiện nghiêm ngặt của đại công nghiệp vẫn chưa cải tạo được những thói quen lạc hậu, nếp suy nghĩ bảo thủ, lối làm việc tùy tiện, vô kỷ luật. Trong đời sống pháp luật đó là ý thức pháp luật thấp kém. Chính bởi vậy, ở nước ta, sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới với những thành tựu to lớn về mọi mặt, nhưng nó vẫn chưa đủ sức làm mất đi cơ sở kinh tế - xã hội của tâm lý sản xuất nhỏ. Thói quen, tập tục, nếp nghĩ của người sản xuất nhỏ tồn tại dai dẳng trong đời sống người dân, đặc biệt trong phần đông người nông dân ở nông thôn nước ta. Tâm lý sản xuất nhỏ ảnh hưởng trực tiếp đến ý thức pháp luật của người nông dân được biểu hiện qua thói quen giải quyết mọi công việc từ lớn đến nhỏ, hay mọi quan hệ xã hội (cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể) đều dựa trên cơ sở tình cảm, ý thức chủ quan cá nhân. Nó biểu hiện qua tâm lý ngại họp hành, học tập, nghe thông tin về chủ trương chính sách mới của Đảng và Nhà nước, của địa phương. Nó biểu hiện qua thái độ ngại va chạm, tiếp xúc với các cơ quan hành chính, các điều khoản, nội dung các văn bản pháp luật. Nó biểu hiện ở trình độ nhận thức hiểu biết pháp luật thấp. Thái độ hành động không ổn định, nôn nóng, thiếu suy nghĩ trước sau, dễ manh động, quá khích, quan niệm cho số đông bao giờ cũng là đúng, là mạnh. Ví dụ thực tế ở xã Thái Thịnh, huyện Thái Thụy, Thái Bình, ở thời điểm coi là "điểm nóng", lợi dụng chống tham nhũng, tiêu cực, một số không ít nông dân: "đã tiến hành đập phá tài sản của UBND xã, hợp tác xã nông nghiệp, họ lấy đi những gì họ lấy được. Tổng số giá trị thiệt hại 12 triệu đồng, đánh Chủ tịch UBND xã gãy xương bả vai, đánh công an viên đã được một số người giải vây cho đi cấp cứu. Tiếp đó họ kéo nhau đập phá nhà của Chủ tịch UBND xã và cán bộ địa chính, lấy đi tài sản và hàng hóa" [19]. Những phản ứng như vậy là vi phạm pháp luật. Có thể nói, ảnh hưởng của tâm lý sản xuất nhỏ là hết sức to lớn đến ý thức pháp luật của người nông dân ở nông thôn nước ta. Nó trở nên "thâm căn cố đế" trong đời sống xã hội của người nông dân Việt Nam; vì vậy, trong quá trình tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật cho người nông dân, chúng ta cần chú trọng đến tác động của yếu tố có tính chất bao trùm này. Cho đến nay và cả sau này, nếu chủ quan, nóng vội trong việc giải quyết những tụ điểm phức tạp chính trị ở địa bàn nông thôn, phải hết sức thận trọng và lưu ý đến yếu tố tâm lý sản xuất nhỏ của người nông dân. 2.1.1.2. ảnh hưởng của tập quán tâm lý làng xã Cộng đồng làng xã nông thôn Việt Nam được hình thành, phát triển tồn tại hàng ngàn năm nay gắn liền với nền sản xuất nông nghiệp mà đặc trưng chủ yếu là nghề trồng lúa nước. Chính do đặc điểm kinh tế - xã hội quy định, làng xã Việt Nam mang tính biệt lập, cát cứ, ít có mối quan hệ mở rộng. Tuy không phải là một đơn vị hành chính song làng có một vai trò quan trọng trong đời sống, trong cư dân nông nghiệp (nông dân). Trong đó lệ làng là cơ sở duy trì các mối quan hệ xã hội trong các đơn vị tụ cư của người nông dân Việt Nam. Bên cạnh những mặt tích cực và những giá trị lịch sử nhất định như góp phần củng cố, bảo tồn văn hóa làng xã, truyền thống dân tộc, chống

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van.doc
  • docmucluc.doc
Tài liệu liên quan