MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 : VAI TRÒ CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XHCN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 6
1.1. Ý thức pháp luật và vai trò của nó trong sự phát triển đời sống xã hội 6
1.1.1. Ý thức pháp luật - quan niệm và kết cấu 6
1.1.2. Vai trò của ý thức pháp luật trong sự phát triển đời sống xã hội 14
1.2. Vai trò của ý thức pháp luật trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa 18
1.2.1. Nội dung cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa 18
1.2.2. Vai trò của ý thức pháp luật trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa 33
Chương 2 : Ý THỨC PHÁP LUẬT TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XHCN Ở NƯỚC TA - NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO 49
2.1. Ý thức pháp luật ở nước ta - những nhân tố ảnh hưởng và những vấn đề đặt ra 49
2.1.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến ý thức pháp luật ở nước ta 49
2.1.2. Những vấn đề đặt ra về ý thức pháp luật trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay 68
2.2. Một số giải pháp nâng cao ý thức pháp luật đáp ứng việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay 79
2.2.1. Đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật 79
2.2.2. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật 85
2.2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật 89
KẾT LUẬN 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
PHỤ LỤC 104
103 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2829 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ý thức pháp luật với việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ọng án Trương Văn Cam.
Nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân chủ đòi hỏi mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và pháp luật xử sự bình đẳng trước mọi người. Nền dân chủ, sự bình đẳng, công lý và pháp luật suy cho cùng, cái đích đạt tới của nó là quyền con người. Trên thực tế, pháp luật đóng vai trò thể chế hóa, cụ thể hóa các nội dung dân chủ, làm cho dân chủ thông qua pháp luật mà đi vào cuộc sống, pháp luật bảo đảm thực hiện dân chủ, xử lý các vi phạm dân chủ, ủng hộ và khuyến khích các hoạt động dân chủ.
Trong quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, ý thức pháp luật của cán bộ công nhân viên chức Nhà nước có đóng góp rất lớn. Bởi vì, họ là những người thường xuyên tiếp xúc, giải quyết những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi nhiều mặt trên mọi lĩnh vực của nhân dân, đặc biệt là dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, chính trị. Để thực hiện được quá trình dân chủ hóa này, đòi hỏi cán bộ công nhân viên chức Nhà nước phải có ý thức pháp luật cao, tâm lý pháp luật phải kiên định vững vàng, có kiến thức pháp luật rộng, công minh chính trực và có tinh thần trách nhiệm trước nhiệm vụ được giao. Việc đảm bảo quyền lợi chính đáng, hợp pháp, công bằng qua các vụ việc cụ thể trong mối quan hệ giữa Nhà nước, công dân, giữa các bộ phận, các cá nhân khác nhau trong xã hội chính là sự thể hiện công bằng, dân chủ, văn minh và tiến bộ xã hội; thái độ, tác phong, ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, viên chức nhà nước sẽ tạo cho nhân dân tin tưởng hơn vào sự công bằng dân chủ của pháp luật. Từ đó thúc đẩy họ tham gia vào quá trình xây dựng Nhà nước, hiện nay là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Tâm lý pháp luật của cán bộ hành chính, có ảnh hưởng rất lớn trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể, nếu họ giải quyết một cách hợp tình hợp lý, đúng với quy định của pháp luật thì họ sẽ tạo thêm niềm tin đối với nhân dân, và ngược lại, vì một lý do nào đó (chẳng hạn trình độ hiểu biết pháp luật còn thấp hoặc có thái đội coi thường pháp luật), họ giải quyết không minh bạch, điều đó ảnh hưởng tới pháp luật Nhà nước cũng như không đảm bảo được tính khách quan dân chủ. Đối với những cán bộ trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, tâm lý pháp luật của họ tác động rất lớn đến việc xử lý từng trường hợp cụ thể. Nếu họ xét xử công minh, xử lý đúng người, đúng tội thì người dân sẽ có cảm tình với pháp luật, yên tâm tin vào pháp luật hơn. Ngược lại nếu việc xét xử không đúng người, đúng tội thì người dân dễ có thái độ coi thường pháp luật. Như Bác Hồ đã nói: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", tự do ở đây là tự do trong khuôn khổ của pháp luật XHCN cho phép, chứ không phải là tự do quá trớn. Chẳng hạn, trong điện kiện kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, mọi công dân đều được tự do buôn bán kinh doanh, nhưng không thể buôn bán ma túy, các hàng quốc cấm… Thực tế nhiều năm qua đã cho thấy, một số cán bộ có chức có quyền đã vi phạm các điều cấm trong pháp luật Việt Nam. Vì lợi nhuận cao, họ đã lợi dụng chức quyền, bất chấp pháp luật, coi thường pháp luật, họ không tự điều chỉnh được hành vi của mình, hành vi mà pháp luật không cho phép làm thì họ lại làm dù họ là người hiểu biết rõ về pháp luật. Như vậy, ý thức pháp luật, cụ thể là tâm lý pháp luật có vai trò rất lớn, nó giúp con người tự điều chỉnh hành vi của bản thân và hành vi của người khác trong xã hội.
Để nhân dân có thể hưởng các quyền tự do, dân chủ và thể hiện nghĩa vụ của mình thì họ phải có một trình độ hiểu biết, một thái độ đúng đắn và một khả năng nhất định khi sử dụng pháp luật. Sự kết hợp nhận thức pháp luật và tình cảm pháp luật thể hiện ở trình độ ý thức pháp luật, tâm lý pháp luật của người đó. Song nhận thức về pháp luật của mỗi người là khác nhau, do vậy sự hưởng thụ các quyền tự do, dân chủ và thực hiện nghĩa vụ của mình cũng có phần khác nhau. Trên thực tế, do trình độ nhận thức về pháp luật có hạn, một số đối tượng không hiểu rõ về pháp luật, thậm chí hiểu sai pháp luật, do đó có thái độ chống đối pháp luật. Đối với các đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao, trình độ văn hóa thấp, văn hóa pháp lý hạn chế, họ hiểu biết rất ít về pháp luật, thậm chí không cần quan tâm tới pháp luật, họ xem thường pháp luật, lảng tránh pháp luật. Trong các hành vi của mình họ không chú ý tới pháp luật, nhiều hành vi vi phạm pháp luật mà họ vẫn không biết. Điều này không phải do họ cố ý mà nhiều khi do không biểu biết các quy định của pháp luật, không có tình cảm đối với pháp luật, một phần do họ quen sống và xử sự theo phong tục tập quán làng xã "lệ làng".
Từ xa xưa, phong tục, tập quán, lệ làng ở nước ta thể hiện ý chí chung của cộng đồng dân cư làng xã nên các quy định của lệ làng, phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng, nội dung rất cụ thể dễ nhớ, dễ thực hiện, thường được các thành viên của cộng đồng tự giác thực hiện. Mặt khác nó tồn tại và phát triển cùng với truyền thống dân tộc là nhân tố quan trọng góp phần trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam. Lệ làng thể hiện ý chí của cộng đồng dân cư làng xã, được hình thành tự phát và tồn tại song trùng với ý thức pháp luật, nó vừa là yếu tố thống nhất hỗ trợ cho sự hình thành và phát triển của ý thức pháp luật, vừa có yếu tố mâu thuẫn với quá trình hình thành và phát triển ý thức pháp luật, nhất là ở Việt Nam hiện nay đang xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật, XHCN cho nhân dân. Đối với nhân dân ảnh hưởng của "lệ làng" trong sự hình thành ý thức pháp luật, thể hiện ở cách xử sự trong các quan hệ không theo quy định của pháp luật mà theo tập quán thói quen lâu đời… thái độ xem thường pháp luật, coi trọng "lễ nghi" phong tục, mặc dù có những lễ nghi phong tục lạc hậu, phản khoa học…
Đối với các cơ quan nhà nước sự xem thường pháp luật cũng có những biểu hiện, nhất là các địa phương tùy tiện đặt ra những quy định trái pháp luật hoặc cán bộ công chức thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, lợi dụng chức quyền làm trái pháp luật, tệ quan liêu, cửa quyền… đang là vấn đề nhức nhối cho xã hội như vụ trọng án Tân Trường Sanh, dệt Nam Định.
Sự phân tích trên cho thấy, phong tục, tập quán, thói quen, lệ làng có một phần nhỏ đã làm hạn chế sự phát triển tâm lý pháp luật và trong một số trường hợp đã làm cho tâm lý pháp luật phát triển theo hướng tiêu cực. Tâm lý pháp luật phát triển theo hướng không tích cực thì hiển nhiên việc thực hiện pháp luật bảo đảm cho nền dân chủ XHCN cũng không tránh khỏi phát triển theo hướng đó.
Tâm lý pháp luật luôn góp phần điều chỉnh mọi hành vi, mọi mối quan hệ của con người. Nếu tâm lý pháp luật tích cực thì đa số hành vi của con người diễn ra thuận chiều với quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN. Ngược lại, tâm lý pháp luật tiêu cực thì sẽ có phần cản trở sự phát triển của quá trình xây dựng nền dân chủ đó. Hơn nữa, là một bộ phận của ý thức pháp luật, tâm lý pháp luật cũng tác động tích cực tới quá trình xây dựng, hoàn thiện luật và thực thi pháp luật, đảm bảo tự do dân chủ trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa… Nói tóm lại, tâm lý pháp luật luôn giữ một vai trò quan trọng không thể thiếu được trong quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN. Hiện nay chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, trong Nhà nước ấy pháp luật thể hiện ý chí của nhân dân, là công cụ đảm bảo quyền tự do bình đẳng cho mọi người, pháp luật ấy thật sự có hiệu quả đi vào cuộc sống theo chiều hướng tích cực thì hiển nhiên không thể không tính đến vai trò của ý thức pháp luật trong đó có tâm lý pháp luật.
Chương 2
ý thức pháp luật trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta - những nhân tố ảnh hưởng và giải pháp nâng cao
2.1. ý thức pháp luật ở nước ta - những nhân tố ảnh hưởng và những vấn đề đặt ra
2.1.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến ý thức pháp luật ở nước ta
ý thức pháp luật ra đời vào thời kỳ chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã và hình thành chế độ chiếm hữu nô lệ. Thời kỳ đầu, luật lệ được quan niệm là những quyết định của thần thánh, mang đậm màu sắc thần thoại, thần bí, tín ngưỡng. Giai đoạn sau pháp luật được quan niệm thuộc thẩm quyền lý tính của con người. Những tư tưởng pháp luật thần kỳ này nhằm luận chứng cho trật tự của chế độ nô lệ, củng cố, bảo vệ quyền sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và nô lệ.
ở Việt Nam, quá trình hình thành ý thức pháp luật không chỉ tuân thủ theo quy luật chung mà còn mang đặc điểm riêng quá trình dựng nước và giữ nước, Việt Nam trong hoàn cảnh và điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, nền sản xuất tiểu nông lạc hậu, phân tán và phải liên tục đương đầu với nhiều cuộc chiến tranh xâm lược. Sự hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam không chỉ được quy định bởi điều kiện kinh tế - xã hội và sự tác động qua lại của các hình thái xã hội khác như chính trị, đạo đức, văn hóa dân tộc mà còn chịu ảnh hưởng của các hệ tư tưởng, ý thức pháp luật nước ngoài. Trong lịch sử, dân tộc Việt Nam phải đương đầu với sự xâm lược và âm mưu thôn tính của bọn phong kiến phương Bắc hàng ngàn năm, của thực dân Pháp xâm lược gần trăm năm, của đế quốc Mỹ trong vài chục năm. Chính vì thế, việc chịu ảnh hưởng tư tưởng pháp luật ngoại bang là điều khó tránh khỏi, trong đó tư tưởng "đức trị" và "pháp trị" của phong kiến Trung Quốc ảnh hưởng khá nặng tới quá trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam.
2.1.1.1. ảnh hưởng của lệ làng
Nhà nước đầu tiên ở Việt Nam là Nhà nước Văn Lang (thời Hùng Vương) ra đời khoảng thế kỷ VII - VI trước công nguyên. Đặc điểm kinh tế - xã hội thời kỳ này là những gia đình nhỏ đã ra đời, bên cạnh đó vẫn tồn tại gia đình lớn cùng với quá trình phát triển của gia đình nhỏ, công xã thị tộc dần dần tan rã nhường chỗ cho công xã nông thôn. C. Mác đã chỉ ra ba đặc trưng cơ bản của công xã nông thôn: Đó là tập đoàn xã hội đầu tiên của những người tự do; ruộng đất thuộc quyền sở hữu đầu tiên của những người tự do; ruộng đất thuộc quyền sở hữu công xã và được chia cho các thành viên: nhà ở và vật phụ thuộc của nó thuộc quyền sở hữu người lao động. Đây là tiền đề kinh tế - xã hội quy định đặc điểm của quá trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử. Việt Nam luôn trong hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt, do đó các thành viên trong cộng đồng tất yếu phải liên kết với nhau. Từ đó công xã nông thôn dần dần phát triển các đơn vị làng xã, lúc đầu các quy định xử sự chung cho cộng đồng chỉ là những phong tục, tập quán, thói quen, sau nâng lên thành "lệ làng".
Thời kỳ Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc, kinh tế còn giản đơn thô sơ làm cho quan hệ xã hội thuần hậu, chất phác. Nên tư tưởng pháp luật thời kỳ này rất sơ khai, nhìn chung, người dân chỉ có thói quen thực hiện theo phong tục, tập quán, họ chưa có ý thức hay nhận thức về pháp luật.
2.1.1.2. ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến Trung Quốc
Sau khi Nhà nước Âu Lạc bị phong kiến phương Bắc tiêu diệt (năm 179 trước công nguyên) thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc đã bắt đầu và kéo dài mười thế kỷ. Giai đoạn này song song tồn tại hai loại pháp luật đó là pháp luật của dân cư bản địa (luật Việt) và pháp luật của chính quyền đô hộ phong kiến phương Bắc (pháp luật phong kiến Trung Quốc). Hơn một nghìn năm Bắc thuộc, dưới ách đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Quốc với âm mưu đồng hóa dân tộc Việt Nam, chúng đã chủ trương xây dựng cơ sở kinh tế - xã hội và bộ máy chính quyền nhà nước theo mô hình phong kiến Trung Hoa. Nền văn hóa Trung Hoa là nền văn hóa lớn trên thế giới lúc bấy giờ, nó ảnh hưởng tới nhiều nước đặc biệt những nước khu vực châu á. Song mức độ ảnh hưởng đó còn tùy thuộc vào bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc Việt Nam nhờ có bản sắc và sức sống mạnh mẽ của văn hóa dân tộc, đã tạo thành "hàng rào" ngăn cản sự xâm nhập, đồng hóa của tư tưởng pháp luật ngoại bang, cho nên tuy có bị ảnh hưởng nhưng không bị đồng hóa. Tư tưởng pháp luật Trung Quốc ít nhiều cũng chi phối ảnh hưởng đến dân bản xứ, nhưng chủ yếu là tầng lớp bên trên, còn tầng lớp bên dưới vẫn độc lập luôn có xu hướng chống lại pháp luật của ngoại bang, sống theo phong tục tập quán làng xã. Chính vì thế, người Việt Nam khi bắt đầu tiếp xúc với pháp luật, hiểu biết sơ khai về pháp luật thì cũng xuất hiện tư tưởng, tâm lý chống lại pháp luật của Nhà nước đô hộ. Như vậy tư tưởng pháp luật của người Việt Nam đã có từ thời kỳ Nhà nước sơ khai và nhận thức hiểu biết về pháp luật chính thức ra đời vào thời kỳ đất nước bị giai cấp phong kiến Trung Quốc xâm lược đô hộ. Do lòng yêu nước, tính tự cường của dân tộc mà người Việt Nam đã tìm mọi cách chống lại pháp luật của phong kiến phương Bắc, cũng chính vì thế ngay khi ra đời ý thức pháp luật Việt Nam có sự phân hóa giữa một bên là ý thức pháp luật của giai cấp thống trị và một bên là ý thức pháp luật của giai cấp bị trị, nên việc tự giác chấp hành một cách tích cực luật pháp Nhà nước, đồng thời chống đối quyết liệt pháp luật ngoại bang là con đường phát triển ý thức pháp luật trong xã hội đương thời. Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng khi xem xét đặc điểm của sự hình thành ý thức pháp luật.
Chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938 đã đưa Việt Nam trở thành một quốc gia phong kiến độc lập. Giai đoạn đầu của chế độ phong kiến độc lập này Phật giáo là quốc giáo, đến khoảng thế kỷ XV, hệ tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị là Nho giáo.
Tư tưởng pháp luật phong kiến Trung Quốc ảnh hưởng đậm nét đến sự hình thành ý thức pháp luật trong lịch sử Việt Nam, chủ yếu là hai hệ tư tưởng "đức trị" và "pháp trị".
Đức trị là tư tưởng của phái Nho gia là tư tưởng triết học Trung Hoa (cổ đại) với nội dung là lấy đức để cai trị đất nước, người trị nước phải học đạo đức và phải có đạo đức. Đại biểu của phái Nho gia là Khổng Tử, Ông là người đã hệ thống hóa phạm trù "đạo đức" trong "học thuyết nhân ái" và mở rộng sang lĩnh vực chính trị gọi là "nhân chính" hay "đức trị" Ông chủ trương dùng đạo đức làm công cụ trị nước, xây dựng xã hội. Tư tưởng đạo đức đó đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự hình thành ý thức pháp luật trong xã hội phong kiến Việt Nam.
ở Việt Nam giai đoạn đầu xây dựng nền độc lập quốc gia tư tưởng "đức trị" thời nhà Lý mang màu sắc Phật giáo, thể hiện: Trọng tu thân, giúp dân, thương yêu và chăm lo cho dân, ý dân là chỗ dựa của vương triều. Sang đến đời Trần, tư tưởng "đức trị" mang màu sắc Nho giáo, tư tưởng "khoan thư sức dân" của Trần Hưng Đạo là phương châm trị nước. Chính tư tưởng nho giáo đã ảnh hưởng rất lớn đến thời kỳ này. Nội dung cơ bản của Nho giáo là lấy đức để cai trị đất nước, do vậy tư tưởng đức trị được thể hiện qua ý thức pháp luật đương thời.
Sang đời nhà Lê, xuất hiện tư tưởng của Nguyễn Trãi là dùng "nhân nghĩa" để trị nước với nội dung là trọng dụng nhân tài, khoan dung sức dân, sự gương mẫu của người cầm quyền… Bên cạnh đó, tư tưởng coi trọng tập quán, luật tục địa phương vẫn tồn tại và ngày càng được sử dụng rộng rãi. Đây là những nét rất đặc thù so với các dân tộc khác, là ý thức luôn coi lệ làng hơn phép nước.
Pháp trị là một hệ tư tưởng lớn của triết học Trung Hoa cổ đại và Hàn Phi là đại diện của phái Pháp gia (pháp trị). Nội dung của tư tưởng pháp trị là dùng hình phạt nặng nề để trị nước và chủ trương dùng pháp luật nghiêm. Trên cơ sở đó lấy pháp luật làm tiêu chí để phân biệt đúng sai, phải coi trọng pháp luật,pháp luật là công cụ quan trọng nhất để trị nước.
Tư tưởng pháp trị đã ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình thành ý thức pháp luật ở các vương triều phong kiến Việt Nam. Trần Thủ Độ thời nhà Trần đã có tư tưởng dùng pháp luật để cai trị đất nước, ông chủ trương bảo đảm tính nghiêm minh, công bằng, bình đẳng trong pháp luật. Hồ Quý Ly thời nhà Hồ coi pháp luật là công cụ hàng đầu để trị nước, pháp luật triều đại này mang tính nghiêm khắc, nặng nề hơn so với các triều đại khác trong xã hội phong kiến Việt Nam. Đến thời kỳ Minh Mạng rất coi trọng tính nghiêm minh của pháp luật, kiên quyết và công bằng trong việc xử phạt. Ông đề cao vai trò của pháp luật trong việc trị nước, song ông cũng có quan tâm đến việc khoan dung, độ lượng trong xử phạt, tư tưởng của ông là "quân pháp bất vị thân".
Đến Lê Thánh Tông thời nhà Lê phương châm cai trị đất nước là kết hợp cả hai tư tưởng "đức trị" và "pháp trị". Bộ Luật Hồng Đức ra đời là bộ luật đầu tiên có các quy phạm pháp luật, đặc biệt là quy phạm pháp luật về hình sự. Các quy định của bộ luật này tương đối chặt chẽ, rõ ràng, cơ cấu điều luật hầu như có đủ cả ba yếu tố cấu thành đó là giả định, quy định và chế tài. Bộ luật này các hình phạt rất nghiêm khắc nhưng toát lên một số quy định mang tính chất nhân đạo như việc xác định quyền và địa vị pháp lý của trẻ em gái, người già bệnh tật, góa phụ. Đây là bộ luật phù hợp và tiến bộ nhất thời bấy giờ.
Cùng với sự biến đổi của xã hội từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến, tư tưởng pháp luật phong kiến một mặt kế thừa quan điểm thời cổ đại, mặt khác hình thành dưới ảnh hưởng sâu sắc của giáo lý và thần quyền. Tư tưởng phong kiến bảo vệ một cách triệt để chế độ đẳng cấp đặc quyền phong kiến với những hình phạt tàn bạo đối với hành vi xâm phạm trật tự xã hội. Dưới thời kỳ các chúa Nguyễn thế kỷ XVI đến XVIII có Nhà nước, có pháp luật, nhưng lối sống theo pháp luật còn manh nha, nhận thức pháp luật và tình cảm đối với pháp luật còn nhiều hạn chế. Các thành viên trong cộng đồng hầu như không quan tâm tới pháp luật, phần lớn là tự quản theo phong tục, tập quán, lệ làng và cũng ít được học hành nên người nông dân am hiểu pháp luật không nhiều. Pháp luật chỉ đến với các quan viên làng xã, giai cấp địa chủ phong kiến và tất nhiên pháp luật ấy ủng hộ, bảo vệ lợi ích các tầng lớp quan chức phong kiến, giai cấp địa chủ.
Sang thế kỷ XIX thời kỳ nhà Nguyễn, mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với chính quyền phong kiến và giai cấp địa chủ ngày càng trở nên quyết liệt. Đó là nguyên nhân dẫn đến phản kháng của người nông dân chống lại chế độ phong kiến cùng với pháp luật của nó. Dưới thời kỳ nhà Nguyễn, Nhà nước và pháp luật ngày càng chặt chẽ hơn, do bản chất pháp luật mang tính phản động, chống lại đa số lợi ích người nông dân, nên sự phản ứng, chống đối của nông dân ngày một dâng cao, đặc biệt có hàng loạt các cuộc nổi dậy. Vì vậy, ý thức pháp luật thời kỳ này là ý thức phản kháng, chống đối pháp luật, chống đối chế độ phong kiến suy đồi, pháp luật chủ yếu tác động vào ý thức của tầng lớp bên trên, tầng lớp có lợi ích gắn bó với chế độ phong kiến, còn tầng lớp bên dưới, đa số người lao động là nông dân, họ vừa chấp nhận, vừa chống đối quyết liệt ý thức hệ phong kiến, pháp luật phong kiến. Tình cảm của người dân đối với pháp luật phong kiến nhà Nguyễn là sợ hãi, thiếu niềm tin. Càng về sau pháp luật nhà Nguyễn càng mang tính phản động, hà khắc, dã man, mở rộng hình sự và hình phạt, thi hành pháp luật một cách tùy tiện.
Như vậy, dưới thời các chúa Nguyễn và nhà Nguyễn người dân chưa có thói quen sống theo pháp luật. Chính sự tàn khốc về hình phạt đã làm xuất hiện trong người dân tâm lý, ý thức sợ hãi pháp luật, né tránh pháp luật. Người dân không vi phạm pháp luật là vì họ sợ hãi pháp luật chứ không phải vì họ ý thức được quyền và nghĩa vụ trong việc tuân thủ pháp luật. Do đó, ý thức tuân thủ pháp luật xuất hiện trong giai đoạn này một phần cũng do người dân quá sợ hãi những hình phạt của pháp luật.
Tóm lại, tư tưởng pháp luật Trung Quốc nói chung, tư tưởng "đức trị" và "pháp trị" nói riêng đã ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành ý thức pháp luật trong xã hội phong kiến Việt Nam. Tư tưởng "đức trị" và "pháp trị" đều có những ưu điểm và những hạn chế lịch sử, phương châm trị nước chung của các triều đại phong kiến Việt Nam là kết hợp cả hai tư tưởng "đức trị" và "pháp trị". Song, xét trên tổng thể thì tư tưởng "đức trị" thường được đón nhận nhiều hơn và áp dụng nó vào công việc trị nước thành công hơn "pháp trị". Cũng có lẽ tư tưởng "đức trị" phù hợp với truyền thống, tập quán phong tục, lệ làng… và tâm lý người Việt Nam hơn là tư tưởng "pháp trị".
Sự phân tích trên cho thấy, tư tưởng pháp luật phong kiến Trung Quốc ảnh hưởng đến sự hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam, tiêu biểu là tư tưởng coi trọng "hình" mà coi nhẹ "luật", dùng hình phạt hà khắc, tàn bạo để răn đe, chứ không quan tâm tới việc giáo dục qua hình phạt đối với nhân dân, việc xử án cũng không theo luật mà theo thị hiếu và theo mức độ lễ lạt rất tùy tiện, không nghiêm minh. Những việc làm ấy ảnh hưởng tiêu cực đối với sự hình thành ý thức tuân thủ pháp luật, tình cảm đối với pháp luật của nhân dân ta. Đồng thời nó còn ảnh hưởng khá nặng nề đến sự hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay. Nếu gạt bỏ được những hạn chế trong tư tưởng "đức trị" và "pháp trị", đồng thời kế thừa những tiến bộ của nó thì tư tưởng đó lại có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong quá trình hình thành ý thức pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương tiêu biểu cho việc làm này, trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận mác-xít, Người đã tiếp thu có chọn lọc những nội dung tiến bộ trong tư tưởng "đức trị" và "pháp trị" và vận dụng một cách tài tình vào công cuộc lãnh đạo cách mạng Việt Nam nói chung, xây dựng, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật và đạo đức cho cán bộ, nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và quản lý đất nước nói riêng.
2.1.1.3. ảnh hưởng của tư tưởng thực dân
Ngày 1-9-1858 thực dân Pháp nổ súng tấn công vào bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), nước ta bắt đầu bị thực dân Pháp xâm lược. Vua quan nhà Nguyễn nhu nhược và mù quáng đã để cho thực dân Pháp thống trị nước ta ở Đông Nam Kỳ, Tây Nam Kỳ, đến 25-8-1883 nhà Nguyễn ký hiệp ước thừa nhận sự thống trị của Pháp trên toàn đất nước Việt Nam. Với chính sách cai trị bằng thủ đoạn "chia để trị" thực dân Pháp đã chia nước ta ra làm ba kỳ: Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Thời kỳ đầu chúng áp dụng cả hai hệ thống pháp luật: Pháp luật Nhà nước phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ (nhà Nguyễn) và pháp luật của thực dân Pháp áp đặt, cả hai đều giống nhau về bản chất, đều là công cụ nô dịch và bóc lột người lao động Việt Nam. Nhưng trên thực tế, chỉ sau một thời gian (đến khoảng 1887) thì pháp luật nhà Nguyễn không còn hiệu lực trên đất nước Việt Nam mà chỉ còn pháp luật của thực dân Pháp. Lúc này "lệ làng" vẫn tồn tại trong cộng đồng dân cư nhưng đã bị thực dân Pháp bắt sửa đổi cho phù hợp với ý chí của chúng.
Pháp luật của thực dân Pháp áp đặt ở Việt Nam là ý chí của bọn thống trị - xâm lược, là công cụ củng cố nền thống trị của thực dân Pháp và là công cụ đàn áp nhân dân Việt Nam, nhằm bảo vệ quyền lợi cho các tập đoàn tư bản thực dân và bọn phong kiến, tay sai của chúng ở Việt Nam trong suốt thời gian gần một thế kỷ. Thứ pháp luật đó không phải là ý chí của nhân dân, không phải là công cụ bảo vệ và thực hiện quyền dân chủ của nhân dân Việt Nam.
Thực dân Pháp áp dụng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vào Việt Nam, làm cho kinh tế - xã hội nước ta có nhiều thay đổi và chuyển biến lớn. Muốn duy trì được một nền kinh tế mà mục tiêu của Pháp là biến gấp Việt Nam thành một thuộc địa bậc nhất, đảm bảo siêu lợi nhuận tối đa cho chúng, thì hệ thống pháp luật đòi hỏi ngày càng hoàn thiện. Chính vì vậy người dân phải tiếp xúc với pháp luật nhiều hơn và ý thức pháp luật của họ cũng được nâng lên rõ rệt. Về mặt lý thuyết thì pháp luật của thực dân Pháp là thể hiện tư duy tôn trọng tính tối cao của pháp luật, bảo vệ tự do bình đẳng cho con người, công dân, bảo vệ nền dân chủ tư sản. Nhưng trên thực tế khi áp dụng vào Việt Nam, pháp luật đó đã đi ngược lại các giá trị dân chủ. Thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, hệ tư tưởng pháp luật cũng có nhiều thay đổi: cùng với tư tưởng mới về Nhà nước và pháp luật theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin xuất hiện vào đầu thế kỷ XX được lãnh tụ Nguyễn ái Quốc tiếp thu và truyền bá cho công nhân và nhân dân lao động, còn có các tư tưởng dân chủ tư sản tiến bộ du nhập vào Việt Nam. Trên cơ sở đó và hòa đồng với truyền thống yêu nước của dân tộc làm cho tâm lý pháp luật thời kỳ này cũng biến chuyển quan trọng, người dân có ý thức chống lại pháp luật, không tuân thủ pháp luật của thực dân Pháp trong những điều kiện nhất định, do tiếp xúc nhiều với pháp luật tư sản, (có tiến bộ ở nội dung pháp luật và thực thi pháp luật mặc dù bản chất có phản động), nên nhận thức về pháp luật được nâng lên, ý thức tuân thủ pháp luật được nâng lên rõ rệt.
ảnh hưởng của tư tưởng pháp luật của thực dân đối với sự hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam, tuy có những mặt tích cực và tiêu cực nhưng mặt tiêu cực là nặng nề hơn. Mặt tiêu cực là góp phần hình thành thói quen, lối sống và làm việc không theo pháp luật mà thường có thái độ thờ ơ, căm ghét pháp luật, xem thường pháp luật ngoại bang và chính quyền tay sai chúng. Còn mặt tích cực là nó phát huy tinh thần dân tộc, yêu nước chống ngoại xâm.
Trong xã hội đương thời, tư tưởng chống đối tư tưởng pháp luật của thực dân Pháp có tính chọn lọc, không như thời Bắc thuộc đem đối lập hoàn toàn pháp luật của người Việt với pháp luật của giai cấp phong kiến Trung Quốc và sự đối lập này diễn ra quyết liệt. Còn đối với pháp luật của thực dân Pháp áp đặt vào Việt Nam thì người dân chỉ chống lại những quy định pháp luật trái với lợi ích hợp pháp của nhân dân, của cả đất nước, họ tiếp thu và tán thành những tư tưởng pháp lý tiến bộ phù hợp với lợi ích của đất nước mình. Như vậy những tư tưởng pháp luật thời k