Luận văn Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Gabriel Garcia Marquez

Không- thời gian là dạng thức hỗn hợp hình thành trên sựkết hợp của không gian và thời gian tạo

thành một thể đặc biệt thường được nhận ra trong các tác phẩm văn chương bởi tính xuyên thấm và bất định của nó.

Trước hết, không- thời gian trong truyện ngắn Marquez gắn bó mật thiết với yếu tốkỳ ảo và chia

sẻnhững đặc điểm của nó. Theo đó, không- thời gian không phải là kết quảcủa thứtưởng tượng phi

hiện thực, là cơn bốc đồng trong sáng tạo văn chương mà ngược lại, bắt nguồn từhoàn cảnh lịch sử, xã hội, tưtưởng nhất định của thời đại. Tuy văn học phản ánh thếgiới theo cách riêng mình nhưng từthếkỷXX ngày càng nhiều nhà văn đã sáng tạo những thếgiới nghệthuật vượt ngoài tất cảcác phạm vi không gian và thời gian. Đó là gợi ý hướng chúng tôi quan tâm đến hoàn cảnh hiện đại và khá ký thú khi nhận thấy kết hợp không- thời gian và khảnăng đảo chiều thời gian trong văn học có một sựtương hợp kỳlạvới thuyết Tương đối của Einstein khi ông đềcập đến võng không- thời gian cũng nhưtương quan của không gian và thời gian với vận tốc chuyển động của vật chất. Thực tếlà những luận điểm của Einstein đã dần được chứng minh tính khảthủcủa nó, ngược lại càng củng cốvà làm sáng tỏnhững quan điểm của chủnghĩa hiện thực huyền ảo, quan niệm vềmô hình thếgiới và con người của Marquez nhưchúng tôi đã trình bày. Rõ ràng những cuộc sống bao gồm tất cảnhững mặt khác nhau mà vẫn thường được phân biệt bằng thực và ảo.

pdf170 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5348 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Gabriel Garcia Marquez, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hải đóng kín các cửa nhà, gia cố vật liệu và tránh trận gió này phó mặc ngoài trời tiếng rít dữ dội. Tramontana với tư cách là thứ gió cổ xưa nhất đã mang bốn đặc điểm như sau khi nó đóng vai trò biểu tượng: Là một sự mặc khải, là sự giận dữ như một thông điệp, là sự nổi dậy chống trật tự và là quy trình của hủy diệt và tái sinh. Nhờ đó có thể lý giải về những cái chết trong Tramontana. Gió bắc thực chất là một thông điệp về sự cô đơn của con người trước cái đẹp của cái chết. Cái chết như một giới hạn mà không ai có thể vượt qua, không hề có tiền giả định kinh nghiệm cho cái chết nên tự nhiên nó mang sức hấp dẫn lớn. Vẻ đẹp gắn với cái chết tự nhiên đã trở thành một dạng tồn tại thiêng liêng của khái niệm trừu tượng trong nhận thức. Hai vấn đề quan trọng trong Tramontana của Marquez là mối quan hệ giữa vẻ đẹp và cái chết. Người ta ngắm nhìn thưởng thức vẻ đẹp của nó trong sự bạo cuồng của tự nhiên, cảm giác được chinh phục của con người khi tự nhiên hé lộ cái kỳ vĩ của nó. Quan niệm về bản thân gió bắc khác nhau dẫn đến những thái độ khác nhau. Ban đầu là sự tò mò thu hút của cái đẹp nhưng về sau các nhân vật đều trốn tránh nó; đặc biệt là bằng cả cái chết. Có khả năng đây là việc thể nhập với cái kỳ ảo của thiên nhiên, hứa hẹn cái chết sự sợ hãi trở về với bản chất cố hữu của con người từ ngàn xưa khi mang một thân phận mỏng manh giữa thế giới bao la. Vì thế, con đường chết nếu bản thân nó là khả năng gió bắc hứa hẹn thì cái chết cũng không loại trừ khả năng là cách thể nhập với gió bắc một cách rõ ràng nhất. Cái chết trong tác phẩm mang hai ý nghĩa do khác biệt nhận thức. Cái chết của chàng thanh niên và ông lão đều bị ảnh hưởng bởi tính tâm linh của gió bắc nhưng chàng trai là sự hoảng loạn và tiếp nhận hệ thống phức tạp, ngồn ngộn ban đầu như một “đám tinh vân” hiện tượng được khái quát thành tín ngưỡng dân gian, đây là bước đầu con người đến với cái kỳ ảo. Nhưng cái chết của ông cụ lại là sự thể nhập và giải mã cái kỳ ảo- đó chính là tín hiệu, là dấu hiệu cho cái chết của ông. Vì thế, mà dạng điềm triệu, dấu hiệu được sử dụng khá nhiều trong tác phẩm của Marquez, cả truyện ngắn hiện thực nghiêm ngặt lẫn hiện thực kỳ ảo. Tuy bản thân không là một biểu tượng nhưng cua lại đóng góp vào hệ biểu tượng biển những đối chiếu lý thú với yếu tố kỳ ảo. Cua trong truyện ngắn Marquez không phải là là hóa thân của những sinh lực siêu tại, thường có nguồn gốc âm ty, nhưng đôi khi cũng từ thiên giới [14,221]. Không còn là một con vật huyền thoại khi di chuyển gây nên những bão táp trên mặt biển nhưng cua đóng vai trò là sứ giả của yếu tố kỳ ảo. Cua cứ bò vào nhà và chết trong đó, những nhân vật trong Biển của thời đã mất và Cụ già có đôi cánh khổng lồ đều phải chịu đựng điều này. Cua là biến thái đầu tiên cho sự bước qua các ranh giới huyền thoại của không gian dẫn đến thời gian; sự bất tri nhận nó của con người thể hiện một độ lệch bản chất giữa các thế giới được giới hạn bởi những mô hình cảm thức nhất định. Người ta đánh giá cua cũng như ông lão có đôi cánh tương đồng với mùi hương hoa hồng,… tất cả đều là sự rắt rối và phiền nhiễu của cuộc sống. Khi bị xếp loại như nhau thì những sự việc kỳ lạ thường ngày như cua bò vào nhà, bò lên người Tobias sẽ giúp soi chiếu và nhận ra một sự lệch lạc trong nhận thức của con người sống trong thế giới hiện thực bị thổi phồng khiến những mặt khác của cuộc sống không thể bày tỏ. Truyện ngắn của Marquuez nhắc nhở tình trạng này nhằm tháo gỡ thế cô đơn khách quan lẫn chủ quan. Có thể nhận thấy biểu tượng biển mang chức năng quan trọng trong việc liên kết các nhân vật cũng như tạo bước chuyển trong cốt truyện, điển hình nhất là trong Biển của thời đã mất. Thứ nhất, biểu tượng biển liên kết nhân vật của hai tuyến thế giới khác nhau. Trong khi những người khác trong làng và ngay cả ông lão Jacob đều được liên kết với nhân vật Herbert bởi túi vàng thì Tobias lại liên kết với nhân vật này bằng hành trình đi xuống biển. Đại dương mở ra một sự kết hợp của hai nhân vật chưa có được giao điểm ở làng, ở bàn phát tiền. Một nhân vật khác có thể xem như sự soi chiếu với Tobias là ông già Jacob đã thất bại và trở thành con nợ của Tobias. Ông lão Jacob không thể thực hiện một hành trình dài xuống biển để gặp lại bà Petra đang tươi trẻ trong dòng nước hoa bất tử. Jacob là quá khứ trong khi Tobias là hiện tại của châu lục; nhưng hướng phát triển trong quan hệ với nhân vật người Mỹ đã chỉ ra một hiện trạng là Tobias phải dưới sự dẫn đường của Herbert và khả năng để Herbert biến Tobias thành Jacob là hoàn toàn có thể, tính hiện thực trong cái kỳ ảo là ở đấy. Thứ hai, biển còn có chức năng phá vỡ phạm vi đời sống hạn hẹp thường ngày và cho phép yếu tố kỳ ảo xâm thực vào mình để mở ra một thế giới mà ở đấy sự liên kết các nhân vật diễn ra vĩnh cữu, chống lại mọi giới hạn không gian và thời gian. Bà Petra là một trường hợp như vậy. Khi sống bà luôn băn khoăn và xem mùi hoa hồng từ biển là điềm báo cái chết, sau khi chết bà lại được hồi sinh trong lòng biển cả thành: “một người đàn bà rất trẻ bơi qua trước mặt họ. Bà ấy bơi nghiêng, hai mắt mở to, có một dòng hoa chảy theo… Đó là một người đàn bà đẹp nhất… Bà ta trẻ lại đến năm mươi tuổi nhưng là bà ta… Bà ta đã bơi đi du lịch rất nhiều nơi- bà ta mang theo mình hoa của tất cả các biển trên thế giới.” Thứ ba, biển với tính chất của biểu tượng đã tạo bước chuyển trong cốt truyện. Chính xác hơn là với sự kết hợp của yếu tố kỳ ảo, biển đã trở thành khâu trọng tâm trong cốt truyện kỳ ảo. Ở trường hợp này, biển hóa thân vào ánh sáng và tiếp tục diễn hành trên một ngôi nhà cao tầng ở đại lộ Tây Ban Nha. Chính sự xuất hiện của kiểu biển ánh sáng này dẫn đến yêu cầu của Toto và Hoen những thứ quà thưởng khác nhau và đỉnh điểm kỳ ảo là cái chết của bọn trẻ. Biển cũng đóng vai trò dẫn dắt tiến trình câu chuyện trong Gió bắc, Người chết trôi đẹp nhất trần gian. Đó là sự tác động và giải pháp cho truyện ngắn kỳ ảo của Marquez- một sự lý giải hợp lý khi dung nạp biểu tượng biển vào trong cấu trúc truyện ngắn. 3.2.2. Nhóm biểu tượng hoa hồng Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới từ trang 429 đến 530 thì hoa hồng mang rất nhiều ý nghĩa tượng trưng tâm linh và trong từng cấp độ có thể nhận thấy sự tương đồng bộ phận hoặc toàn thể đối với truyện ngắn của Marquez. Biểu tượng hoa hồng trước hết mang những lớp ý nghĩa biểu trưng như sau: Thứ nhất, hoa hồng mang ý nghĩa hiển lộ, có vai trò như một Mandala tâm linh. Các nhân vật đều khao khát có một hoa hồng (Thần chết thường ẩn sau ái tình, Clotilde trong Biển của thời đã mất)… Hoa hồng như một biểu tượng của điều tốt đẹp, có là cứu cánh cuộc sống. Trong Thần chết thường ẩn sau ái tình, hoa hồng được nghị viên Oneximo Sanchez mang theo là hoa hồng duy nhất xuất hiện ở cái làng mang tên Vườn hồng phó vương có một ý nghĩa đặc biệt. Đó là hoa hồng che bóng cho giấc ngủ, một chốn yên bình tâm hồn trong cuộc trốn chạy nỗi sợ hãi cái chết và đặc biệt là cô đơn. Hoa hồng là chỗ dựa cho ông nghị trước khi gặp người phụ nữ của mình Laura Pharina. Giữa không khí nóng bức và khô cằn, hoa hồng cắm trong ly nước là điểm thu hút sức tập trung và là đề tài mà họ nói với nhau. Thứ hai, hoa hồng là chén thánh, là máu Jesus. Biểu tượng này gắn với máu của Đấng linh thánh nên mang nghĩa phục sinh thần bí, hay tái sinh. Theo tiếng Latin thì hoa hồng có liên quan đến sương- rosa, với mưa ros- là các tạo vật mang ý nghĩa tốt lành trong khả năng tái sinh và tạo điều kiện cho một sự sống mới. Hoa hồng, vì thế, mang một sinh lực thần bí thúc đẩy thành hình mầm sống trong những hoàn cảnh đặc biệt nhất. Marquez xây hình hình ảnh thi hài em bé đã chết 11 năm nhưng vẫn tươi nguyên và mất trọng lượng, gắn vào đó mùi hương và những hoa hồng còn tươi trải qua thời gian như là minh chứng cho yếu tố kỳ ảo. Hơn nữa, khi người ta bật nắp áo quan, thơm lựng cái mùi hương những bông hồng tươi mà người ta đã bỏ vào áo quan khi an táng cô bé… Hơn thế nữa, những bông hồng người ta đặt vào tay em vẫn tươi rói, y nguyên (sau 11 năm) [52, 48-49] Những bông hồng và bé gái đã tác động lẫn nhau kiến cả hai chia sẻ tính chất thần bí, vì thế nếu như người cha cho rằng đây là minh chứng con mình xứng đáng được phong thánh thì hoa hồng chứng minh tính hiển thánh hay kéo dài một linh hiển theo đúng nghĩa biểu tượng. Hoa hồng đã đóng vai trò là vật kết nối giữa cõi sống và cõi chết. Một lần nữa trong Ai đó đã làm rối những bông hồng, vai trò này càng được nhấn mạnh. Nguyện vọng của người chết là lấy những hoa hồng để kết thành vòng hoa không chỉ đơn thuần là một trò chơi nhưng chính là khát vọng được tiếp nối sự sống một cách nào đó. Tất cả thể hiện nỗi mong ước được giao cảm với đời sống, với con người trong khi cái chết đã phong tỏa tất cả. Bởi thế bằng những hoa hồng, người chết đã chờ đến khi nàng biết rõ ai đã làm rối những bông hồng. Thứ ba, hoa hồng là biểu tượng tình yêu. Ý nghĩa này khá phổ biến trong tất cả các nền văn hóa và văn chương. Tuy nhiên, tình yêu cũng như Tramontana là thứ tình cảm cổ xưa nhất trên đời, cũng như những điều kỳ ảo khác tình yêu là thứ tuyệt vời nhất. Thế nên tình yêu trong tác phẩm Marquez cũng chịu chung số phận với cái kỳ ảo- bị hiện thực tra tấn. Hiếm khi thấy được một tình yêu nào trọn vẹn hoàn kết trong truyện ngắn Marquez mà thường là băn khoăn về một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Đó là vấn đề mà Dấu máu em trên tuyết muốn chuyển tải đến người đọc. Máu đó là sự sống, là vật dẫn linh hồn, mất máu tức là chết, nhưng mất máu lại gây ra từ gai hoa hồng- từ biểu tượng tình yêu của cuộc hôn nhân. Đó là băn khoăn muôn đời của những tình yêu- liệu cuộc hôn nhân sẽ viên thành tình yêu hay hủy diệt nó. Nỗi băn khoăn ấy đeo bám Nena Daconte dẫn đến viễn tượng về một hạnh phúc mong manh dễ vỡ trong hôn nhân. Nhưng rõ ràng là hạnh phúc nào của con người cũng mong manh, quan trọng là truyện ngắn đề cập đến những trở lực phi lý của đời sống đang ngăn cản con người từng ngày. Người ta bị hút vào những lực khác và đánh mất đi hạnh phúc lúc nào không hay, khi đó rơi vào bi kịch của sự bất lực trước hạnh phúc. Vết máu đỏ như hoa hồng, đó là ẩn dụ những băn khoăn nhỏ gây nên hậu quả lớn, đánh cắp mất hạnh phúc và ước mơ của con người. Gắn liền với biểu tượng hoa hồng còn có mùi hương. Mùi hương hoa hồng trong truyện ngắn Marquez cũng tham gia vào hệ biểu tượng để triển khai thế giới nghệ thuật của nhà văn. Mùi hương hoa hồng đến từ biển không phải ngẫu nhiên mà lại dẫn đến đám đông du khách và đặc biệt nhất là ngài Herbert. Mùi hương hoa hồng tượng trưng cho công cuộc thuộc địa hóa của Herbert đối với những người dân bản địa bằng túi tiền thông qua những đề nghị hấp dẫn cho Tobias, Clotilde, Jacob,… Mùi hương hoa hồng được cha xứ khẳng định là đã được nhắc đến trong Kinh Thánh, được Don Maxcimo Gomet giải thích như một ảo ảnh thoát thai từ ước muốn trỗi dậy. Mùi hương hoa hồng như một yếu tố kỳ ảo đã sống giữa cuộc đời thật hơn cả hiện thực: Kể từ cái đêm ấy, và suốt mấy tuần sau nữa, mùi hoa hồng vẫn hiện diện ngoài biển. Nó thấm vào gỗ các ngôi nhà, đượm mùi trong các món ăn, lẫn vào cả trong nước uống. Không có chỗ nào không ngửi thấy mùi hoa hồng. Nhiều người còn kinh ngạc khi nhận thấy trong hơi phân của chính mình cũng có mùi hương ấy. [53,63] Đó là sự kết hợp hoặc liên tưởng những ý nghĩa có liên quan hoặc đối lập nhằm soi chiếu các khía cạnh của hệ biểu tượng. Mùi hương hoa hồng là biểu tượng hai mặt phân ly- sự sống và cái chết. Mùi hương hoa hồng đã dẫn đến sự hồi sinh và tuyệt diệt cho ngôi làng này- vòng tuần hoàn như Trăm năm cô đơn. Bên cạnh đó, những điều kỳ ảo trong truyện ngắn Marquez thường được dẫn xuất bằng các mùi hương lạ. Mùi hương lạ là sự phát triển và mở rộng mùi hương trong biểu tượng hoa hồng. Đó là mùi phormal ngâm xác trộn lẫn với hương hoa làm cho nhân vật bị dẫn vào thế giới bất phân giữa bản thân và người anh em sinh đôi vừa chết: Một thứ mùi nồng của hoa violet và phormal ướp xác từ phòng khác xộc đến lan rộng khắp nơi, thứ mùi này hòa vào trong hương hoa mới nở lúc bình minh đưa tới từ khu vườn bên ngoài... Cái mùi xông từ ngoài vườn vào giờ càng hăng hơn, tởm lợm, mùi kinh tởm gây buồn nôn... Chính xác đó là mùi đặc trưng của khu vườn. Đó là một mùi kinh khủng và đặc biệt hơn mùi trộn lẫn các loại hoa khác nhau. Một mùi hương được biết rằng nó luôn liên quan đến các tử thi. (Bên kia cái chết) Khi vừa tỉnh lại thì thứ mùi hương đó đã gợi nhân vật đến giấc mơ nhưng khi chìm trong mơ thì mùi hương nồng đến mức đẩy nhân vật ra cuộc đời thực. Rõ ràng đây là sự mở rộng vai trò kết nối giữa cõi thực và ảo của yếu tố kỳ ảo. Cùng một thể thức này còn có thể nhắc đến thứ mùi của xác chết trong Lần thứ ba yên phận, mùi dâu tây tươi vừa mới hái trong Những bóng ma tháng Tám, mùi gỗ mới trong Nỗi cay đắng của ba người mộng du, mùi mà nàng ngửi thấy trong tiệm thuốc phiện được ghi lại trong Đôi mắt chó xanh,… Thế giới nghệ thuật của Marquez dù là kỳ ảo hay hiện thực đều mang đầy mùi vị; chính những mùi hương này đã nối liền hai bờ thực ảo. Thông qua khảo sát có thể nhận thấy hệ biểu tượng này mang tác dụng liên kết nhân vật. Trong Biển của thờ đã mất, mùi hương lôi kéo con người chú ý, dẫn đến cái chết của bà Petra, thu hút người ta đổ về làng và trong số đó có ngài Herbert. Sau khi giúp người ta những chuyện bất thường (giả tiếng chim, lên giường với 100 người,…) nhân vật này ngủ cả thế kỷ rồi dẫn Tobías xuống biển, họ thấy bà Petra bơi theo dòng nước có những bông hoa trôi chảy, thấy ngôi làng bị chìm vào lãng quên có những hoa hồng tươi- thứ mà trên mặt đất không có… Như vậy, hoa hồng dưới những dạng thể hiện của nó đã liên kết cốt truyện và nối kết các nhân vật theo một đà vận động được vạch ra một cách ngẫu nhiên và kỳ diệu. Bên cạnh đó, hệ biểu tượng này tạo nên bước chuyển trong cốt truyện. Mùi hương là ranh giới thực và ảo, nó không thể rõ ràng như nắm một làn hương nhưng cũng làm sống lại một hiện thực bằng khứu giác. Sự trải nghiệm này nhân vật xưng nó trong Bên kia cái chết nhận thức rõ ràng nhất. Và chính nhờ mùi hương mà nhân vật đươc đẩy đi đến những viễn cảnh trong khi vẫn chịu chi phối bởi mùi hương hăng nồng ấy. Không có những mùi hương các nhân vật và cốt truyện sẽ thiếu lực đẩy và thiếu một ánh sáng xuyên suốt soi chiếu. 3.2.3. Nhóm biểu tượng du tử Đây là nhóm biểu tượng linh động và khó nắm bắt nhất. Du tử trước hết được hiểu là những người đi lang thang trên các trang truyện ngắn của Marquez. Tất yếu một hình ảnh được nhắc đến ngay là những người digan (gypsy) như Melquiades đã bất tử trong Trăm năm cô đơn. Tuy nhiên, do đặc tính của nhóm người này là chủ nghĩa xê dịch và thực thi các điều kỳ ảo nên với tư cách biểu tượng, hệ thống này dung chứa của những con người ra đi tìm chân lý, những con người hành hương, những người phiêu dạt (như trong Mười hai truyện ngắn phiêu dạt), những đám đông hội hè, người đi qua các ranh giới… Khảo sát nhóm người du tử chúng tôi hướng đến những lớp ý nghĩa khái quát nhất, những nét văn hóa nhằm xác định tính chất truyện ngắn kỳ ảo của Marquez, và trên tiến trình đó, nhóm du tử hiện ra với tư cách là một hệ biểu tượng thể hiện khát khao vượt thoát khỏi những tù đọng của cuộc đời bằng những chuyến ra đi, những phép lạ, hội hè và dấu ấn văn hóa. Thứ nhất, có thể nói trong tác phẩm của Marquez nói chung và truyện ngắn nói riêng thường xuyên có sự xuất hiện của những nhân vật digan và nhân vật này thường để lại những ấn tượng sâu sắc. Về từ nguyên học, người Digan có tên gọi chính thức trong tiếng Anh là Romani people do họ tự gọi mình là rom hoặc rrom với nghĩa “chồng” và romni/rromni vói nghĩa "vợ" nhưng họ hoàn toàn không có mối liên hệ nào với người Romani hay Roma của Ý cả. Nhiều người Di-gan sống ở Pháp có gốc từ Bohemia, nên họ còn được gọi là người Bohémien (Bohémiens). Do niềm tin sai lầm rằng người Di- gan bắt nguồn từ Ai Cập (Egypt), và đã bị đày biệt xứ vì tội đã che dấu Jesus thời bé nên họ bị định danh trong tiếng Anh là Gypsy (hay Gipsy) do bắt nguồn từ chữ Hy Lạp Αιγύπτοι (Aigyptoi). Người ta tin rằng người Di-gan có nguồn gốc từ các vùng Punjab và Rajasthan của bán đảo Ấn Độ. Họ bắt đầu di cư đến Châu Âu và Bắc Phi qua cao nguyên Iran vào khoảng năm 1050… Tuy nhiên, do tính chất phổ biến của họ, tên gọi “digan” trở thành một tính từ và được dùng để chỉ tất cả những người du tử, những người sống tự do, không chấp nhận bất cứ quy định cố kết nào. Đằng sau cuộc sống bề ngoài luôn sôi động, cộng đồng người Digan gắn kết với những tập quán và phong tục huyền bí, không bao giờ định cư một nơi. Người Digan luôn bị coi là người ngoài cuộc, không nhà, không quốc gia và thường bị người châu Âu gán cho những thành kiến như lừa đảo, dính dáng đến những tà thuật đen tối, trộm cắp do lối sống du mục,… Nhân vật điển hình nhất của dạng này trong truyện ngắn Marquez là Blacaman. Blacaman với ngoại hình mang đậm tính sặc sỡ Digan “với những dải áo viền sợi vàng, những chiếc nhẫn mặt đá kim cương đeo khắp các đốt ngón tay như ốc bấu và cái tóc kết đuôi sam có giắt những quả chuông con…” [330] Khả năng của người Digan liên quan đến những kỹ xảo và điều kỳ ảo được Blacaman thể hiện một cách thuần thục khi y bán thuốc trị rắn cắn thần diệu (hắn đã thuê người ta mang đến một con rắn không có nọc độc và tự làm mình trương phù lên rồi tự dùng thuốc của mình mà khỏi), đã tạo cho thây ma các vị phó vương một bộ mặt tươi tỉnh và điều hành đất nước tốt hơn cả khi các vị còn sống,… Tuy đóng vai là một Blacaman kẻ ác nhưng người digan trong truyện ngắn Marquez lại không phải là thứ khuôn mẫu tiêu cực như nhận định của người châu Âu về dân tộc du mục này. Nếu hình ảnh người hiền triết Menquiades đọng lại trong lòng người đọc những cảm xúc tốt đẹp nhất thì Blacaman cũng thốt lên những lời nói tâm huyết nhất của tác giả, của chính Marquez khi nói về chuyện văn chương và cuộc sống: Mặc dù quý vị có đủ thẩm quyền để mà không tin tôi sau bao nhiêu năm đã tin những thủ đoạn bịp bợm và giả dối đầy tội lỗi của tôi, thưa quý ông quý bà tôi xin lấy vong linh của mẹ tôi ra để thề rằng cuộc thí nghiệm hôm nay không minh chứng một điều gì viễn vông thuộc thế giới khác mà minh chứng cho một chân lý giản dị của cuộc đời thực tại này và nếu quý vị không tin thì xin hãy chú ý: hôm nay tôi sẽ không cười như mọi bận mà chỉ cố sức ghìm nước mắt mình lại. [53,342] Đó là tất cả những gì một người nghệ sĩ thực hiện. Anh ta nói điều kỳ lạ như chân lý hiển nhiên và cùng một cách đó nói những thứ gần gũi thành kỳ ảo đầy đam mê. Cách anh ta làm chính là điều quan trọng nhất- chọn khóc hay cười nhằm vào một mục đích- làm cho người ta tin, điều này không khác lối kể chuyện kỳ ảo của Marquez là mấy nếu không nói là tương đồng. Thứ hai, xuất phát từ tính chất du cư, người Digan gắn liền với hình ảnh hững cuộc ra đi, những chuyến hành hương trong truyện ngắn Marquez. Hành hương chính là sự tìm kiếm chân lý, hòa bình, bất tử, là tìm kiếm và phát hiện một trung tâm tinh thần [14,385] trên con đường nhằm hướng đến cái trung tâm không lối vào, bởi thế cuộc hành trình có vai trò như một nghi thức thụ pháp. Người ta nhắc nhiều đến các huyền tích phiêu lưu như Tây Du Ký, hành trình tìm chén thánh (Graal), cuộc tìm kiếm miền đất Hứa, những cuộc du hành sau khi chết của Ai Cập và Tây Tạng. Trong đó những cuộc du hành xuống địa phủ là những nghi thức bí truyền còn lên trời là nghi thức quảng truyền,… Những chuyến ra đi, nhờ vậy gắn kết được với những tầng lớp sâu nhất trong văn hóa và tâm lý loài người, nó là phổ quát. Truyện ngắn của Marquez gắn với hình ảnh những du tử, những người đã đi về không biết bao nhiêu lần trong Biển của thời đã mất, những người đã bỏ làng ra đi lâu năm nay lại về theo mùi hương hoa hồng và rồi sau đó họ lại bỏ ra đi khi làng tàn lụi trong sự mong mỏi mùi hương sẽ trở lại. Trong tập Mười hai truyện ngắn phiêu dạt tất cả những con người ấy đều là du tử nơi miền đất lạ, đều đang trên con đường tìm kiếm trung tâm thần thánh. Margarito Duarte tìm kiếm ý nghĩa thiêng liêng cho đứa con của mình, Phrau Phrida thì luôn phiêu dạt để tìm kiếm giấc mơ cho bản thân, gia đình nhân vật xưng tôi tìm kiếm sự hiện thân của quá khứ, nhân vật tôi trong Gió bắc thì tìm kiếm ý nghĩa và trải nghiệm của Tramontana,… Thứ ba, gắn liền với biểu tượng du tử chính là những phép lạ được họ thực hiện với vẻ bình thản như không. Điểm này tương hợp với quan niệm của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, cách vận dụng yếu tố kỳ ảo và kể chuyện của Marquez. Những người digan đã thực hiện cũng như thúc đẩy các phép lạ xuất hiện với tính chất của yếu tố kỳ ảo hiện đại- phá vỡ tính huyễn hoặc của phép lạ. Tiêu biểu là phép lạ mà gánh xiếc lưu động mang đến- một gã bay vù vù trên đầu khán giả với đôi cánh dơi, tiết mục người con gái biến thành nhện; chính ông lão cũng là một du tử và thực hiện phép lạ theo kiểu giải thiêng: chữa một ông mù thì ông không lành lại còn mọc thêm được ba cái răng, trị bệnh cho kẻ bại liệt thì không khỏi mà hắn suýt trúng số độc đắc, chữa người hủi thì lại thấy cây hướng dương mọc lên quanh những vết lở loét,... Rõ nhất trong việc thực hiện những phép lạ theo kiểu hiện thực huyền ảo- nói với một gương mặt lạnh- là nhân vật xưng tôi- đệ tử của Blacaman [53,339]: Từ đó tôi đi lang thang khắp thế gian để chữa khỏi sốt cho những người mắc chứng sốt rét với giá hai peso; để chữa lành mắt cho những người bị mù lòa với giá bốn peso (nguyên bản là bốn peso rưỡi); để chữa cho những người ra mồ hôi trộm với giá mười tám peso; để trả lại chân tay cho những người què cụt bẩm sinh với giá hai mươi peso,… tiếng tăm xấu xa của bọn Blacaman đã kết thúc và niềm vui chung của thế gian đã được xác lập. Cảm thức hiện thực huyền ảo thấm đẫm đoạn kể chuyện kỳ ảo này không chỉ với giọng kể bình thản kèm giá tiền đằng sau những chứng bệnh nan y, đồng thời tính hiện thực còn được nhấn mạnh đến nỗi đẩy một câu tự sự này thành một đoạn dài 16 dòng nguyên bản tiếng Tây Ban Nha [79,127] với 248 từ được phân ra bằng 25 dấu phẩy với trên 20 mệnh đề. (Trong bản tiếng Việt của Nguyễn Trung Đức [53], câu này dài đến 37 dòng với 444 từ được phân ra bằng 33 dấu phẩy và chấm phẩy). Những phép lạ được thực hiện theo đúng cách mà yếu tố kỳ ảo được sử dụng đã gắn liền với biểu tượng người du tử đã tạo nên một sức hút đặc biệt cho truyện ngắn kỳ ảo của Marquez. Thứ tư, nhờ tính chất di động của nhóm biểu tượng du tử mà Marquez có thể trình bày dấu ấn tổng hợp văn hóa của Mỹ Latin trong truyện ngắn của mình. Văn hóa Mỹ Latin được cấu thành từ ba mảng: văn hóa châu Âu, châu Phi và văn hóa bản địa. Có thể dễ dàng nhận ra dấu ấn của ba mảng này thông qua hình ảnh du tử lãng mạn nhưng cũng trần thế nhất: ông lão có đôi cánh khổng lồ. Trước hết, hình ảnh ông lão bay lên trời có thể bắt gặp trong nhiều chuyện cổ tích Phi châu, của những người bị đem qua châu Mỹ làm việc như nô lệ, tiêu biểu nhất là All God's chillun got wings. Câu chuyện này thể hiện niềm mong mỏi của những người nô lệ Châu Phi, họ hy vọng một ngày được thoát khỏi cuộc sống đau khổ bằng cách bay lên trời, mong ước một cuộc sống tốt đẹp hơn. Câu chuyện này về sau được nhà thờ Công giáo giải thích theo Kinh Thánh bằng lời tiên tri Isaiah rằng: “Những người mong chờ Thượng Đế sẽ được tiếp thêm sức mạnh. Họ sẽ chạy mà không mệt mỏi. họ sẽ ra đi mà không đớn đau.” Cách thức bay lên trời cũng đáng lưu ý, đó là nói, hành động bằng lời- gắn với việc thiên chúa phán truyền và dựng nên trời đất, ngôi Hai- ngôi Lời xuống làm người,… Vì thế, người ta gắn ông lão với hình ảnh Thiên thần theo tinh thần Thiên Chúa giáo châu Âu, ứng với mảng văn hóa thứ hai và thứ ba. Thiên chúa giáo, chính xác hơn là nhà thờ Công giáo La Mã có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của châu Mỹ Latin nhờ có mối quan hệ chặt chẽ với thế quyền của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Có thể nói hai thế lực vương quyền và thần quyền này đã dựa vào nhau để xác định và duy trì vị thế của mình ở Tân thế giới. Trong giáo lý Thiên chúa giáo thì thiên thần có nghĩa gốc là “sứ giả.” Trong Kinh Thánh, thiên thần là những sứ giả được Thượng Đế sử dụng để truyền đạt ý chí của ngài tới con người. Họ là những thực thể trung gian hoạt động như những sứ giả truyền tin của Thượng Đế cho con người. Thiên thần được nhìn thấy trong hình hài con người, đến gặp gỡ và sinh hoạt với con người. Đôi cánh của thiên thần, tượng trưng cho vai trò người đưa tin của nó. Do Thái giáo thiết lập một hệ thống thứ bậc thiên thần bao gồm tiểu thiên thần và tổng lãnh thiên thần, rồi phân biệt thiên thần cao cấp với các thiên thần khác. Ngày nay, tuy ý tưởng về các thiên thần hẳn bị đánh giá là phù phiếm như quỷ sứ hay linh hồn,… nhưng rõ ràng “ý niệm về thiên thần soi sáng những suy nghĩ của chúng ta về trần gian. Sự suy tư về một vương quốc của những tạo thể p

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHVHNN019.pdf