Luật Quyền tác giả tác phẩm văn học và nghệ thuật của Thụy Điển

Hợp đồng biểu diễn công cộng

Điều 30. Nếu quyền biểu diễn công cộng một tác phẩm được chuyển giao

thì việc chuyển giao đó có giá trịtrong thời hạn 03 năm và không bao gồm

quyền độc quyền. Nếu thoảthuận thời hạn dài hơn 03 năm và quyền độc

quyền được chuyển giao, thì tác giảvẫn có thểtựmình biểu diễn tác phẩm

hoặc chuyển giao quyền biểu diễn cho người khác nếu quyền này không

được thực hiện trong thời hạn 03 năm.

Quy định của Điều này không áp dụng đối với các tác phẩm điện ảnh.

pdf36 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1742 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luật Quyền tác giả tác phẩm văn học và nghệ thuật của Thụy Điển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oản hợp đồng giới hạn quyền của người sử dụng theo các đoạn 2, 4 và 5 không có hiệu lực. Điều 26h. Việc sao chép mã của chương trình hoặc dịch mã của chương trình là được phép nếu những hành vi này được yêu cầu nhằm đạt được sự tương thích giữa chương trình này và chương trình khác, tuy nhiên phải đáp ứng các điều kiện sau: 1. Các hành vi được thực hiện bởi một người có quyền sử dụng chương trình, hoặc bởi người được người có quyền uỷ quyền thực hiện các hành vi này, 2. Các thông tin cần thiết để đạt được sự tương thích đã không có sẵn để cung cấp trước cho những người nêu tại mục 1, 3. Các hành vi bị hạn chế với đối với các phần này của chương trình gốc là cần thiết để đạt được sự tương thích. Những quy định của đoạn 1 không cho phép các thông tin 1. được sử dụng cho mục đích khác ngoài việc đạt được sự tương thích như mong đợi, 2. được cung cấp tới những người khác trừ khi điều này là cần thiết để đạt được sự tương thích như mong đợi, 3. được sử dụng để phát triển, sản xuất hoặc đưa ra thị trường chương trình máy tính tương tự cơ bản về hình thức thể hiện với một chương trình đã được bảo hộ, hoặc 4. được sử dụng cho các hành vi khác hàm chứa sự vi phạm quyền tác giả. Các điều khoản hợp đồng hạn chế các quyền của người sử dụng theo đoạn này sẽ không có hiệu lực. Những quy định chung liên quan đến Giấy phép tập thể mở rộng. Điều 26i. Giấy phép tập thể mở rộng được nêu trong Điều 13, 26d và 26f áp dụng đối với việc sử dụng tác phẩm trong những trường hợp đặc biệt, khi một thoả thuận về việc sử dụng được ký kết với một tổ chức đại diện cho phần lớn tác giả Thuỵ Điển trong lĩnh vực có liên quan. Giấy phép tập thể mở rộng cho phép người sử dụng có quyền sử dụng tác phẩm dưới những loại hình được nêu trong thoả thuận kể cả trong thực tế các tác giả của những tác phẩm này không được đại diện bởi tổ chức. Để một tác phẩm được sử dụng theo Điều 13, thoả thuận phải được ký kết với người tiến hành hoạt động giáo dục có tổ chức. Tác giả có quyền nhận thù lao khi tác phẩm được sử dụng theo Điều 26d. Trường hợp tác phẩm được sử dụng theo Điều 13 hoặc 26f, áp dụng như sau. Những điều kiện liên quan đễn việc sử dụng tác phẩm tuân theo thoả thuận. Liên quan đến tiền thù lao có được từ thoả thuận và liên quan đến những lợi ích khác mà tổ chức phải trả ngoài tiền thù lao, tác giả được đối xử ngang bằng như đối với những tác giả là thành viên của tổ chức. Tuy nhiên, không ảnh hưởng tới những gì hiện đã được ấn định, những tác giả này luôn có quyền nhận thù lao đối với việc sử dụng với điều kiện là họ đưa ra yêu cầu việc trả tiền thù lao này trong khoảng thời hạn 3 năm kể từ năm việc sử dụng được tiến hành. Việc yêu cầu tiền thù lao này chỉ có thể thực hiện trực tiếp với tổ chức. Chỉ những tổ chức ký kết được hưởng quyền đưa ra yêu cầu đối với người sử dụng về tiền thù lao sử dụng tác phẩm trên cơ sở của Điều 26f. Tất cả những yêu càu này được đưa ra tại cùng một thời điểm. Chương IIa Quyền thù lao đặc biệt Thù lao đối với việc bán lại các bản sao tác phẩm nghệ thuật Điều 26j. Khi bản sao của tác phẩm nghệ thuật đã được chuyển giao được thương nhân bán lại trong thời hạn bảo hộ quyền tác giả khi người này thực hiện hoạt động kinh doanh của mình, tác giả có quyền nhận tiền thù lao từ người bán. Tác giả cũng có quyền nhận tiền thù lao trong trong các trường hợp khác, khi mà việc buôn bán do thương nhân thực hiện trong phạm vi hoạt động kinh doanh của họ. Trong trường hợp này tiền thù lao sẽ do thương nhân đó trả. Tiền thù lao là 5% giá bán buôn không tính thuế giá trị gia tăng. Tuy nhiên, tác giả sẽ không có quyền nhận tiền thù lao 1. Khi giá bán lại, không tính thuế giá trị gia tăng, không vượt quá một phần 20 tổng số theo Luật Bảo hiểm (1961:381), 2. Khi bản sao của tác phẩm nghệ thuật là bản sao của tác phẩm kiến trúc, hoặc 3. Khi bản sao của tác phẩm nghệ thuật là tác phẩm mỹ thuật ứng dụng đã được sản xuất với một số lượng bản sao giống hệt nhau. Quyền nhận thù lao mang tính cá nhân và không thể chuyển giao. Tuy nhiên, không phụ thuộc những quy định của Chương 10, Điều 3, Luật Hôn nhân, những quy định về phân chia tài sản giữa vợ chồng, về thừa kế sẽ áp dụng đối với quyền nhận thù lao sau khi tác giả chết. Chỉ tổ chức đại diện cho phần lớn các tác giả Thuỵ Điển trong lĩnh vực có liên quan mới có quyền yêu cầu tiền thù lao. Tổ chức yêu cầu tiền thù lao và trả cho người hưởng quyền sau khi đã trừ đi một khoản quản lý phí của tổ chức, Nếu tổ chức không yêu cầu người có trách nhiệm trả tiền tiền thù lao trong thời hạn 3 năm kể từ khi kết thúc năm việc bán được thực hiện thì yêu cầu bị hết hiệu lực. Theo yêu cầu của tổ chức, người có trách nhiệm trả tiền thù lao phải cung cấp các chi tiết về việc bán đã thực hiện trong vòng 3 năm trước đó để làm căn cứ tính tiền thù lao. Tiền thù lao đối với việc sản xuất và nhập khẩu các nguyên vật liệu để ghi âm ghi hình. Điều 26k. Khi một doanh nghiệp, trong phạm vi hoạt động nghề nghiệp của mình, sản xuất hoặc nhập khẩu các nguyên vật liệu để ghi âm, ghi hình và đặc biệt là phù hợp cho việc làm bản sao sử dụng vì mục đích cá nhân thì các tác giả có tác phẩm được bảo hộ đã được xuất bản trên các nguyên vật liệu có thể bị sao chép, có quyền nhận thù lao từ doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, tác giả không có quyền nhận thù lao nếu việc sản xuất hoặc nhập khẩu nguyên vật liệu nhằm 1. sử dụng cho các mục đích không phải là làm bản sao để sử dụng cá nhân, 2. xuất khẩu, hoặc 3. sử dụng làm bản sao cho những người khiếm thính hoặc khiếm thị. Tiền thù lao là 2 “Ores” cho mỗi phút có thể ghi, nhưng không quá 6 Cua – ron cho mỗi nguyên vật liệt. Chỉ tổ chức đại diện cho phần lớn các tác giả và người có quyền liên quan Thuỵ Điển trong các lĩnh vực có liên quan mới có quyền yêu cầu đối với tiền thù lao. Tổ chức sẽ yêu cầu tiền thù lao và phân chia tiền này cho những người có quyền sau khi đã trừ đi một khoản phí hợp lý. Khi phân chia tiền thì những người có quyền nhưng không dược đại diện bởi tổ chức sẽ được đối xử ngang bằng với những người có quyền được đại diện bởi tổ chức. Doanh nghiệp gửi thông báo đến tổ chức như được nêu trong đoạn 3. Theo yêu cầu của tổ chức, doanh nghiệp gửi số liệu về các nguyên vật liệu thuộc đối tượng trả thù lao, thời gian ghi của nguyên vật liệu và các trường hợp nguyên vật liệu được sản xuất hoặc nhập khẩu. Số liệu chỉ ra số lượng nguyên vật liệu nêu tại đoạn 2. Chương III Chuyển giao quyền tác giả Điều 27. Tuỳ thuộc vào những giới hạn cho phép theo Điều 3, quyền tác giả có thể được chuyển giao toàn bộ hoặc từng phần. Việc chuyển giao một bản sao không bao gồm việc chuyển giao quyền tác giả. Tuy nhiên, trong trường hợp một bức ảnh chân dung được thuê chụp thì tác giả không thể thực hiện quyền của mình nếu không có sự cho phép của người thuê chụp hoặc của vợ (chồng), người thừa kế của người thuê chụp trong trường hợp người thuê chụp đã chết. Những quy định về việc chuyển giao quyền tác giả trong những trường hợp đặc biệt này được quy định tại các điều từ 30 đến 40a Đ. Tuy nhiên, những quy định này chỉ áp dụng trong trường hợp không có thoả thuận ngược lại. Điều 28. Trường hợp không có thoả thuận ngược lại, người được chuyển giao quyền tác giả không thể thay đổi tác phẩm hoặc chuyển giao quyền tác giả cho những người khác. Nếu quyền tác giả là một phần của hoạt động kinh doanh, nó có thể được mua đi bán lại giữa các bên đối tác; việc chuyển giao vẫn phải tuân theo toàn bộ thoả thuận. Điều 29. Trường hợp tác giả chuyển giao cho nhà sản xuất bản ghi âm hoặc ghi hình quyền truyền đạt tới công chúng thông qua việc cho thuê các bản ghi này, tác giả có quyền nhận khoản tiền thù lao hợp lý. Những điều khoản trong hợp đồng mà giới hạn quyền này sẽ không có hiệu lực. Hợp đồng biểu diễn công cộng Điều 30. Nếu quyền biểu diễn công cộng một tác phẩm được chuyển giao thì việc chuyển giao đó có giá trị trong thời hạn 03 năm và không bao gồm quyền độc quyền. Nếu thoả thuận thời hạn dài hơn 03 năm và quyền độc quyền được chuyển giao, thì tác giả vẫn có thể tự mình biểu diễn tác phẩm hoặc chuyển giao quyền biểu diễn cho người khác nếu quyền này không được thực hiện trong thời hạn 03 năm. Quy định của Điều này không áp dụng đối với các tác phẩm điện ảnh. Hợp đồng xuất bản Điều 31. Thông qua hợp đồng xuất bản, tác giả chuyển giao cho nhà xuất bản quyền sao chép tác phẩm văn học nghệ thuật bằng việc in ấn hoặc theo một cách thức tương tự và quyền xuất bản chúng. Bản thảo viết tay hoặc bản sao khác mà trên cơ sở đó tác phẩm được sao chép thì vẫn thuộc quyền sở hữu của tác giả. Điều 32. Nhà xuất bản có quyền xuất bản một ấn phẩm, trong trường hợp là tác phẩm văn học thì không thể vượt quá 2000 bản, tác phẩm âm nhạc thì không thể vượt quá 1000 bản, tác phẩm nghệ thuật thì không thể vượt quá 200 bản. Một ấn phẩm được hiểu là cái gì mà nhà xuất bản sản xuất tại một hoặc cùng một thời điểm. Điều 33. Nhà xuất bản có trách nhiệm xuất bản tác phẩm trong thời gian hợp lý, đảm bảo việc phân phối bản sao tác phẩm theo cách thông thường, và tiếp tục khai thác xuất bản phẩm trong phạm vi cho phép của điều kiện thị trường và các hoàn cảnh khác.Trong trường hợp không trả tiền đúng kỳ hạn, tác giả có thể huỷ bỏ hợp đồng và giữ lại số tiền thù lao đã nhận được. Nếu tác giả phải chịu thiệt hại không bao gồm trong khoản tiền thù lao thì thiệt hại đó cũng sẽ được bồi thường. Điều 34. Nếu một tác phẩm không được xuất bản trong thời gian là 2 năm, nếu tác phẩm âm nhạc không được xuất bản trong thời gian là 4 năm, kể từ khi tác giả giao bản viết tay hoặc các bản sao khác để xuất bản, tác giả có thể huỷ bỏ hợp đồng và giữ lại tiền thù lao đã nhận được kể cả khi nhà xuất bản không có lỗi. áp dụng tương tự khi bản sao của tác phẩm đã bán hết và nhà xuất bản có quyền xuất bản ấn phẩm mới nhưng nhà xuất bản đã không thực hiện điều này trong vòng một năm kể từ khi tác giả đưa ra yêu cầu. Điều 35. Nhà xuất bản phải cung cấp cho tác giả giấy chứng nhận liên quan đến số lượng bản sao được làm ra của nhà in hoặc của người thực hiện việc sao chép tác phẩm. Nếu trong năm tài chính, việc bán được thực hiện thì tác giả được hưởng thù lao, nhà xuất bản sẽ gửi tiền thù lao vào tài khoản của tác giả trong vòng 9 tháng kể từ khi kết thúc năm đó, và thông báo số bản sao đã bán được trong năm và số lượng còn tồn lại khi kết thúc năm. Tác giả cũng có quyền yêu cầu có được bản báo cáo về số tồn kho khi kết thúc năm. Điều 36. Nếu việc xuất bản một ấn phẩm mới được tiến hành sau hơn một năm kể từ khi khi ấn phẩm trước được xuất bản, thì trước khi việc sản xuất này bắt đầu, tác giả có quyền sửa đổi tác phẩm nhưng không dẫn tới thay đổi giá cả của tác phẩm một cách bất hợp lý và không thay đổi tính chất của tác phẩm. Điều 37. Trước khi ấn phẩm hoặc những ấn phẩm mà nhà xuất bản được phép xuất bản được tiêu thụ hết thì tác giả không được quyền xuất bản lại tác phẩm dưới hình thức và phương thức đã nêu trong hợp đồng. Tuy nhiên, sau 15 năm kể từ khi xuất bản tác phẩm, tác giả được hưởng quyền đưa tác phẩm văn học trong xuất bản phẩm đó vào sưu tập hoặc tuyển tập của mình. Điều 38. Những quy định về hợp đồng xuất bản không áp dụng đối với những bài viết cho báo hoặc tạp chí. Điều 33 và 34 không được áp dụng đối với những bài viết trong các tác phẩm hỗn hợp khác. Hợp đồng Phim Điều 39. Việc chuyển giao quyền đưa tác phẩm văn học, nghệ thuật vào bộ phim bao gồm cả quyền phổ biến tác phẩm tới công chúng thông qua phim, chiếu trong các rạp chiếu bóng, trên vô tuyến truyền hình hoặc các hình thức khác và bao gồm cả quyền làm phần lời của bộ phim theo nguyên bản hoặc dịch sang ngôn ngữ khác. Quy định này không áp dụng đối với tác phẩm âm nhạc. Điều 40. Nếu quyền sử dụng một tác phẩm văn học hoặc âm nhạc đưa vào một bộ phim với mục đích trình chiếu công cộng được chuyển giao, thì người được chuyển giao sẽ sản xuất phim và cung cấp cho công chúng trong thời gian hợp lý. Nếu việc này không thực hiện, thì tác giả có thể huỷ bỏ hợp đồng và giữ lại khoản tiền thù lao đã nhận. Nếu tác giả phải chịu những thiệt hại không bao hàm trong số tiền tiền thù lao thì thiệt hại đó sẽ được bồi thường. Trong trường hợp một tác phẩm điện ảnh không được sản xuất trong vòng 5 năm kể từ khi tác giả đã thực hiện các nghĩa vụ của mình, thì tác giả có thể huỷ bỏ hợp đồng và giữ lại số tiền bản quyền đã nhận, kể cả khi không có lỗi từ phía người được chuyển giao. Chương trình máy tính được sáng tạo theo quan hệ làm công. Điều 40a. Quyền tác giả đối với chương trình máy tính được sáng tạo bởi người làm thuê như là một phần nhiệm vụ của họ hoặc theo sự chỉ dẫn của người thuê thì được chuyển giao cho người thuê trừ khi có thoả thuận khác theo hợp đồng. Chuyển giao quyền tác giả khi tác giả chết. Điều 41. Bất kể những quy định của Chương 10, Điều 3(1) Luật Hôn nhân quy định sự phân chia tài sản giữa vợ và chồng, quyền thừa kế, di chúc sau khi tác giả chết cũng được áp dụng đối với quyền tác giả. Người quản lý tài sản, nếu không có sự đồng ý của người thừa kế, không thể khai thác tác phẩm theo cách khác với cách nó đã được khai thác trước đây. Tác giả, trong mối quan hệ với vợ (hoặc chồng) hoặc người thừa kế, trong bản di chúc của mình có thể đưa ra các quyết định của mình về việc thực hiện quyền tác giả hoặc uỷ quyền cho người khác đưa ra những quyết định này. Điều 42. Quyền tác giả không phụ thuộc vào việc chiến hữu hợp pháp của bản thân tác giả hay của những người khác theo những quy định về tài sản giữa vợ và chồng, thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc. áp dụng tương tự đối với các bản viết tay và đối với các tác phẩm mỹ thuật chưa được trưng bày, bày bán hoặc các việc cho phép khác để cung cấp tới công chúng. Chương 4 Thời hạn bảo hộ quyền tác giả Điều 43. Quyền tác giả của một tác phẩm tồn tại cho đến khi kết thúc năm thứ 70 sau năm tác giả qua đời, hoặc đối với tác phẩm nêu tại Điều 6 là sau năm tác giả cuối cùng qua đời. Tuy nhiên, quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh tồn tại cho đến khi kết thúc năm thứ 70 sau năm người cuối cùng trong số những người sau đây qua đời: đạo diễn chính, tác giả kịch bản phim, tác giả lời thoại và nhạc sĩ sáng tác phần nhạc dành riêng cho bộ phim. Điều 44. Trong trường hợp tác phẩm được công bố mà không nêu tên tác giả hoặc chữ ký thông dụng của tác giả, thì quyền tác giả tồn tại cho đến khi kết thúc năm thứ 70 sau năm tác phẩm được công bố. Nếu tác phẩm gồm hai hoặc nhiều phần gắn liền với nhau, thì thời hạn sẽ được tính tách riêng cho từng phần. Nếu tác giả bộ lộ rõ danh tính của mình trong thời hạn nêu tại đoạn 1 thì áp dụng quy định của Điều 43. Đối với những tác phẩm không được công bố và không biết tác giả thì quyền tác giả sẽ tồn tại cho đến khi kết thúc năm thứ 70 sau năm tác phẩm được sáng tạo. Điều 44a. Trong trường hợp tác phẩm không được công bố trong thời hạn nêu tại Điều 43 hoặc 44, người mà sau đó đã công bố tác phẩm lần đầu hoặc phổ biến tác phẩm đến công chúng sẽ được hưởng các quyền kinh tế trong thời hạn là 25 năm sau năm mà tác phẩm được công bố hoặc phổ biến tới công chúng. Chương 5 Các quyền liên quan đến quyền tác giả Nghệ sĩ biểu diễn Điều 45. Buổi biểu diễn tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật của một nghệ sĩ nếu không được sự cho phép của nghệ sĩ đó thì không thể 1. ghi âm, đưa vào phim hoặc các phương tiện vật chất khác mà từ đó có thể sao chép lại được, hoặc 2. phát thanh, truyền hình hoặc được phổ cập tới công chúng bằng cách truyền trực tiếp. Một buổi biểu diễn được ghi trên các phương tiện vật chất như được nêu tại đoạn 1 mục 1, nếu không có sự đồng ý của nghệ sĩ biểu diễn thì không thể chuyển từ phương tiện ghi này sang phương tiện ghi khác hoặc phổ biến tới công chúng trong vòng 50 năm kể từ khi buổi biểu diễn được thực hiện, hoặc trong trường hợp bản ghi đã công bố hoặc phổ biến tới công chúng trong vòng 50 năm kể từ khi biểu diễn thì thời hạn này được tính từ năm sau năm bản ghi được công bố lần đầu hoặc phổ biến tới công chúng. Những quy định của Điều 3, 6 - 9, 11 - 13, 15, 16, 21, 22, 25 - 26b, 26e, 26f, 26k, 27 –29, 39(1), 41 và 42 được áp dụng đối với các buổi biểu diễn được nêu trong Điều này. Trường hợp bản sao của bản ghi buổi biểu diễn theo Điều này được chuyển giao trong các nước thuộc khu vực kinh tế Châu Âu với sự đồng ý của người biểu diễn thì có thể được phân phối tiếp. Những quy định của đoạn 4 không đưa đến quyền cung cấp tới công chúng. 1. bản sao của bản ghi, thông qua việc cho thuê hoặc các hành vi tương tự, hoặc 2. bản sao của một bộ phim hoặc các phương tiện vật chất khác mà có thể ghi được phim, thông qua việc cho mượn. Nhà sản xuất bản ghi âm hoặc ghi hình Điều 46. Băng ghi âm, phim hoặc các phương tiện vật chất khác mà âm thanh hoặc hình ảnh được ghi trên đó không thể được sao chép hoặc cung cấp tới công chúng nếu không có sự đồng ý của nhà sản xuất bản ghi trong thời hạn 50 năm kể từ khi bản ghi được làm ra, hoặc trong trường hợp bản ghi đã công bố hoặc phổ biến tới công chúng trong vòng 50 năm kể từ khi ghi thì thời hạn này được tính từ năm sau năm bản ghi được công bố lần đầu hoặc phổ biến tới công chúng. Việc chuyển từ loại hình ghi này sang một loại hình ghi khác cũng coi là sao chép. Những quy định của các Điều 6 đến 9, 11 đoạn 2, 12, 13, 15, 16, 21, 22, 25 đến 26b, 26e và 26k được áp dụng đối với các bản ghi nêu tại Điều này. Hơn thế nữa, Điều 26f được áp dụng liên quan đến các bản ghi ngoài các loại được đề cập tại Điều 47. Nếu được sự đồng ý của nhà sản xuất, khi bản sao của một bản ghi theo Điều này đã được chuyển giao trong các nước thuộc khu vực kinh tế Châu Âu, thì bản sao đó có thể được phân phối tiếp. Những quy định của đoạn 3 không tạo nên quyền cung cấp tới công chúng 1. các bản sao của bản ghi, thông qua việc cho thuê hoặc các hành vi tương tự, hoặc 2. các bản sao của bộ phim hoặc các phương tiện vật chất khác mà có thể ghi được phim, thông qua cho mượn. Sử dụng bản ghi âm để biểu diễn công cộng Điều 47. Bất kể những quy định của Điều 45 đoạn 2, và 46 đoạn 1, các bản ghi âm có thể được sử dụng trong các buổi phát thanh và truyền hình hoặc trong các buổi biểu diễn công cộng khác. Trong trường hợp này nhà sản xuất và những người biểu diễn có các buổi diễn được ghi có quyền nhận thù lao. Nếu có hai hoặc nhiều người tham gia vào buổi biểu diễn, thì quyền của họ chỉ có thể được yêu cầu đồng thời. Yêu cầu đối với người sử dụng bản ghi được đưa ra từ phía người biểu diễn và nhà sản xuất phải được thực hiện tại cùng một thời điểm. Những quy định về các chương trình phát thanh hoặc truyền hình trong đoạn 1 cũng áp dụng khi chương trình phát sóng vô tuyến được phát lại tới công chúng, đồng thời và không thay đổi, bằng phương tiện vô tuyến hoặc bằng cáp (phát lại). Yêu cầu đối với người thực hiện việc phát lại về việc trả thù lao chỉ có thể được đưa ra thông qua các tổ chức đại diện cho phần lớn người biểu diễn hoặc nhà sản xuất Thuỵ Điển. Các tổ chức đưa ra yêu cầu của mình cùng lúc với các yêu cầu được nêu tại Điều 26i đoạn 5. Những quy định của Điều 8 và 9, 11 đoạn 2, 21, 22, 25 - 26a áp dụng trong các trường hợp được nêu tại đoạn này. Về quyền của nghệ sĩ biểu diễn cũng áp dụng những quy định của Điều 27, 28, 41 và 42. Điều này không áp dụng đối với phim âm thanh. Tổ chức phát thanh và truyền hình Điều 48. Nếu không có sự đồng ý của tổ chức phát thanh truyền hình, chương trình phát thanh và truyền hình không thể 1. được ghi trên các phương tiện vật chất mà từ đó có thể sao chép lại được, hoặc 2. được phát sóng lại hoặc cung cấp tới công chúng tại nơi mà công chúng có thể tiếp cận được nhưng phải mua vé vào cửa. Chương trình phát sóng được ghi lại trên phương tiện vật chất như nêu trong đoạn 1 mục 1, nếu không có sự đồng ý của tổ chức phát sóng, không thể chuyển sang loại hình phương tiện vật chất khác trong vòng 50 năm kể từ khi buổi phát sóng được thực hiện. Hơn thế nữa, nếu không có sự đồng ý của tổ chức thì các phương tiện vật chất để ghi không thể cung cấp tới công chúng trước thời hạn này. Những quy định của các Điều 6 - 9, 11 đoạn 2, 12, 15, 16, 21, 22, 25 - 26b và 26e áp dụng đối với các chương trình phát thanh truyền hình nêu tại Điều này. Trường hợp bản sao của bản ghi theo điều này đã được chuyển giao trong các nước thuộc khu vực kinh tế Châu Âu thì có thể được phân phối tiếp. Nếu tổ chức phát thanh hoặc truyền hình có yêu cầu về tiền thù lao đối với việc phát lại này như đã nêu tại Điều 26f được thực hiện với sự cho phép của tổ chức, yêu cầu phải đưa ra cùng thời điểm với những yêu cầu nêu tại Điều 26i đoạn 5. Nhà sản xuất Catalogue Điều 49. Bất kỳ ai sản xuất Catalogue, bảng hoặc các sản phẩm tương tự khác mà trong đó chứa một số lượng lớn những mục thông tin được kết hợp với nhau, hoặc là kết quả của sự đầu tư đáng kể, có quyền độc quyền trong việc làm bản sao của sản phẩm và cung cấp đến công chúng. Quyền theo đoạn một kéo dài 15 năm kể từ năm sản phẩm được hoàn thành. Trường hợp sản phẩm được cung cấp tới công chúng trong vòng 15 năm kể từ khi sản phẩm được hoàn thành thì quyền sẽ kéo dài 15 năm kể từ năm sản phẩm được cung cấp đến công chúng lần đầu tiên. Những quy định của Điều 2 đoạn 2 và 3, Điều 6 – 9, 11 đoạn 2, 12 đoạn 1 và 2, 13 – 22, 25, 26, 26b, 26d, 26f, 26g đoạn 5 và 6, và 26i cũng sẽ được áp dụng đối với sản phẩm nêu tại Điều này. Nếu sản phẩm của loại này, hoặc một phần của loại này, là đối tượng của quyền tác giả thì cũng có thể yêu cầu bảo hộ quyền tác giả. Các điều khoản hợp đồng mở rộng quyền của các nhà sản xuất theo đoạn 1 đối với sản phẩm đã được cung cấp tới công chúng sẽ không có hiệu lực. Người chụp ảnh Điều 49a. Bất kỳ người nào tạo ra bức ảnh đều có quyền độc quyền trong việc sao chép bức ảnh và cung cấp bức ảnh đó tới công chúng. Quyền này áp dụng bất kể với bức ảnh được sử dụng là bản gốc hay bản sửa đổi và không phụ thuộc vào công nghệ được sử dụng để tạo ra bức ảnh đó. Một bức ảnh cũng được coi là một tác phẩm nhiếp ảnh nếu nó được tạo ra bằng phương thức tương tự như nhiếp ảnh. Quyền nêu tại đoạn 1 tồn tại 50 năm kể từ năm bức ảnh được tạo ra. Những quy định của Điều 2 đoạn 2 và 3, Điều 3, 7 đến 9, 11, 12 đoạn 1, 13, 15, 16, 18 đến 20, 23, 24 đoạn 1, 25 đến 26b, 26d đến 26f, 26i đến 28, 31 đến 38, 41, 42 và 50 đến 52 sẽ được áp dụng đối với những bức ảnh được nêu trong Điều này. Nếu bức ảnh này là đối tượng của quyền tác giả thì cũng được yêu cầu bảo hộ quyền tác giả. Chương VI Những quy định đặc biệt Điều 50. Một tác phẩm văn học nghệ thuật không thể cung cấp tới công chúng dưới tên, bút danh hoặc chữ ký mà tác phẩm hoặc tác giả của tác phẩm này có thể dễ bị nhầm lẫn với tác phẩm đã cung cấp tới công chúng trước đây hoặc nhầm với tác giả của tác phẩm đó. Điều 51. Nếu tác phẩm văn học nghệ thuật được biểu diễn hoặc sao chép theo một cách thức mà vi phạm đến lợi ích văn hoá, thì toà án trên cơ sở đề nghị của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có thể ban hành lệnh cấm việc sử dụng này, phạt tiền. Quy định này không áp dụng trong suốt cuộc đời tác giả. Điều 52. Liên quan tới hình phạt, Toà án có thể ban hành các biện pháp hợp lý nhằm ngăn chặn sự lạm dụng các bản sao là đối tượng cấm theo Điều 51 và các thiết bị chuyên được dùng để làm các bản sao này. Biện pháp này có thể là buộc tiêu huỷ hoặc thay đổi tính năng của các thiết bị đó theo các cách thức cụ thể. Những quy định của Điều này không áp dụng đối với người có được tài sản hoặc quyền đối với thiết bị đó một cách hợp pháp. Thiết bị nêu tại đoạn 1 có thể bị thu giữ để thực hiện các biện pháp đề cập tại Điều này; các quy định chung về giam giữ tội phạm cũng được áp dụng. Điều 52a Đ. Bất kỳ người nào muốn tiến hành việc truyền lại bằng hữu tuyến tác phẩm là một phần của buổi phát thanh, truyền hình vô tuyến và là người đề nghị một thoả thuận với tổ chức đại diện cho các chủ sở hữu quyền Thuỵ Điển hoặc với tổ chức phát thanh, truyền hình thực hiện việc phát sóng trong phạm vi Cộng đồng Châu Âu nhưng bị từ chối thoả thuận này về những điều khoản đã đề nghị, sẽ được quyền đàm phán với các tổ chức hoặc tổ chức phát thanh, truyền hình với những đề nghị tương ứng. Bên có nhiệm vụ tham gia vào các cuộc đàm phán này, đích thân hoặc thông qua người đại diện tham dự các cuộc đàm phán này và, nếu việc này là cần thiết, đưa ra đề xuất thuyết phục cho việc giải quyết vấn đề đang đàm phán. Các bên có thể thống nhất một hình thức đám phán nào đó khác với hình thức một cuộc họp. Bất kỳ người nào không tuân theo những quy định của đoạn 2 sẽ phải trả khoản tiền bồi thường cho những thiệt hại gây ra. Khi xem xét mức độ thiệt hại của m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuật Quyền tác giả tác phẩm văn học và nghệ thuật của Thụy Điển.pdf
Tài liệu liên quan