Ly hôn có yếu tố nước ngoài

Một hạn chế của hệ thuộc nơi cư trú và đặc biệt là hệ thuộc nơi thường trú, đó là trong

một số trường hợp, chúng ta không thể xác định được chính xác hệ thuộc cần áp

dụng. Ví dụ: Đối với những người lao động nhập cư, chúng ta không thể biết họ muốn

cư trú lâu dài hay chỉ muốn tạm trú tại nước tiếp nhận lao động. Ngoài ra, cá nhân có

thể khai báo không đúng sự thật để lẩn tránh pháp luật, bởi vì định nghĩa về nơi cư trú

của một người thể hiện ý định cư trú của người đó. Hạn chế này thường không xảy ra

đối với hệ thuộc nơi thường trú, tuy nhiên, hệ thuộc này lại có hạn chế khác, đó là: nơi

thường trú thường xuyên thay đổi, làm ảnh hưởng đến hiệu lực của quyết định ly hôn.

Nếu ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi vợ chồng thường trú thì khi nơi

thường trú thay đổi, liệu hiệu lực của quyết định ly hôn có thay đổi theo pháp luật của

nơi thường trú mới hay không?

Cũng có thể xảy ra trường hợp vợ chồng không cư trú hoặc không thường trú tại cùng

một nước. Trong trường hợp này, chúng ta có thể áp dụng trở lại hệ thuộc "luật quốc

tịch chung", nếu vợ chồng cùng chung quốc tịch (P. Lagarde)

 

doc8 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3315 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ly hôn có yếu tố nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI Cũng giống như mọi vấn đề liên quan đến quy chế nhân thân, vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài bắt nguồn từ hiện tượng di dân. Vợ, chồng có thể là công dân của những nước khác nhau hoặc có thể có cùng quốc tịch nhưng cư trú tại những nước khác nhau; thậm chí, vợ chồng có thể không cùng quốc tịch và nơi cư trú: do người vợ hoặc người chồng đi lao động ở nước ngoài xa gia đình hoặc đơn giản là do hai người đã ly thân trên thực tế để chuẩn bị chính thức chấm dứt quan hệ hôn nhân. Nhìn từ góc độ xã hội học, có thể nhận thấy rằng hiện nay, ở nhiều nước, nguy cơ tan vỡ gia đình ngày một gia tăng do tác động của nhiều yếu tố khác nhau: người phụ nữ ngày càng trở nên độc lập hơn; tuổi thọ của con người được nâng cao; quan niệm truyền thống về ly hôn dần thay đổi: ly hôn không còn bị coi là một tội lỗi. Do mỗi quốc gia có một cách nhìn nhận khác nhau về hôn nhân, dẫn đến sự khác biệt trong quy định của nội luật nên ly hôn có yếu tố nước ngoài thực sự đặt ra vấn đề xung đột pháp luật. Thực vậy, chỉ liên quan đến các trường hợp ly hôn, chúng ta cũng có thể nhận thấy rất nhiều quan điểm khác nhau về căn cứ ly hôn: từ quan điểm chặt chẽ về ly hôn do có yếu tố lỗi của vợ hoặc chồng cho đến quan điểm thoáng hơn về ly hôn do ly thân từ hai năm trở lên và cuối cùng là quan điểm cởi mở hơn nữa với trường hợp thuận tình ly hôn và chấm dứt chung sống (trường hợp này mới phát triển tại Pháp). Sự đa dạng về quan điểm đối với vấn đề ly hôn đồng thời cũng tác động nhất định đến những quy định về thủ tục ly hôn, vốn có quan hệ chặt chẽ với vấn đề nội dung. Hiện nay, nhiều quốc gia đã chuyển từ quan điểm thứ nhất (ly hôn do lỗi) sang quan điểm thứ ba (thuận tình ly hôn). Ngày nay, những khác biệt giữa các nước trong vấn đề ly hôn đã có xu hướng giảm bớt. Những nước trước đây từng phản đối ly hôn thì giờ đây cũng đã chấp nhận khái niệm này. Có thể nói, hiện nay, không còn nước nào không cho phép ly hôn. Các quy định về căn cứ ly hôn cũng dần thống nhất với nhau. Mặc dù vậy, quy định của các nước về ly hôn cũng chưa hẳn đã hoàn toàn thống nhất: tùy nước mà ly hôn có thể đơn giản hoặc phức tạp. Điều này khiến cho khi xảy ra tranh chấp, vợ chồng có thể lợi dụng những điểm khác biệt này để lẩn tránh pháp luật. Ngoài ra, ly hôn cũng vấn đề nhạy cảm thể hiện sự xung đột giữa các nền văn hóa, bởi vì ly hôn khiến cho chúng ta nhìn nhận lại một vấn đề cơ bản đối với một số quốc gia, đó là vấn đề bình đẳng nam-nữ. Đặc biệt, pháp luật của các nước Hồi giáo, vốn dựa trên tư tưởng trọng nam khinh nữ, còn cho phép người chồng được đơn phương chấm dứt hôn nhân. Theo quan điểm phổ biến nhất hiện nay, ly hôn là "chế định có hình thức của một vụ kiện". Ở những nước theo hệ thống luật Common Law, ly hôn chỉ đơn giản đặt ra vấn đề về thẩm quyền của Tòa án thụ lý hồ sơ: Nếu một Tòa án có thẩm quyền thụ lý hồ sơ thì Tòa án đó sẽ áp dụng pháp luật nước mình. Trong khi ở những hệ thống luật khác, nếu vụ việc có yếu tố nước ngoài thì cần tách biệt hai vấn đề là pháp luật áp dụng và thẩm quyền của Tòa án; đồng thời, cũng phải tính đến vấn đề công nhận quyết định ly hôn của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài. Chính vì vậy, bài trình bày này sẽ đề cập lần lượt hai vấn đề sau: xung đột pháp luật và xung đột thẩm quyền xét xử. I. XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT Do thời gian có hạn nên tôi sẽ chỉ trình bày các quy định về căn cứ ly hôn. Ly hôn là vấn đề thuộc về quy chế nhân thân và do vậy, chịu sự điều chỉnh của pháp luật nhân thân (Luật nơi cư trú của đương sự hoặc luật của nước mà đương sự mang quốc tịch). Về điểm này, người ta nhận thấy có sự do dự trong việc lựa chọn giữa hệ thuộc luật nơi cư trú của đương sự và hệ thuộc luật của nước mà đương sự mang quốc tịch. A. HỆ THUỘC LUẬT QUỐC TỊCH Hệ thuộc luật này thể hiện quan điểm truyền thống về chủ quyền và thẩm quyền của một quốc gia đối với công dân của nước mình tại nơi họ cư trú. Tuy nhiên, vấn đề này lại đặt ra một số khó khăn về mặt thực tiễn và thậm chí là cả về mặt lý luận. 1. Khó khăn về mặt thực tiễn: tình trạng một người có nhiều quốc tịch hoặc không quốc tịch Khó khăn lớn nhất là tình trạng một người có nhiều quốc tịch. Tình trạng này hiện khá phổ biến, do pháp luật của nhiều nước cho phép phụ nữ sau khi kết hôn với người nước ngoài vẫn được giữ quốc tịch gốc. Một lý do khác, đó là phụ nữ có quyền yêu cầu cho con cái được mang quốc tịch của mẹ. Do vậy, nhiều trẻ em sinh ra có hai quốc tịch. Đối với xung đột về quốc tịch, có hai giải pháp truyền thống, đó là: 􀂃 Nếu người có nhiều quốc tịch là công dân của nước có cơ quan thụ lý vụ việc thì quốc tịch của nước có cơ quan thụ lý vụ việc đương nhiên là quốc tịch có giá trị; 􀂃 Nếu người đó có hai quốc tịch nước ngoài thì cơ quan thụ lý vụ việc phải xác định quốc tịch nào là quốc tịch có quan hệ chặt chẽ nhất. Giải pháp thứ nhất tương đối khó, bởi vì giải pháp này sẽ dẫn đến tình huống người vợ là công dân của nước A kết hôn với người chồng là công dân của nước B và sau đó có quốc tịch của nước B do kết hôn. Nếu thủ tục ly hôn được tiến hành tại nước B thì pháp luật áp dụng là pháp luật nước B. Quyết định ly hôn có nguy c không được công nhận tại nước A. Chính vì vậy, giải pháp hợp lý nhất là trong trường hợp quyết định được đưa ra nước ngoài, thẩm phán được yêu cầu công nhận quyết định ly hôn (ở đây là thẩm phán nước A) nên công nhận quyết định ly hôn mà không chỉ trích quyết định này của thẩm phán nước B. Giải pháp này hiện đang rất phổ biến trong thực tiễn xét xử ở Châu Âu. Đây đồng thời cũng là giải pháp được quy định tại Công ước La Hay năm 1970 về công nhận quyết định ly hôn. Đối với giải pháp thứ hai, chúng ta thậm chí có thể không ưu tiên lựa chọn quốc tịch của nước có Tòa án thụ lý vụ việc nếu quốc tịch này không có quan hệ chặt chẽ với đương sự. Theo hướng này, khoản 1 và 3 Điều 1 Đạo luật năm 1981 của Hà Lan quy định rằng: "Nếu một người có từ hai quốc tịch trở lên thì luật quốc tịch có hiệu lực áp dụng là luật của nước có quan hệ chặt chẽ nhất với người đó trong mọi trường hợp ". 2. Khó khăn về mặt lý luận Quy định vấn đề ly hôn thuộc phạm vi điều chỉnh của luật quốc tịch tất yếu đặt ra vấn đề luật áp dụng đối với những gia đình có thành viên là công dân của những nước khác nhau. Trong luật quốc tịch, nhiều giải pháp đã được tính đến, tuy nhiên, không giải pháp nào thỏa mãn yêu cầu đặt ra: 􀂃 Áp dụng kết hợp luật quốc tịch của cả người vợ và người chồng: giải pháp này không phù hợp bởi vì quy định như vậy quá gò bó; 􀂃 Áp dụng riêng rẽ luật quốc tịch của từng người cho từng vấn đề tương ứng: giải pháp này sẽ dẫn đến những hệ quả vô lý (một người được coi là đã ly hôn ở nước này trong khi người còn lại vẫn được coi là đã kết hôn ở nước khác); 􀂃 Lựa chọn áp dụng luật quốc tịch của vợ hoặc của chồng: trước đây, pháp luật áp dụng là pháp luật của người chồng. Ngày nay, phương án này đôi khi vẫn được áp dụng tại các Tòa Bảo hiến của Đức, Ý hoặc được quy định trong pháp luật của một số nước như Tây Ban Nha, Nhật Bản. Các quốc gia Hồi giáo hiện vẫn áp dụng giải pháp này. Như vậy, chỉ còn một giải pháp duy nhất khả thi, đồng thời cũng là giải pháp phổ biến hiện nay, đó là căn cứ theo hệ thuộc phụ trợ: hệ thuộc luật nơi cư trú chung. Giải pháp này được đề xuất tại Điều 7 Nghị quyết của Viện Pháp luật quốc tế và sau đó được chuyển hóa vào nội luật của nhiều nước. Cùng với thời gian, các phương án dần được tinh lọc để đi đến thứ tự ưu tiên áp dụng như sau: trước hết phải ưu tiên áp dụng pháp luật quốc tịch chung của vợ và chồng; trong trường hợp không có quốc tịch chung, áp dụng pháp luật quốc tịch chung cuối cùng; tiếp đến là pháp luật nơi cư trú chung; nơi cư trú chung cuối cùng và cuối cùng là pháp luật của Tòa án thụ lý vụ việc. B. HỆ THUỘC LUẬT NƠI CƯ TRÚ HOẶC NƠI THƯỜNG TRÚ Quy định áp dụng pháp luật nơi cư trú đối với vấn đề ly hôn thể hiện nguyên tắc "pháp luật áp dụng đối với một tình huống nhất định là pháp luật nơi gần nhất so với nơi xảy ra tình huống đó". Khái niệm nơi cư trú phải được hiểu là nơi cư trú trong quan hệ tư pháp quốc tế. Cụ thể là nếu hai vợ chồng không chung sống với nhau nhưng cùng cư trú trong một nước thì được coi là có cùng nơi cư trú. Điều quan trọng là tình huống trên thực tế bởi vì thực tế thường khác với khái niệm pháp lý trong nội luật. Hiện nay, có thể nhận thấy xu hướng chung là chuyển sang căn cứ theo một tiêu chí cụ thể hơn, tiêu chí nơi thường trú (Đạo luật năm 1981 của Hà Lan quy định trong trường hợp không có quốc tịch chung thì căn cứ theo tiêu chí "nơi thường trú tại cùng một nước"). 1. Thuận lợi Hệ thuộc này có nhiều thuận lợi. Thứ nhất, nếu ly hôn chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc tịch thì sẽ có khả năng phải áp dụng pháp luật nước ngoài; như vậy, thẩm phán sẽ gặp khó khăn hơn so với việc áp dụng pháp luật của Tòa án. Tuy nhiên, nếu pháp luật áp dụng là pháp luật nơi cư trú hoặc pháp luật nơi thường trú thì điều này hoàn toàn phù hợp với tiêu chí chung về thẩm quyền xét xử của Tòa án: thẩm phán hầu như sẽ không còn phải áp dụng pháp luật nước ngoài. Thứ hai, với hệ thuộc nơi cư trú hoặc nơi thường trú, chúng ta có thể tránh được tình trạng pháp luật của vợ và chồng có quy định khác biệt. Rất có thể quy định cũ về việc đương nhiên coi phụ nữ có cùng nơi cư trú với chồng sẽ được xóa bỏ. Tuy nhiên, trên thực tế, vợ chồng thường cư trú tại cùng một nước. Trong trường hợp vợ chồng cư trú tại các nước khác nhau, chúng ta có thể áp dụng pháp luật nơi cư trú chung cuối cùng (với điều kiện một trong hai người hiện vẫn đang cư trú tại nơi cư trú đó; đây là trường hợp thường xuyên xảy ra nhất trên thực tế). Với những thuận lợi nêu trên, hiện nay, hệ thuộc luật nơi cư trú hoặc nơi thường trú thường hay được áp dụng hơn hệ thuộc luật quốc tịch. Về nguyên tắc, pháp luật Pháp căn cứ theo hệ thuộc luật quốc tịch. Từ năm 1975, các trường hợp ly hôn giữa các cặp vợ chồng cư trú tại Pháp do pháp luật Pháp điều chỉnh. Nếu quy định này được ban hành vào thời điểm hiện nay thì rất có thể, pháp luật Pháp sẽ lựa chọn tiêu chí nơi thường trú. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng hai hệ thuộc này không có những hạn chế nhất định. 2. Hạn chế Một hạn chế của hệ thuộc nơi cư trú và đặc biệt là hệ thuộc nơi thường trú, đó là trong một số trường hợp, chúng ta không thể xác định được chính xác hệ thuộc cần áp dụng. Ví dụ: Đối với những người lao động nhập cư, chúng ta không thể biết họ muốn cư trú lâu dài hay chỉ muốn tạm trú tại nước tiếp nhận lao động. Ngoài ra, cá nhân có thể khai báo không đúng sự thật để lẩn tránh pháp luật, bởi vì định nghĩa về nơi cư trú của một người thể hiện ý định cư trú của người đó. Hạn chế này thường không xảy ra đối với hệ thuộc nơi thường trú, tuy nhiên, hệ thuộc này lại có hạn chế khác, đó là: nơi thường trú thường xuyên thay đổi, làm ảnh hưởng đến hiệu lực của quyết định ly hôn. Nếu ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi vợ chồng thường trú thì khi nơi thường trú thay đổi, liệu hiệu lực của quyết định ly hôn có thay đổi theo pháp luật của nơi thường trú mới hay không? Cũng có thể xảy ra trường hợp vợ chồng không cư trú hoặc không thường trú tại cùng một nước. Trong trường hợp này, chúng ta có thể áp dụng trở lại hệ thuộc "luật quốc tịch chung", nếu vợ chồng cùng chung quốc tịch (P. Lagarde)… C. XEM XÉT NGUYỆN VỌNG CỦA CÁC BÊN Nghị quyết năm 1987 của Viện Pháp luật quốc tế về hai hệ thuộc luật quốc tịch và luật nơi cư trú trong tư pháp quốc tế quy định như sau: "5. Về hiệu lực của việc kết hôn, ly hôn và ly thân, các quốc gia nên cho phép vợ chồng được tự do lựa chọn giữa luật quốc tịch và luật nơi cư trú, nếu vợ chồng có cùng quốc tịch, cùng nơi cư trú và nước mà vợ chồng mang quốc tịch không phải là nước nơi vợ chồng cư trú". Tương tự, Đạo luật năm 1981 của Hà Lan nêu trên cũng đề cập đến trường hợp vợ chồng có cùng quốc tịch nhưng quốc tịch chung không kéo theo quan hệ xã hội thực tế với nước có liên quan đối với ít nhất một trong hai người. Trong trường hợp này, pháp luật quốc tịch chung chỉ có hiệu lực áp dụng nếu vợ chồng lựa chọn áp dụng pháp luật này; nếu không, pháp luật áp dụng là pháp luật nơi thường trú của vợ chồng (như vậy, với quy định này, phụ nữ có thể không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật của người chồng, tức pháp luật của nước mà người vợ mặc nhiên mang quốc tịch kể từ thời điểm kết hôn (khoản 2 Điều 1). Ngoài ra, khoản 4 Điều này còn cho phép người vợ hợp tự do lựa chọn pháp luật Hà Lan là pháp luật áp dụng trong mọi trường hợp. Quy định này nhằm cho phép lựa chọn áp dụng pháp luật của Tòa án trong trường hợp Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ việc. KẾT LUẬN Mỗi hệ thống pháp luật có thể có những hệ thuộc chính khác nhau; tuy nhiên, hệ thuộc nơi cư trú và hệ thuộc nơi thường trú vẫn là những hệ thuộc phụ trợ thường xuyên được sử dụng tại các nước theo hệ thuộc luật quốc tịch. II. XUNG ĐỘT THẨM QUYỀN XÉT XỬ A. THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN Trong lĩnh vực ly hôn, có rất nhiều căn cứ xác định thẩm quyền đa dạng; điều này khiến cho chúng ta phải lưu ý đến vấn đề nhiều Tòa án được yêu cầu giải quyết cùng một vụ việc. 1. Tính đa dạng của các căn cứ xác định thẩm quyền a. Căn cứ khách quan Một số căn cứ cho phép xác định được thẩm quyền của Tòa án mà ít gây tranh chấp. Căn cứ đầu tiên là Tòa án của nước nơi thường trú của vợ chồng. Căn cứ này được dễ dàng chấp nhận bởi vì có quan hệ chặt chẽ với tình huống. Trong trường hợp vợ chồng không thường trú tại cùng một nơi thì có thể xác định thẩm quyền của Tòa án theo các căn cứ sau: o Nơi thường trú chung cuối cùng của vợ chồng, với điều kiện vợ hoặc chồng vẫn phải tiếp tục cư trú tại nơi đó. Nơi thường trú chung cuối cùng là nơi tập trung quyền lợi của vợ chồng. Ngoài ra, có thể tính đến việc con chưa thành niên hiện vẫn đang cư trú cùng với vợ hoặc chồng tại nơi cư trú chung cuối cùng của vợ chồng. o Nơi thường trú của bị đơn: Đây là một căn cứ xác định thẩm quyền khá phổ biến. o Nơi thường trú của nguyên đơn. Căn cứ này không phù hợp với nguyên tắc xác định thẩm quyền truyền thống theo đó cần ưu tiên áp dụng tiêu chí nơi cư trú của bị đơn. Tuy nhiên, xuất phát từ tính đặc thù của vấn đề ly hôn, chúng ta vẫn có thể áp dụng căn cứ nơi thường trú của nguyên đơn: quyền lợi của nguyên đơn thường xứng đáng được ưu tiên xem xét hơn quyền lợi của bị đơn, bởi vì đây là trường hợp liên quan đến một người vợ hoặc chồng bị bỏ rơi. Tuy nhiên, để xác định thẩm quyền theo căn cứ này, thời gian cư trú của nguyên đơn phải đủ dài (theo Nghị định mới đây của Liên minh Châu Âu, thời gian này là 1 năm và có thể giảm xuống 6 tháng nếu vợ hoặc chồng là công dân của nước có liên quan hoặc "cư trú" tại nước này theo cách giải thích của các nước theo hệ thống luật Common Law). o Trong một số trường hợp, Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi kết hôn. Tuy nhiên, căn cứ xác định thẩm quyền này không hoàn toàn thỏa đáng. b. Quốc tịch của vợ chồng Về nguyên tắc, căn cứ này không đặt ra vấn đề gì nếu quốc tịch được căn cứ là quốc tịch chung của vợ chồng; bởi vì trong trường hợp đó, căn cứ này không phân biệt quốc tịch của vợ và chồng. Nghị định của Cộng đồng Châu Âu về thẩm quyền của Tòa án, công nhận và thi hành quyết định của Tòa án trong lĩnh vực hôn nhân quy định căn cứ đầu tiên được sử dụng để xác định thẩm quyền trực tiếp của Tòa án là căn cứ nơi thường trú chung của vợ chồng. Trong trường hợp vợ chồng có nơi thường trú chung thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án của nước mà vợ chồng mang quốc tịch. Phương án này chính là phương án quy định trong Công ước La Hay ngày 1 tháng 6 năm 1970 về công nhận quyết định ly hôn (Điều 2.3.). Ngoài ra, chúng ta còn thấy xuất hiện thêm một điều kiện, đó là quốc tịch chung của vợ chồng phải ít có ý nghĩa đối với một trong hai vợ chồng; đây là trường hợp người phụ nữ được tự động nhập quốc tịch của chồng sau khi kết hôn và cả hai vợ chồng đều không cư trú tại nước mà họ mang quốc tịch. Căn cứ quốc tịch của bị đơn cũng không vấp phải thái độ phản đối nào, với điều kiện bị đơn được quyền tự do sử dụng hoặc không sử dụng căn cứ này. Còn trường hợp quốc tịch của nguyên đơn? Vốn được công nhận một cách phổ biến, thẩm quyền riêng biệt của quốc gia trong việc điều chỉnh quy chế công dân của nước mình hoàn toàn có thể mở rộng sang cả lĩnh vực về thẩm quyền của Tòa án để đảm bảo quyền lợi của quốc gia trong lĩnh vực này. Đây có thể được coi là một đặc quyền; tuy nhiên, thẩm quyền của Tòa án trong trường hợp này lại hoàn toàn có căn cứ. Tóm lại, thẩm quyền của Tòa án nước có nguyên đơn là công dân không nhất thiết kéo theo hiệu lực áp dụng của luật của Tòa án đó. Như chúng ta đã xem xét, hiện nay, thông thường, trong trường hợp vợ chồng không cùng quốc tịch, quy phạm xung đột sẽ dẫn chiếu đến pháp luật của nơi cư trú chung hoặc thậm chí là nơi cư trú chung cuối cùng nhằm nhanh chóng áp dụng pháp luật quốc tịch của một bên. Ngoài ra, cho dù Tòa án áp dụng pháp luật của nước mà nguyên đơn mang quốc tịch với tư cách là pháp luật có hiệu lực áp dụng chính hoặc áp dụng phụ trợ, thì cũng hoàn toàn dễ hiểu khi một người có thể được Tòa án trong nước áp dụng pháp luật nhân thân của nước mình. Liên quan đến quy phạm xác định thẩm quyền gián tiếp, Công ước La Hay nói trên đã công nhận Tòa án có thẩm quyền là Tòa án của nước mà nguyên đơn đã từng mang quốc tịch, kèm theo một số điều kiện bổ sung đối với yếu tố chủ quan này (điểm 4 và 5 Điều 2). Thỏa thuận chung của vợ chồng cũng có thể được chấp nhận. Trước hết, thỏa thuận chung của vợ chồng cho phép khắc phục tình trạng có quá nhiều căn cứ xác định thẩm quyền của Tòa án: nếu vợ chồng thống nhất lựa chọn một căn cứ để xác định thẩm quyền của Tòa án thì thỏa thuận của vợ chồng sẽ cho phép loại trừ các căn cứ còn lại. Tuy nhiên, thỏa thuận chung của vợ chồng không thực sự là một yếu tố có căn cứ vững chắc, bởi vì thỏa thuận của vợ chồng có thể dẫn đến các trường hợp lạm dụng (forum shopping). Có thể xác định được các Tòa án có thẩm quyền thụ lý vụ án; hoặc trong trường hợp liên quan đến việc công nhận quyết định ly hôn, chúng ta có thể yêu cầu Tòa án phải có liên hệ chặt chẽ với tình huống. Nghị định của Liên minh Châu Âu cho phép vợ chồng yêu cầu Tòa án nơi thường trú của vợ hoặc chồng giải quyết ly hôn, nếu yêu cầu đó là yêu cầu chung của vợ chồng. 2. Vấn đề nhiều Tòa án cùng thụ lý một vụ việc (litispendance) Do có nhiều căn cứ khác nhau để xác định thẩm quyền của Tòa án, đồng thời xuất phát từ đặc điểm còn nhiều tranh cãi của các tranh chấp giữa vợ và chồng nên nguy cơ một vụ việc được 2 Tòa án cùng thụ lý là tương đối cao. Trong trường hợp này, cần loại trừ một Tòa án, nếu không, các Tòa án có thể sẽ gặp phải những tình huống hoàn toàn mâu thuẫn với nhau. Đây chính là nguyên tắc giải quyết trường hợp nhiều tòa án cùng có thẩm quyền đối với một vụ việc. Nguyên tắc này ngăn chặn khả năng khởi kiện trước một Tòa án nếu vụ việc đã được một Tòa án khác thụ lý. Về nguyên tắc, Tòa án thứ hai thụ lý vụ việc phải chuyển hồ sơ sang cho Tòa án thứ nhất giải quyết. Tuy nhiên, hiện nay, ngoài một số công ước quốc tế, vấn đề tòa án của nhiều nước cùng có thẩm quyền đói với một vụ việc còn rất ít được đề cập. Nghị định của Liên minh Châu Âu là một ví dụ về công nhận tình trạng tòa án của nhiều nước cùng có thẩm quyền với một vụ việc (litispendance). Có thể nhận thấy Nghị định này đã công nhận khái niệm litispendance theo nghĩa rộng. Về nguyên tắc, litispendance chỉ xảy ra khi Tòa án của hai nước khác nhau nhận được yêu cầu khởi kiện đối với cùng một vụ việc và cùng có thẩm quyền đối với vụ việc đó. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta lại đang ở trong khuôn khổ của vấn đề chia rẽ giữa vợ và chồng, tức một vấn đề được thể hiện qua hai nội dung hoàn toàn khác biệt là ly hôn và ly thân; và trong một số trường hợp còn có thêm một nội dung nữa, đó là yêu cầu tuyên bố hôn nhân vô hiệu. Theo quy định của Nghị định Liên minh Châu Âu, dù nội dung khởi kiện có thể khác nhau (ví dụ một người yêu cầu ly hôn tại một nước thành viên của Liên minh Châu Âu còn người kia yêu cầu tuyên bố hôn nhân vô hiệu tại một nước thành viên khác) thì Tòa án thứ hai thụ lý vụ việc phải mặc nhiên đình chỉ vụ việc cho đến khi xác định được thẩm quyền của Tòa án thứ nhất. Nếu Tòa án thứ nhất có thẩm quyền thì Tòa án thứ hai phải chuyển hồ sơ vụ việc sang cho Tòa án thứ nhất, đồng thời nguyên đơn đã khởi kiện ra Tòa án thứ hai có thể khởi kiện ra Tòa án thứ nhất có thẩm quyền (Điều 19). B. CÔNG NHẬN QUYẾT ĐỊNH LY HÔN CỦA TÒA ÁN NƯỚC NGOÀI Nếu quyết định ly hôn được đưa ra tại một nước thì quyết định này nên được công nhận tại những nước khác nhằm tránh tình trạng một quyết định có quy chế không thống nhất tại những nước khác nhau. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng chúng ta có thể bỏ qua công tác kiểm tra quyết định ly hôn của Tòa án nước ngoài. Những nội dung cơ bản của công tác kiểm tra này tương đối phổ biến. Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp 68 1. Kiểm tra thẩm quyền của Tòa án ra quyết định Đây là nội dung quan trọng nhất. Chúng ta không nên coi quy phạm xác định thẩm quyền của Tòa án là các quy phạm thẩm quyền chuyên biệt. Hiện nay, quan điểm này cũng đã dần thay đổi. Căn cứ xác định thẩm quyền hợp lý nhất, đó là căn cứ về mối quan hệ hệ thuộc cần thiết giữa Tòa án và vụ việc. 2. Liệu có cần kiểm tra pháp luật áp dụng? Không cần thiết phải kiểm tra pháp luật áp dụng, bởi vì quốc tịch, nơi cư trú và nơi thường trú đều đã là những hệ thuộc chặt chẽ. Pháp luật hiện đại của Hà Lan, Đức, Thụy Sĩ… quy định không cần kiểm tra pháp luật áp dụng. 3. Trật tự công Có hai hình thức trật tự công: a. Trật tự công về mặt tố tụng Trật tự công về mặt tố tụng liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quyền tự bảo vệ, hay nói cách khác là kiểm tra xem liệu các quyền tố tụng của người vợ hoặc chồng đã được đảm bảo tuân thủ hay chưa. Tuy nhiên, về khía cạnh này, trường hợp thuận tình ly hôn lại đặt ra một vấn đề tương đối đặc thù: Bởi vì ở đây, chúng ta không thể đề cập đến "các quyền tự bảo vệ", tuy nhiên, điều này không có nghĩa là không thể xảy ra trường hợp người vợ hoặc người chồng gây sức ép buộc người kia thuận tình ly hôn. b. Trật tự công về mặt nội dung Chúng ta cần phải chấp nhận các hình thức ly hôn khác với các hình thức quy định trong pháp luật của Tòa án nơi thi hành quyết định ly hôn (căn cứ khác nhau, hiệu lực ly hôn rộng hơn hoặc hạn chế hơn). Tuy nhiên, riêng đối với các quan niệm về mặt đạo đức, cần đặc biệt tránh công nhận các quan điểm đạo đức trái ngược với quan điểm của mình. Đây chính là trường hợp người chồng đơn phương chấm dứt hôn nhân. 4. Vi phạm pháp luật Do có quá nhiều trường hợp lạm dụng để lẩn tránh pháp luật (forum shopping) trong lĩnh vực ly hôn nên cần quy định thêm điều kiện không vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng điều kiện không vi phạm pháp luật thường trùng với các điều kiện đã nêu trên. Bởi vì vi phạm pháp luật thường đi kèm với vi phạm về thẩm quyền của Tòa án thụ lý vụ việc, vi phạm về quyền tự bảo vệ hoặc vi phạm về pháp luật áp dụng (nếu chúng ta vẫn giữ nguyên điều kiện này).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLy hôn có yếu tố nước ngoài.doc