Lý luận chung về kiểm toán tài sản cố định trong kiểm toán Báo cáo tài chính

Sau khi nghiên cứu đầy đủ về khách hàng, KTV đưa ra các mục tiêu kiểm toán TSCĐ (bảng 6)

Với mục tiêu kiểm toán đặc thù đã xác định cùng với việc xem xét các BCTC của ABC, KTV nhận thấy TSCĐ của công ty trong năm tăng 642.217.111 và không có tài sản giảm. Thông qua các tài liệu liên quan, KTV nhận thấy TSCĐ của Công ty tăng do mua sắm máy móc thiết bị là chủ yếu và thuê tài chính. Sự tăng TSCĐ này cho thấy ABC đầu tư nhiều hơn vào máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng công trình cung cấp.Từ đó, KTV đưa ra kết luận ban đầu là không có những sai phạm trọng yếu nên có thể giới hạn việc khảo sát mở rộng.

 

doc75 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1512 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận chung về kiểm toán tài sản cố định trong kiểm toán Báo cáo tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trả, và đối chiếu với các tài khoản chi phí có liên quan. 2.2.5. Kiểm tra các chi phí phát sinh sau ghi nhận ban đầu Mục tiêu chính nhăm xác định các khoản chi phí nào sẽ ghi tăng nguyên giá TSCĐ, hoặc tính vào chi phí của niên độ. KTV tiến hành kiểm tra tính đầy đủ và chính xác của việc ghi nhận chi phí thông qua việc xác định xem các khoản chi phí này có chắc chắn làm tăng lợi ích kinh tế trong tương lai do sử dụng tài sản đó hay không? Nếu phát hiện các chi phí phát sinh không thoả mãn điều kiện này thì phải được ghi nhận là chi phí SXKD trong kỳ. Đối với nguồn chi cho sửa chữa lớn cần xem xét hai trương hợp: Sửa chữa lớn theo kế hoạch và sửa chữa lớn ngoài kế hoạch. Xem xét việc quyết toán chi phí sửa chữa lớn theo chế độ quy định; kiểm tra việc hạch toán chi phí sửa chữa lớn thuần và chi phí sửa chữa lớn nâng cấp TSCĐ. Cuối cùng, có thể lập ra một bảng phân tích chi phí phát sinh hàng tháng rồi đối chiếu với số phát sinh của năm trước. Bất cứ chênh lệch trọng yếu nào giữa số liệu của các tháng trong hai năm đều cần làm rõ. 2.2.6. Kiểm toán chi phí khấu hao Khác với các chi phí khác, chi phí khấu hao là một loại chi phí ước tính. Nghĩa là việc xác định chi phí phải trích hàng năm là một sự ước tính, chứ không phải là chi phí thực tế phát sinh. Mức khấu hao phụ thuộc vào hai nhân tố là nguyên giá và thời gian trích khấu hao. Trong đó nguyên giá là một nhân tố khách quan nên khi tiến hành kiểm toán TSCĐ, kiểm toán viên thường chú trọng đến việc xác định số dư vào cuối kỳ cũng như kiểm tra các tài sản tăng, giảm trong năm để xác định về mức khấu hao. Còn thời gian tính khấu hao lại phụ thuộc vào sự ước tính của đơn vị. Chính vì thế mà mức khấu hao phải trích cũng mang tính chất ước tính. Mục tiêu chủ yếu của kiểm toán khấu hao là xem xét việc đánh giá, phân bổ khấu hao của đơn vị đã hợp lý và theo đúng quy định chưa. Để đáp ứng được mục tiêu này, kiểm toán viên cần xem xét phương pháp tính khấu hao và mức trích khấu hao đã trích để xác định xem: Phương pháp và thời gian tính khấu hao có tuân thủ theo quy định hiện hành không? Thời gian tính khấu hao đã đăng ký có được áp dụng một cách nhất quán hay không? Nếu có thay đổi có theo đúng quy định hay không? Việc tính khấu hao có chính xác không? Chương trình kiểm toán chi phí khấu hao gồm các bước: Kiểm tra lại các chính sách về khấu hao mà đơn vị đang áp dụng Xem xét các phương pháp sử dụng có phù hợp với các quy định hay không? Xét bảng đăng ký trích khấu hao TSCĐ của doanh nghiệp có sự xét duyệt của cấp có thẩm quyền hay không? Thảo luận với các nhân viên có trách nhiệm về sự cần thiết thay đổi thời gian tính khấu hao, mức khấu hao do hao mòn vô hình gây ra. Thu thập hay tự xây dựng một bảng phân tích tổng quát về khấu hao trong đó ghi rõ về số dư đầu kỳ, số trích khấu hao trong năm, số khấu hao tăng, giảm, trong năm và số dư cuối kỳ. So sánh số dư đầu kỳ với số liệu kiểm toán năm trước. So sánh tổng số khấu hao tăng, giảm ở số liệu chi tiết với số tổng ghi trên sổ cái. So sánh tổng số dư cuối kỳ trên các sổ chi tiết với số dư cuối kỳ trên sổ cái. Kiểm tra mức khấu hao So sánh tỷ lệ khấu hao của năm hiện hành với năm trước và điều tra các chênh lệch (nếu có). Tính toán lại mức khấu hao cho một số tài sản và đối chiếu với sổ cái. Chú ý phát hiện các trường hợp tài sản đã khấu hao hết nhưng vẫn còn tiếp tục tính khấu hao. So sánh số phát sinh Có của Tài khoản 214 với chi phí khấu hao ghi trên các tài khoản chi phí. Đồng thời với việc kiểm tra mức trích khấu hao TSCĐ, cần phải kiểm tra tính hợp lý của việc phân bổ khấu hao TSCĐ cho các đối tượng liên quan. Trường hợp doanh nghiệp trích khấu hao theo phương pháp khác (khấu hao theo sản lượng, khấu hao nhanh) cần kiểm tra cách tính khấu hao và sự nhất quán của chính sách khấu hao qua các thời kỳ khác nhau. Trường hợp thời gian sử dụng hay nguyên giá TSCĐ thay đổi, doanh nghiệp cần phải xác định lại mức trích khấu hao trung bình trên cơ sở giá trị còn lại của TSCĐ và thời gian sử dụng còn lại. Đối với TSCĐ thuê tài chính, thời gian sử dụng để trích khấu hao TSCĐ đúng bằng thời gian của hợp đồng thuê tài sản đó. Xem xét lại các văn bản mới nhất có liên quan đến việc điều chỉnh mức khấu hao. Qua đó xem xét lại việc áp dụng tỷ lệ và mức tính khấu hao cho phù hợp. 2.3. Thực hiện thủ tục phân tích Tuỳ theo đặc điểm kinh doanh của khách hàng, KTV có thể sử dụng nhiều loại tỷ suất khác nhau, thông thường là một số loại tỷ suất sau: Tỷ suất của từng loại TSCĐ so với tổng số giữa các năm. Tỷ suất giữa tổng giá trị TSCD vói giá vốn hàng bán của các năm. So sánh giữa chi phí sửa chữa, bảo trì của từng tháng với cùng kỳ năm trước. So sánh giá trị của các tài sản mua trong năm với năm trước. So sánh giá trị của các tài sản giảm trong năm với năm trước. Cần chú ý rằng việc mua sắm và thanh lý tài sản có thể có sự thay đổi rất lớn giữa các năm, tuy nhiên các tỷ suất này vẫn giúp KTV nhận thức về xu hướng thay đổi, và phán xét tính hợp lý chung. Đối với các khoản khấu hao, KTV thực hiện các thủ tục phân tích qua một số tỷ suất sau: Tỷ suất giữa chi phí khấu hao với tổng nguyên giá TSCĐ và so sánh với năm trước. Tỷ suất giữa mức khấu hao với nguyên giá của từng nhóm TSCĐ của năm trước. Thảo luận về các chênh lệch phát sinh với đơn vị để tìm nguyên nhân. Ngoài ra, đối với TSCĐ vô hình do đặc điểm khó nhận định về giá trị nên đòi hỏi phải có biện pháp thích hợp như: Trường hợp ghi tăng cần thu thập các bằng chứng có liên quan như các phiếu chi nhằm xác định rằng đây là tài sản chứ không phải một khoản chi phí. Và cũng cần phải thu thập các bằng chứng về việc ghi giảm TSCĐ vô hình. Đồng thời KTV nên kiểm tra tính hợp lý chung của việc tính khấu hao TSCĐ vô hình xem xét việc tính khấu hao có phù hợp với các quy định hiện hành, có được áp dụng nhất quán hay không? Kết thúc kiểm toán Đây là giai đoạn cuối cùng của một cuộc kiểm toán. Sau khi hoàn thành hai giai đoạn trên, kiểm toán viên tiến hành tổng hợp và công bố Báo cáo kiểm toán. Giai đoạn này được thực hiện theo các bước sau: 3.1. Xem xét các sự kiện sau ngày khoá sổ Các cuộc kiểm toán được tiến hành sau ngày kết thúc niên độ kế toán. Do đó, trong khoảng thời gian từ ngày kết thúc niên độ đến khi hoàn thành BCKT có thể xảy ra các sự kiện có ảnh hưởng đến BCTC, kiểm toán viên có trách nhiệm xem xét lại các sự kiện xảy ra sau ngày lập Bảng cân đối kế toán. Để thu thập và xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày lập BCTC, kiểm toán viên có thể sử dụng các thủ tục sau: Phỏng vấn Ban quản trị. Xem xét lại các báo cáo nội bộ sau ngày lập BCTC. Xem xét lại sổ sách được lập sau ngày lập BCTC. Kiểm tra các biên bản phát hành sau ngày lập BCTC. Kiểm tra lại kết quả của các khoản công nợ ngoài dự kiến được đánh giá là trọng yếu. Xem xét những TSCĐ không sử dụng và được bán sau ngày khoá sổ với giá thấp hơn nguyên giá ghi trên sổ sách. Các khách hàng có số dư công nợ lớn nhưng đến đầu năm sau mới phát hiện được là không có khả năng thanh toán. Kiểm toán viên thường kiểm tra toàn bộ các nghiệpvụ xảy ra tại giao điểm của các kỳ quyết toán. Tiến hành xem xét các biện pháp mà nhà quản lý đơn vị áp dụng nhằm đảm bảo những sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ đều đã được xác định. 3.2. Đánh giá kết quả Giai đoạn kết thúc kiểm toán, điều quan trọng nhất là phải hợp nhất tất cả các kết quả vào một kết luận chung. Cuối cùng, kiểm toán viên phải kết luận liệu bằng chứng kiểm toán đã được tập hợp đủ để đảm bảo cho kết luận là BCTC được trình bày phù hợp với các nguyên tắc kế toán đã được thừa nhận rộng rãi hay chưa. Điều này cũng được thể hiện rõ trong Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 500: “Kiểm toán viên thu thập bằng chứng thông qua việc kiểm tra hệ thống KSNB, kiểm toán viên phải xác định xem các bằng chứng thu thập được có đầy đủ và thích hợp không để đưa ra đánh giá của mình về rủi ro kiểm soát. Kiểm toán viên thu thập bằng chứng thông qua việc kiểm tra chi tiết, quan sát, điều tra, xác nhận, tính toán và các thủ tục phân tích. Nếu kiểm toán viên ở trong trạng thái không trể thu thập bằng chứng đầy đủ và thích hợp, kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần có yếu tố tuỳ thuộc hoặc ý kiến ngoại trừ, ý kiến không thể cho ý kiến hoặc ý kiến không chấp nhận”. Do đó khi đánh giá các bằng chứng kiểm toán, KTV cần chú ý đến các khía cạnh sau: Tính đầy đủ của bằng chứng: Khía cạnh này phản ánh số lượng của bằng chứng kiểm toán. Kiểm toán viên xem xét lại quyết định liệu chương trình kiểm toán có đầy đủ, có xem xét đến các lĩnh vực có vấn đề đã phát hiện trong quá trình kiểm toán hay không. Đánh giá tổng hợp các sai sót phát hiện đựơc: Kiểm toán viên sẽ đưa ra kết luận về việc BCTC có thể hiện các TSCĐ của doanh nghiệp tại thời điểm ghi trong Bảng cân đối một cách trung thực, không dựa trên việc đánh giá tổng hợp các sai sót phát hiện được. Trước hết kiểm toán viên cần đánh giá tổng hợp các sai sót không trọng yếu cần lập các bút toán điều chỉnh và tổng hợp các sai sót dự kiến về TSCĐ rồi so sánh với mức sai sót có thể bỏ qua để xem xem có thể chấp nhận được khoản mục TSCĐ hay không. Sau đó, kiểm toán viên tổng hợp các sai sót của khoản mục TSCĐ để xem chúng có vượt quá mức trọng yếu của BCTC hay không, đồng thời kiểm toán viên phải đảm bảo các giải trình kèm theo được thực hiện cho từng loại TSCĐ như: Phương pháp khấu hao đã áp dụng. Thời gian sử dụng và tỷ lệ khấu hao đã áp dụng. Toàn bộ khấu hao trong năm. Tổng số TSCĐ và số khấu hao luỹ kế tương ứng. Quyền lưu giữ và các giới hạn đối với TSCĐ, nếu có. Trên cơ sở tổng hợp kết luận về tất cả các phần hành kiểm toán, cụ thể, kiểm toán viên lập BCKT trong đó có đưa ra ý kiến của mình về sự trung thực và hợp lý của BCTC của đơn vị được kiểm toán. 3.3. Lập và công bố Báo cáo kiểm toán Trước khi lập và công bố BCKT kiểm toán viên cần đánh giá lại giả định về tính liên tục hoạt động của doanh nghiệp. Trong Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 570 quy định: “Khi lập kế hoạch kiểm toán cũng như khi đánh giá và trình bầy ý kiến nhận xét trong Báo cáo kiểm toán, KTV và công ty kiểm toán phải luôn xem xét sự phù hợp của giả định “hoạt động liên tục” mà doanh nghiệp đã sử dụng để lập và trình bày BCTC”. Tức là trong tương lai gần có thể dự đoán được (ít nhất là một năm kể từ ngày kết thúc niên độ kế toán) khi không có ý định hoặc yêu cầu giải thể, ngừng hoạt động hoặc thu hẹp đáng kể quy mô hoạt động, tìm kiếm sự bảo hộ từ chủ nợ theo pháp luật quy định hiện hành. Sau khi tiến hành xong các bước công việc trên, KTV phải lập và công bố BCKT. Trong BCKT, KTV đưa ra ý kiến về khoản mục TSCĐ đã được kiểm tra. Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700: “Trong ý kiến đánh giá của kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải xác định mức độ phù hợp của BCTC với chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận, cũng xác định sự tuân thủ theo các quy định pháp lý có liên quan khi lập BCTC”. Kiểm toán viên có thể đưa ra các kiến nghị đóng góp mang tính xây dựng nhằm cải tiến công việc kinh doanh của khách hàng qua Thư quản lý. Thư quản lý không mang tính bắt buộc mà nhằm mục đích giúp khách hàng điều hành công việc kinh doanh được hiệu quả hơn. Ngoài ra, Thư quản lý cũng nhằm mục đích cải tiến mối quan hệ giữa công ty kiểm toán với khách hàng. Với khoản mục TSCĐ, ý kiến đóng góp trong Thư quản lý có thể là vấn đề bảo toàn và sử dụng có hiệu quả hơn TSCĐ cho doanh nghiệp, các yếu tố của HTKSNB, các vấn đề không tuân thủ quy định và các quy trình về tính hiệu quả sử dụng TSCĐ. Trước khi BCKT được công bố, công ty kiểm toán phải thông báo cho khách hàng về kết luận của cuộc kiểm toán. Công việc cuối cùng trong một cuộc kiểm toán là công bố BCKT theo đúng điều lệ hợp đồng kiểm toán và tiến hành các thủ tục còn lại để hoàn tất cuộc kiểm toán. Trên đây là các giai đoạn của một cuộc kiểm toán nói chung và kiểm toán TSCĐ nói riêng. Khi thực hiện một cuộc kiểm toán, kiểm toán viên cần tuân theo các bước công việc như đã nêu trên. Tuy nhiên, trên thực tế thì kiểm toán viên có thể không nhất thiết phải tiến hành theo trình tự trên, mà tuỳ thuộc vào từng loại hình khách hàng cũng như kinh nghiệm của KTV để áp dụng một cách linh hoạt các bước kiểm toán đó. Do đó chúng ta cần phải xem xét cách thức tiến hành một cuộc kiểm toán trên thực tế để từ đó so sánh, nhận xét xem có phù hợp với lý luận hay không. Chương II của bài viết này sẽ giới thiệu một cuộc kiểm toán do Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam (VAE) thực hiện đối với TSCĐ. Chương II – Thực trạng kiểm toán khoản mục TSCĐ trong kiểm toán bctc do công ty cổ phần kiểm toán và định giá Việt Nam thực hiện I – Giới thiệu về công ty cổ phần kiểm toán và định giá Việt Nam 1. Lịch sử hình thành của Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam Từ những năm 90 của thế kỷ 20, xu hướng hội nhập nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ và kéo theo đó là yêu cầu đối với việc cung cấp thông tin hữu ích cho các đối tượng quan tâm (gồm nhà nước, các doanh nghiệp, thị trường tài chính kể cả khu vực tư nhân) trở thành quan trọng. Việc cung cấp thông tin chính xác sẽ giúp ổn định thị trường, vì vậy chất lượng thông tin luôn được ưu tiên và đặt lên hàng đầu. Nền kinh tế Việt Nam không nằm ngoài xu hướng đó. Sự ra đời của hai công ty kiểm toán VACO và AASC vào năm 1991 đã mở đường cho ngành kiểm toán Việt Nam phát triển. Đến những năm đầu của thế kỷ 21 hàng loạt các công ty kiểm toán độc lập ra đời góp phần đảm bảo sự minh bạch của các thông tin kế toán, góp phần nâng cao chất lượng thông tin cũng như chất lượng quản lý trong các doanh nghiệp. Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam cũng được thành lập trong sự phù hợp với xu thế phát triển của ngành kiểm toán Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá được thành lập vào ngày 21/12/2001 theo Giấy phép kinh doanh: Số: 0103000692 dưới hình thức công ty cổ phần, tổ chức và hoạt động theo Luật doanh nghiệp - 1999. - Tên Công ty: Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam - Tên giao dịch: Viet nam auditing and evaduation joint stock company - Viết tắt: VAE - Trụ sở chính: Số 54 – Dãy D – Phố Giang Văn Minh – Ba Đình – Hà Nội Đăng ký kinh doanh lần đầu: 21/12/2001 Đăng ký thay đổi lần ba: 19/12/2002 Công ty hiện có hai văn phòng đại diện ở Sơn La và Hà Giang. Đây là công ty kiểm toán đầu tiên đăng ký nhãn hiệu thương hiệu hàng hoá với biểu tượng của Công ty có ba chữ in VAE mỗi chữ có nét chung với ba chữ kia màu xanh đậm, phía trên đầu chữ có ba lá cờ màu đỏ đã đăng ký thương hiệu tại Cục sở hữu công nghiệp theo Giấy phép đăng ký nhãn hiệu hàng hoá: Số: 48705 được cấp theo Quyết định số: 3995/QĐ - ĐK ngày 20/6/2003. Điều này cho thấy Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam được thành lập rất phù hợp với luật pháp Việt Nam cũng như định hướng phát triển của nhà nước Việt Nam trong thời đại ngày nay. 2. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh của Công ty Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam mặc dù mới được thành lập chưa đầy ba năm song quy mô và khách hàng của Công ty không ngừng được mở rộng. Đây là một công ty kiểm toán độc lập chuyên ngành, chuyên cung cấp các dịch vụ trong lĩnh vực kiểm toán, kế toán, định giá tài sản, tư vấn tài chính, thuế, đầu tư, lập báo cáo quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản hoàn thành tại Việt Nam. Thông qua công tác kiểm toán, Công ty giúp khách hàng lập đựơc một quy trình kiểm soát nội bộ hợp lý, trên cơ sở đó VAE thường xuyên cập nhật thông tin giúp khách hàng thực hiện kịp thời chính xác các văn bản pháp quy của nhà nước. Điều này góp phần quan trọng giúp các doanh nghiệp kinh doanh phù hợp với pháp luật quy định. Ngoài những dịch vụ kiểm toán và kế toán ra, Công ty cũng đáp ứng nhu cầu phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam chuyển đổi từ các doanh nghiệp quốc doanh sang các công ty cổ phần để thích ứng với nền kinh tế thị trường đó là dịch vụ định giá tài sản, định giá doanh nghiệp. Đây là một lĩnh vực mới và ít có công ty kiểm toán Việt Nam thực hiện được. Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam cung cấp những loại hình dịch vụ như sau: 1, Dịch vụ kiểm toán và thuế: Kiểm toán độc lập Báo cáo tài chính; Kiểm toán xác nhận báo cáo sản lượng, tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm; Xem xét và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ; Lập hệ thống kế toán và hướng dẫn thực hiện cho các doanh nghiệp; Cung cấp dịch vụ kế toán, tư vấn kế toán cho khách hàng; Hướng dẫn cho khách hàng về kê khai thuế; Lập kế hoạch tài chính. 2, Dịch vụ kiểm toán xây dựng cơ bản: Kiểm toán Báo cáo quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản hoàn thành của công trình, dự án; Kiểm toán xác định giá trị quyết toán công trình; Kiểm toán Báo cáo tài chính hàng năm của các ban quản lý dự án. 3, Dịch vụ kiểm toán dự án: Kiểm toán độc lập; Soát xét Hệ thống kiểm soát nội bộ; Kiểm soát tính tuân thủ của dự án; Hướng dẫn quản lý dự án. 4, Dịch vụ định giá tài sản: Đánh giá tài sản, vốn góp kinh doanh; Đánh giá tài sản, vốn cổ phần hoá doanh nghiệp; Đánh giá tài sản thế chấp, chuyển nhượng, thuê, mua tài sản. 5, Dịch vụ tư vấn kinh doanh: Tư vấn về chính sách kinh tế hiện hành; Tư vấn về việc lựa chọn hình thức kinh doanh; Tư vấn về quản lý sản xuất, lậ kế hoạch chiến lược; Đào tạo và hội thảo; Phân tích kế hoạch kinh doanh 6, Dịch vụ tư vấn đầu tư: Tư vấn tìm hiểu, đánh giá thị trường, định hướng đầu tư; Tư vấn lập tổng dự toán, quyết toán, báo cáo quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản hoàn thành; Tư vấn thẩm định tổng dự toán; Tư vấn lập hồ sơ mời thầu, dự thầu 7, Dịch vụ chuyển đổi báo cáo tài chính theo chuẩn mực kế toán quốc tế: Dịch vụ chuyển đổi Báo cáo tài chính của các doanh ngiệp phục vụ cho mục tiêu hợp nhất kết quả hoạt động kinh doanh với công ty mẹ theo chuẩn mực kế toán quốc tế; Dịch vụ soát xét Báo cáo tài chính đã đựơc chuyển đổi theo thông lệ kế toán quốc tế phục vụ cho mục tiêu hợp nhất kết quả hoạt động với công ty mẹ. Tóm lại, để thực hiện được những dịch vụ trên Công ty cần phải tổ chức được một bộ máy quản lý cũng như cung cấp dịch vụ một cách tốt nhất. 3. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý và kinh doanh của VAE Như đã trình bầy ở trên, Công ty VAE là công ty cổ phần được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, dân chủ, và tôn trọng pháp luật. Công ty được thành lập với mức vốn điều lệ là 1.000.000.000 VND và được chia làm 10.000 cổ phần. Cổ phần được phát hành dưới hình thức cổ phiếu, giá trị một cổ phiếu (mệnh giá cổ phiếu) là 10.000VND. Công ty do 6 cổ đông sáng lập. Chủ tịch hội đồng quản trị của Công ty cũng là người đại diện theo pháp luật của Công ty. Do Công ty là công ty cổ phần nên cơ quan có quyền quyết định cao nhất của Công ty là Đại hội cổ đông, sau đó đến Hội đồng quản trị, rồi đến Ban giám đốc, cùng các trưởng phó phòng, các trưởng chi nhánh và dưới đó có hơn 50 nhân viên. Sau đây là sơ đồ tổ chức bộ máy của Công ty: Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng giám đốc Phó tổng giám đốc XDCB Phó tổng giám đốc Tài chính Phòng Kiểm toán XDCB Phòng Kiểm toán tài chính Phòng bảo vệ Phòng kế toán Phòng tổng hợp Sơ đồ tổ chức bộ máy của công ty năm 2003 Qua sơ đồ tổ chức của Công ty ta thấy Công ty được tổ chức theo mô hình trực tuyến chức năng. Như đã đề cập ở trên, Đại hội cổ đông của Công ty có quyền quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; quyết định mức cổ tức hàng năm của từng loại cổ phần. Đại hội cổ đông của Công ty có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát; xem xét và xử lý các vi phạm của Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát gây thiệt hại cho Công ty và cổ đông của Công ty; Đại hội cổ đông cũng có quyền quyết định tổ chức lại và giải thể Công ty; có quyền quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ Công ty; thông qua Báo cáo tài chính hàng năm, thông qua định hướng phát triển của Công ty. Hội đồng quản trị của Công ty là cơ quan quản lý Công ty, có toàn quyền nhân danh Công ty quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của Công ty. Hội đồng quản trị có quyền quyết định chiến lược phát triển của Công ty, quyết định phương án đầu tư, giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ, bỏ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng giám đốc và cán bộ quản lý trong Công ty và nhiều quyền hạn trong điều lệ của Công ty đã quy định. Ban giám đốc của Công ty gồm Tổng giám đốc điều hành mọi hoạt động kinh doanh và cung cấp dịch vụ của Công ty cùng với sự trợ giúp của hai Phó giám đốc. Ban giám đốc của Công ty là do đi thuê, điều này giúp đảm bảo chất lượng quản lý. Về mặt hoạt động, hiện Công ty có phòng Hành chính và hai phòng nghiệp vụ là phòng Kiểm toán báo cáo tài chính và phòng Kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản hoàn thành. Các phòng luôn có sự hỗ trợ lẫn nhau một cách chặt chẽ về chuyên môn và nhân sự nhằm đạt hiệu quả cao trong công việc. Công ty còn có Hội đồng khoa học (đó là những chuyên gia có kinh nghiệm và kiến thức về các lĩnh vực kiểm toán, tài chính và nhất là định giá) tham gia trợ giúp cho Hội đồng quản trị và Ban giám đốc trong các lĩnh vực chuyên môn khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Để đảm bảo chất lượng của dịch vụ cung cấp, Công ty luôn chú trọng đến chất lượng của đội ngũ kiểm toán viên và luôn đặt mục tiêu tuyển dụng, đào tạo và phát triển nhân viên là mục tiêu chiến lược. Công ty có chế độ thi tuyển nhân viên để đảm bảo chất lượng công việc. Ngoài ra Công ty luôn khuyến khích nhân viên tích cực học tập chuyên môn nghiệp vụ liên quan, ngoại ngữ, vi tính trong và ngoài giờ làm việc tại cơ quan và tại các lớp học ngắn và dài hạn. Theo yêu cầu của công việc đối với các kiểm toán viên thì học tập không ngừng là một đòi hỏi bắt buộc và Công ty cũng có chế độ khuyến khích cho nhân viên, cụ thể: Nhân viên có từ 5 năm công tác ở Công ty trở nên có thể được đi học trong giờ làm việc, kể cả học cao học. Nhân viên muốn đi học phải làm đơn xin Giám đốc xác nhận và được duyệt, sẽ được Công ty cấp kinh phí. Không những thế Công ty cũng thường xuyên cử nhân viên đi học các lớp học tập trung hoặc học để thi chứng chỉ Kiểm toán viên và Công ty trang trải các chi phí liên quan kể cả chi phí thi cử, cấp bằng. Trình độ nhân viên của Công ty khá cao với 1 tiến sỹ, 5 thạc sỹ, 9 Kiểm toán viên cấp quốc gia, 22 kiểm toán viên, 10 kỹ sư xây dựng, 6 kỹ sư kinh tế xây dựng, và 35 cử nhân Tài chính – kế toán. Trong đó có 10 cán bộ có thời gian công tác trên 15 năm kinh nghiệm, 15 cán bộ có thời gian công tác trên 10 năm kinh nghiệm, 8 người trên 5 năm kinh nghiệm, 8 người dưới 5 năm kinh nghiệm. Công ty luôn không ngừng nâng cao chất lượng của nhân viên với phương châm: Mỗi nhân viên đều là người đại diện cho Công ty. Là Công ty chuyên nghiệp nên mỗi nhân viên phải hành động, cư xử một cách chuyên nghiệp vào bất cứ lúc nào. Tư cách đúng đắn và lễ độ là điều cần thiết cho mọi lúc, mọi nơi, nhất là khi tiếp xúc với khách hàng. Tóm lại, bộ máy quản lý và cung cấp dịch vụ của Công ty được tổ chức và chỉnh đốn liên tục cho phù hợp với quá trình phát triển của Công ty để đảm bảo cho chất lượng các dịch vụ cung cấp thống nhất và đạt chất lượng cao do các nhân viên chuyên nghiệp, có kiến thức và kinh nghiệm được phân công thực hiện. 4. Các kết quả đã đạt được Mặc dù mới được thành lập chưa đầy ba năm nhưng Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam đã khẳng định được vị thế của mình trong ngành kiểm toán. Ngay từ năm đầu tiên Công ty đã kinh doanh có lãi, lợi nhuận trước thuế của Công ty vào 9 tháng đầu năm 2003 là 840.694.330 > 639.156.123 lợi nhuận trước thuế của năm 2002. Chỉ tiêu LN/DT của Công ty năm sau cao hơn năm trước (năm 2002 là 0.032 tức 3,2%; sang năm 2003 là 0.494 tức 49,4%). Điều này cho thấy Công ty kinh doanh hợp lý và có hiệu quả. Về tài sản của Công ty ta nhận thấy TSLĐ chiếm tỷ trọng lớn hơn TSCĐ trong Tổng tài sản (TSLĐ chiếm 81% vào 31/12/ 2002 và 80.75% vào 30/9/2003) đó là một sự hợp lý đối với một công ty chuyên cung cấp các dịch vụ. Quy mô Tài sản của Công ty không ngừng tăng lên, điều này cho thấy Công ty đang phát triển đi lên. Công nợ của Công ty chiếm dưới 30% Tổng nguồn vốn, điều đó cho thấy Công ty có tình hình tài chính tốt. Khả năng thanh toán tức thời của Công ty là 0.89 vào năm 2002, năm 2003 là 0.887. Điều đó cho thấy Công ty rất độc lập về tài chính trong quá trình hoạt động, điều này giúp cho một công ty kiểm toán giữ được tính độc lập của mình. Điều này càng được thể hiện thông qua sự tăng lên không ngừng các hợp đồng kiểm toán. Vào năm 2002, mặc dù mới thành lập song tổng số hợp đồng của Công ty đạt được là150 hợp đồng. Đến năm 2003 tổng số hợp đồng mà Công ty đã nhận được khoảng 300 hợp đồng. Với những Công ty kiểm toán lớn như VACO và AASC có thể con số này chưa lớn nhưng với VAE thì điều này cho thấy uy tín của Công ty càng ngày càng được biết đến. Trong số những hợp đồng kiểm toán VAE đã có những khách hàng quen thuộc sử dụng các dịch vụ của Công ty như: Các doanh nghiệp nhà nước: - Các đơn vị thành viên của Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam; - Các đơn vị thành viên của Tổng công ty Than Việt Nam; - Các đơn vị thành viên của Tổng côngty Dệt may Việt Nam; - Các đơn vị thành viên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3086.doc
Tài liệu liên quan