LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 3
Chương1 :Tại sao lại tiến hành công nghiệp hoá ,hiện đại hoá ở nước ta 3
1.1) Khái niệm công nghiệp hoá,hiện đại hoá : 3
1.2) Một số đặc điểm cơ bản của nền nông nghiệp ở nước ta 3
1.3) Vai trò của nông nghiệp ,nông thôn ở nước ta 5
1.3.1. Cung cấp lương thực thực phẩm cho xã hội 5
1.3.2. Cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp nhẹ 5
1.3.3. Cung cấp một phần vốn để công nhiệp hoá 5
1.3.4. Nông nghiệp nông thôn là thi trường quan trọng của các nghành công nghiệp dịch vụ 5
1.3.5. Phát triển nông nghiệp nông thôn là cơ sở ổn định kinh tế xã hội 6
Chương2: Nội dung của công nhiệp hoá hiện đaị hoá nước ta 7
2.1) Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế ở nông thôn theo hướng công nghiệp hoá ,hiện đaị hoá 7
2.3) Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức 9
2.4) Phát triển du lịch với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn 11
Chương 3: Những thành tựu đã đạt được 12
Chương 4: Vấn đề tồn tại và phương hướng giải quyết 16
4.1) Một số vấn đề tồn tại 16
4.2) Phương hướng giải quyết 17
4.3) Những vấn đề đang đặt ra đối với nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp và thủy lợi) nước ta là: 20
4.4) Người nông dân mong muốn gì? 21
KẾT LUẬN 22
Các tài liêu tham khảo 23
25 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1624 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mà đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa nguồn nguyên lệu là nhân tố quan trọng quyết định quy mô và tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp hiện nay
1.3.3. Cung cấp một phần vốn để công nhiệp hoá
Để công nghiệp hoá hiện đại hoá thành công đất nước càn phải giải quyết rất nhiều vấn đề và cần phải có vốn ,là nước nông nghiệp thông qua việc xuất khẩu nông phẩm , để có thể góp vốn vào giải quyết các nhu cầu vốn cho kinh tế
1.3.4. Nông nghiệp nông thôn là thi trường quan trọng của các nghành công nghiệp dịch vụ
Nông nghiệp nông thôn phát triển thì nhu cầu hàng hoá ,tư liệu sản xuất như:thiết bị nông nghiệp , điện năng phân bón ,thuốc trừ sâu ….càng tăng , đồng thời nhu cầu về dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp như vốn ,thông tin giao thông vận tải ,thương mại …cũng tăng ,mặt khác sự phát triển cảu nông nghiệp,nông thôn làm cho mức sống của người dân được nâng cao do đó nhu cầu v4ề sử dụng các mặt hàng như:ti vi ,tủ lạnh ,xe máy...và cá nhu cầu về văn hoá ,giáo dục ,y tế ,du lịch…cũng tăng ,sự phát triển này là điều kiện thuận lợi cho công nghiệp dịch vụ phát triển
1.3.5. Phát triển nông nghiệp nông thôn là cơ sở ổn định kinh tế xã hội
Nông thôn là khu vợc kinh tế rộng lớn tập trung nhiều dân cư của đất nước ,phát triển kinh tế nông thôn một phần đảm bảo nhu cầu cho xã hội:nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ ,là thị trường công nghiệi dịch vụ ..do đó phát triển kinh tế nông thôn là là cơ sở ổn định ,phát triển nền kinh tế quốc dân,do đó nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nông thôn ,do đó là cơ sở ổn định kinh tế chính trị xã hội ,phát triển nông thôn còn góp phần củng cố liên minh công nông ,tăng cường sức mạng của chính quyền vôn sản
Chương2: Nội dung của công nhiệp hoá hiện đaị hoá nước ta
Phát triển nông nghiệp nông thôn là một chủ trương lớn của nước ta hiện nay .Văn kiện Đại hội Đảng X của Đảng nhấn mạnh” Đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ,giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp ,nông thôn và nông dân”
Một số nội dung chủ yếu cần tập trung sức chỉ đạo, thực hiện có hiệu quả là:
2.1) Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế ở nông thôn theo hướng công nghiệp hoá ,hiện đaị hoá
-Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao; phát triển mạnh chăn nuôi với tốc độ và chất lượng cao hơn; xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với việc chuyển giao công nghệ sản xuất,khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, tự phát. Tiếp tục rà soát, bổ sung, điều chỉnh lại quy hoạch sản xuất nông nghiệp: phát huy lợi thế tự nhiên của từng vùng, từng loại cây trồng, con gia súc, tăng tỷ trọng chăn nuôi và dịch vụ; hình thành vùng sản xuất hàng hóa gắn với thị trường và công nghiệp chế biến, bảo đảm hiệu quả bền vững và an ninh lương thực quốc gia…
- Tiếp tục phát triển và mở rộng thị trường, coi trọng và phát triển thị trường trong nước, tổ chức tốt việc tiêu thụ nông, lâm sản, thủy sản cho nông dân.
- Ðưa nhanh khoa học công nghệ vào sản xuất, nhất là việc nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng giống cây trồng, giống vật nuôi, kỹ thuật canh tác và môi trường, công nghệ sau thu hoạch; ứng dụng mạnh công nghệ sinh học và xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao; nâng cao khả năng phòng ngừa và khắc phục dịch bệnh đối với cây trồng, vật nuôi…Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến nông, lâm thủy sản…
- Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước, đa dạng hóa các nguồn vốn ,đầu tư phát triển mạnh hơn cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn. Ưu tiên nâng cấp và xây dựng mới các hệ thống thủy lợi, đi đôi với đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý. Củng cố hệ thống hồ đập, nâng cấp các hệ thống cảnh báo, chủ động phòng chống lụt bão và giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường nước, bảo đảm các xã đều có đường ô-tô tới khu trung tâm, từng bước phát triển đường ô-tô tới thôn bản; bảo đảm hơn 90% số dân cư nông thôn có điện sinh hoạt; hơn 75% số dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch.
- Rà soát bổ sung, điều chỉnh chính sách về đất đai, thuế, tín dụng, đầu tư... nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện việc hình thành các khu và cụm công nghiệp, cụm làng nghề ở nông thôn để thu hút các cơ sở sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ sử dụng nhiều lao động và nguồn nguyên liệu từ nông, lâm thủy sản…
- Tập trung giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho nông dân và cho lao động nông thôn, đặc biệt giải quyết việc làm và thu nhập cho nông dân có đất bị thu hồi để sử dụng vào mục đích phát triển khu công nghiệp, khu đô thị, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm.Có chính sách trợ giúp để đẩy mạnh đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn, đáp ứng cho yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và tìm việc làm ngoài khu vực nông thôn, kể cả đi lao động ở nước ngoài.
-Tiếp tục đầu tư nhiều hơn cho chương trình xóa đói giảm nghèo, trợ giúp thiết thực cho các vùng và cộng đồng dân cư còn nhiều khó khăn, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển hệ thống khuyến nông, nâng cao dân trí và có chính sách tín dụng cho người nghèo
_ Thực hiện tốt hơn chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng; thực hiện ngày càng có nền nếp và chất lượng về quy chế dân chủ ở nông thôn; đẩy mạnh phong trào xây dựng làng xã văn hóa, giữ gìn và phát triển truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta….
2.3) Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức
Sau 20 năm đổi mới thế và lực của đất nước ta đã mạnh hơn nhiều, tuy "từng bước phát triển" nhưng một số thành phần của kinh tế tri thức như công nghệ thông tin, in-tơ-nét, điện thoại di động... trong giai đoạn 2001 - 2005 đã phát triển khá nhanh. Nhiều nước phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, Phần Lan, Ấn Độ... biết kết hợp phát triển kinh tế tri thức đều đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. Do đó, tranh thủ thời cơ mà bối cảnh quốc tế tạo ra, kết hợp nội lực với các thuận lợi bước đầu về phát triển kinh tế tri thức, Đảng ta đã đề ra đường lối: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức".Do đ ó phát triển kinh tế tri thức là một xu thế tất yếu: Lao động sản xuất bao giờ cũng phải dựa vào tri thức, khoảng giữa thế kỷ XX, kinh tế công nghiệp cổ điển hết tiềm năng phát triển và bắt đầu suy thoái, vì tài nguyên trở nên cạn kiệt, ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng, chiến tranh hủy diệt đe dọa thường xuyên... Trong bối cảnh đó cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại xuất hiện và phát triển bùng nổ, dựa trên những khối tri thức khổng lồ. Lực lượng sản xuất mới được hình thành dựa trên nguồn lực chủ yếu là tri thức, tạo nên hệ thống công nghệ cao với máy móc thông minh mà điển hình là máy tính điện tử (máy điện toán) mô phỏng não người
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới này đã dẫn tới một hình thái kinh tế mới .Đó là một nền kinh tế trong đó việc sáng tạo tri thức, sự lan truyền và quảng bá nhanh tri thức đưa vào ứng dụng là động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế, tạo rNhà kinh tế học P.F.Durker gọi đó là nền kinh tế tri thức và tên gọi này hiện nay đã trở thành phổ biến với việc sử dụng chính thức của Ngân hàng thế giới. Trong nền kinh tế mới, kinh tế tri thức sản xuất chủ yếu dựa vào nguồn lực tri thứ, tạo ra việc làm,của cải
Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, khoảng từ giữa thế kỷ XX, dựa trên những tri thức sáng tạo, đi sâu vào thế giới vĩ mô và thế giới vi mô, dẫn tới sự phát minh ra các máy móc, thuộc loại hoàn toàn mới, gọi là máy móc thông minh điển hình là máy điện toán,
. Máy móc thông minh kết hợp với tri thức sáng tạo trở thành nguồn lực của các công nghệ cao như: công nghệ thông tin hoặc công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến - nano..., trong đó công nghệ thông tin và truyền thông giữ vai trò dẫn đầu. Hệ thống công nghệ cao là cốt lõi của lực lượng sản xuất mới
Theo kinh nghiệm của nhiều nước, phát triển kinh tế tri thức phải tập trung nguồn lực vào bốn hướng
Thứ nhất, Nhà nước phải xây dựng thể chế xã hội và chính sách kinh tế năng động, rộng mở, khuyến khích sáng tạo và ứng dụng có hiệu quả những tri thức mới. Thúc đẩy kinh doanh, tác động cho nở rộ doanh nghiệp mới làm ăn phát đạt. Phải tạo dựng một nền hành chính có hiệu quả, tránh phiền hà, tham nhũng. Giảm mạnh các chi phí hành chính, góp phần tăng sức cạnh tranh.
Thứ hai, đào tạo nguồn nhân lực tài năng sáng tạo, biết phối hợp và chia sẻ ứng dụng những thông tin, tri thức thành sản phẩm có sức cạnh tranh cao.
Thứ ba, xây dựng một hệ thống đổi mới hiệu quả bao gồm: các doanh nghiệp, các trung tâm nghiên cứu, các trường đại học, các tổ chức tư vấn và các tổ chức khác liên kết, trao đổi thông tin, tri thức với nhau theo những mục tiêu đã xác định
Thứ tư, tích cực xây dựng kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển ngành công nghệ cao dẫn đầu này. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh giá, phổ biến và sáng tạo tri thức.
Bảng dưới đây trình bày một số chỉ số công nghệ thông tin và truyền thông trong một số năm qua
Bảng các chỉ số công nghệ thông tin và truyền thông (ICT)
Năm
Các chỉ số ICT
2001
2003
2005
2007
(dự kiến)
Tháng 5 năm 2007
Số vi tính/1000 dân
8.9
9.85
>11
...
...
Số điện thoại/100 dân
4.18
9.19
19
43
42
Trong đó số đthdđ/100 dân
0.99
2.34
9.5
32
30
Số TV/100 dân
180
185
190
>200
...
Tỷ lệ số người sử dụng In-ter-net ...
...
4.3
12.9
22.0
18.96
2.4) Phát triển du lịch với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
Nhằm gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn với phát triển du lịch bền vững, cần tập trung phát triển du lịch ở khu vực nông thôn bằng các biện pháp sau:
Một là, bằng nhiều hình thức, cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho lĩnh vực du lịch ở các vùng nông thôn có nhiều tiềm năng du lịch theo hướng khai thác các nguồn vốn trong nước, ngoài nước, đặc biệt là vốn trong dân. Từ đó tạo ra những sản phẩm du lịch đặc thù mang đậm bản sắc nông thôn Việt Nam (như du lịch đồng quê, du lịch làng nghề, du lịch sinh thái, văn hóa và sông nước).
Hai là, phục hồi và phát triển các nghề truyền thống của làng quê Việt Nam, tạo ra những sản phẩm phục vụ khách du lịch. đẩy mạnh xuất khẩu tại chỗ và xuất khẩu ra nước ngoài, mà còn kết hợp để mở rộng phát triển dịch vụ du lịch, tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho đời sống nông dân,
Ba là ,đẩy mạnh xuất khẩu tại chỗ và xuất khẩu ra nước ngoài, mà còn kết hợp để mở rộng phát triển dịch vụ du lịch, tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho đời sống nông dân
Bốn là, nâng cao ý thức của nhân dân ở các vùng nông thôn trong việc bảo vệ môi trường sinh thái, làm đẹp quê hương, bản làng, giữ gìn nếp văn hóa làng quê Việt Nam để tạo ra những sản phẩm du lịch văn hóa làng quê, văn hóa lễ hội nông thôn Việt Nam
Năm là, gắn quy hoạch vùng du lịch với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung nhằm bảo đảm phát triển du lịch và kinh tế bền vững.
Sáu là, cần có các đề án thiết thực về đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch, sao cho để mỗi vùng quê, mỗi bản làng có đủ năng lực phát triển du lịch
Bảy là, mở rộng mối liên kết giữa các hãng du lịch trong nước và quốc tế với các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực du lịch ở các vùng nông thôn để tăng lượt khách du lịch, nhận sự hỗ trợ về công nghệ, vốn đầu tư thêm cho phát triển du lịch.
Tám là, tuyên truyền và cung cấp thông tin bằng nhiều phương thức thích hợp để nâng cao dân trí vùng nông thôn, từ đó hòa chung với sự phát triển, văn minh của các vùng đô thị, chủ động ngăn ngừa những luồng văn hóa xấu, phá hoại của các thế lực thù địch
Chương 3: Những thành tựu đã đạt được
Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã có bước chuyển dịch tích cực theo hướng đẩy mạnh sản xuất các loại nông sản hàng hóa có nhu cầu thị trường và có giá trị kinh tế cao. Tiếp tục bảo đảm tốt an ninh lương thực quốc gia, tuy diện tích trồng lúa giảm (khoảng hơn 300 nghìn ha), để chuyển sang nuôi trồng thủy sản và các cây trồng khác có giá trị cao hơn, nhưng sản lượng lương thực vẫn tăng từ 34,5 triệu tấn (năm 2000) lên 39,12 triệu tấn (năm 2004), trong đó, sản lượng lúa tăng từ 32,5 lên 35,8 triệu tấn, bình quân mỗi năm lương thực tăng hơn một triệu tấn. Hàng năm vẫn xuất khẩu khoảng 3,5-4 triệu tấn gạo.
Diện tích, sản lượng cây công nghiệp tăng nhanh so với năm 2000, cao-su diện tích tăng 9,5%, sản lượng tăng 37,6%; hồ tiêu diện tích tăng 83,2%, sản lượng tăng 87,8%; hạt điều diện tích tăng 44,3%, sản lượng tăng 205,3%; chè diện tích tăng 35,3%, sản lượng tăng 54,9%; diện tích cây ăn quả tăng 1,4 lần; bông vải diện tích tăng 42,5%, sản lượng tăng 57,4%; đậu tương diện tích tăng 47,1%, sản lượng tăng 62,2%. Các loại cây công nghiệp có lợi thế xuất khẩu hầu hết đều tăng về diện tích, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu.
Chăn nuôi tăng bình quân 10%/năm; tỷ trọng giá trị chăn nuôi trong nông nghiệp tăng từ 19,3% lên 21,6%. Ðàn bò, nhất là bò sữa tăng nhanh, đạt 95 nghìn con, sản lượng sữa tươi tăng gấp 3 lần. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng 2,0 lần, sản lượ chế biến nông, lâm, thủy sản và ngành nghề nông thôn: Giá trị sản xuất công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản tăng trưởng bình quân 12-14%/năm. Sản xuất tiểu, thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn tăng bình quân 15%/năm. Hiện cả nước có 2.971 làng nghề, khoảng 1,35 triệu cơ sở ngành nghề nông thôn, với khoảng 1,4 triệu hộ, thu hút hơn 10 triệu lao động (trong đó có khoảng 1,5 triệu người làm hàng mỹ nghệ).s ản l ư ợng khai th ác t ăng 1,2 lần
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng trưởng liên tục và đạt mức cao (5,4%/năm, chỉ tiêu Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ IX đề ra là 4,8%/năm). Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2004 đạt gần 7 tỷ USD, tăng 1,5 lần so với năm 2000, trong đó nông, lâm sản tăng gần 1,5 lần, thủy sản tăng 1,6 lần. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu đạt sản lượng và giá trị lớn như: gạo, cà-phê, cao-su, hạt điều. Ðặc biệt, xuất khẩu đồ gỗ gia dụng và lâm sản tăng mạnh, đạt hơn 1,2 tỷ USD, tăng gấp 3,3 lần so với năm 2000.
Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Năm 2004 trong tổng GDP của cả nước, tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thủy sản đã giảm từ 24,53% xuống 21,76%; lao động nông nghiệp giảm từ 59,04% xuống 57,9%, lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chiếm khoảng 17%, dịch vụ chiếm 25,1%. Năm 2003, hộ thuần nông đã giảm còn 68,8%, hộ kiêm nghề tăng lên, chiếm 12,7% và phi nông nghiệp 18,4%. Nguồn thu của hộ nông dân từ nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 77,5%; công nghiệp, xây dựng và dịch vụ nông thôn đã dần tăng lên, chiếm 22,5% tổng thu.
Trình độ khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản từng bước được nâng cao theo hướng sử dụng giống mới, công nghệ sinh học, phương thức canh tác tiên tiến.Ðến nay, có hơn 90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô, 60% diện tích mía, 100% diện tích điều trồng mới... được sử dụng giống mới. Ngành thủy sản đã sản xuất và đưa vào sản xuất một số loài thủy sản có giá trị kinh tế cao. Nhiều khâu trong sản xuất nông nghiệp được cơ giới hóa như: tưới nước, tuốt lúa, xay xát đạt hơn 80%, vận chuyển làm đất đạt hơn 60%. Trong ngành thủy sản, tổng công suất tàu thuyền đánh bắt đạt hơn 4 triệu sức ngựa, một số cơ sở nuôi trồng thủy sản được trang bị các máy móc, thiết bị bảo đảm cho công nghệ nuôi trồng tiên tiến.
Cả nước hiện có 72 nghìn trang trại, tăng bình quân 10%/năm, kinh tế trang trại đã góp phần đáng kể vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Thành lập mới được 524 hợp tác xã nông nghiệp, chủ yếu hoạt động theo hướng dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm, hiện có hơn 10 nghìn hợp tác xã ở nông thôn (9.255 HTX nông nghiệp, hơn 500 HTX thủy sản, 800 quỹ tín dụng nhân dân...) và hàng trăm nghìn tổ kinh tế hợp tác, so với năm 2000, số hợp tác xã hoạt động có lãi tăng từ 32% lên 35%, số HTX yếu kém giảm từ 22% xuống còn khoảng 10%.
Doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh, năm 2004 có 15.600 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động trên địa bàn nông thôn, bình quân một doanh nghiệp thu hút khoảng 20 lao động, đang là nhân tố quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn.
Nhiều công trình thủy lợi đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất, thâm canh, tăng năng suất cây trồng đã bảo đảm tưới cho 90% diện tích lúa, hàng vạn ha hoa màu, cây công nghiệp và cây ăn quả; hệ thống đê điều được củng cố. Ðến nay đã có 98% số xã có đường ô-tô tới khu trung tâm, hơn 90% số xã có điện, gần 88% số hộ dân nông thôn được sử dụng điện. Số thuê bao điện thoại ở khu vực nông thôn tăng nhanh, đạt 4 máy/100 người dân (cả nước là 12,56 máy/100 người dân); 58% số dân nông thôn được sử dụng nước sạch; xây mới 501 chợ, góp phần giảm bớt khó khăn về tiêu thụ nông sản cho nông dân.
Công tác xóa đói, giảm nghèo: Bình quân mỗi năm giảm 3% còn 11% năm 2004. Ðiều kiện về nhà ở, đi lại, học tập, chữa bệnh được cải thiện tốt hơn. Nhiều làng xã đã trở thành làng văn hóa, có kinh tế phát triển, bảo đảm môi trường sinh thái, văn hóa truyền thống mang đậm đà bản sắc dân tộc được phục hồi và phát triển, trình độ dân trí được nâng lên. Trong giai đoạn 2001-2005, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng liên tục và đạt mức 5,4%/năm (chỉ tiêu Đại hội đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra là 4,8%/năm). Năm 2006, chuyển dịch cơ cấu trong nông thôn có nhiều tiến bộ…góp phần làm tổng sản phẩm trong nước khu vực nông, lâm nghiệp tăng 2,77%..
Ví dụ điển hình
Công nghiệp hoá hiện đại nông nghiệp và nông thôn tỉnh thừa thiên huế Nông thôn Thừa Thiên Huế chiếm hơn 3/4 diện tích và hơn 70% dân số toàn tỉnh, Thừa Thiên Huế bước đầu phát triển toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa. Cụ thể là: Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng bình quân hàng năm từ 4 - 4,5%; Sản lượng lương thực đạt trên 24 vạn tấn/năm, tỷ lệ giống lúa cấp 1 đạt trên 80% diện tích gieo cấy lúa; Tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi đạt 29% trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp; Tỷ lệ cơ giới hóa trong nông nghiệp đạt trên 80%; Diện tích được chủ động tưới tiêu đạt trên 60%, kiên cố hóa kênh mương đạt 82,9; 75% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch; Độ che phủ rừng đạt 48,7%; Cơ cấu ngành nông nghiệp từ 44,2% (1990) giảm xuống còn 21,8% (2005). Nhiều cơ sở chế biến nông lâm sản đã hình thành như nhà máy chế biến gỗ dăm, nhà máy chế biến cao su, nhà máy chế biến tinh bột sắn,… góp phần tiêu thụ và nâng cao hiệu quả của sản phẩm nông lâm nghiệp.
. Đến nay, trên 100% số xã trong toàn tỉnh đã có mạng lưới điện quốc gia, trên 75% số xã có một nửa dân số được dùng nước sạch, hầu hết các xã đều có đường ô tô đến xã và đến thôn, hệ thống kênh mương thủy lợi đang được kiên cố hóa
Chương 4: Vấn đề tồn tại và phương hướng giải quyết
4.1) Một số vấn đề tồn tại
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn ở nhiều nơi chuyển dịch chậm, chăn nuôi, công nghiệp, ngành nghề dịch vụ nông thôn phát triển còn chậm và chưa tương xứng với tiềm năng… Cơ cấu lao động nông thôn chuyển dịch chậm, cơ bản vẫn là thuần nông (năm 2004 lao động nông nghiệp: 58,7%, năm 2001 là: 63,5%).
Năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của một số nông sản phẩm còn thấp. Việc nghiên cứu và chuyển giao khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp còn chậm…
Việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp và phát triển các thành phần kinh tế còn chậm. Hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước còn thấp, quy mô nhỏ bé, chủ yếu là dịch vụ (chỉ có 5% liên quan đến sản xuất) và chỉ phát triển mạnh ở ven đô thị,
GS Lân Dũng chia sẻ quan điểm của mình:” Phải dùng đòn bẩy công nghệ cao”
Nông dân hiện đang làm chủ 70 triệu thửa ruộng nhỏ bé,. Muốn đưa họ vào công nghiệp, dịch vụ, muốn đô thị hóa, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi thì phải thay đổi hình thức sản xuất. Ông đã nói: Đứng trước một cánh đồng cà chua ở Mỹ, tôi đã rất lạ lẫm bởi không trông thấy một bóng người nào, cũng không thấy cả đất, vì họ dùng ni-lon phủ kín mặt đất để giữ nước. Hệ thống tưới tiêu được đầu tư rất lớn nhằm tiết kiệm nước tối đa, thông qua những chiếc ống nhựa, nước được nhỏ từng giọt vào từng gốc cà chua. Cây mọc lên đến đâu, họ phủ ni-lon (loại ni-lon lọc ánh sáng, chỉ để lại các bức xạ có lợi cho cây) đến đấy nên không có sâu bọ, nấm bệnh. Trong khi đó ở VN vẫn tát nước ào ào ,vẫn là cảnh con trâu đi trước cái cày theo
4.2) Phương hướng giải quyết
Trong những năm tới, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ tiếp tục làm biến đổi mạnh mẽ thể chế kinh tế, xã hội, lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp, các vùng miền trên cả nước; đồng thời kéo theo sự biến đổi sâu sắc về quan niệm và tư tưởng trong các tầng lớp dân cư nông thôn. Sự biến đổi này, một mặt, đem lại sức sống mạnh mẽ cho phát triển kinh tế - xã hội nông thôn; mặt khác, sẽ tiếp tục có những tác động tiêu cực đối với nông thôn như đã phân tích trên đây. Để khắc phục có hiệu quả những hạn chế, bất cập đó, cần thực hiện đồng bộ, hiệu quả một số giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai và việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư và tạo việc làm cho nông dân khi. Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để sử dụng cho quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện đã và đang bộc lộ một số hạn chế bất cập, cần được bổ sung, hoàn thiện. Những vấn đề: thuế sử dụng đất và thuế thu nhập cá nhân từ chuyển quyền sử dụng đất; trình tự, thủ tục ,nhất là giá đền bù tối thiểu đối với đất nông nghiệp, chính sách tái định cư, giải quyết việc làm, việc giải quyết tranh chấp, khiếu kiện về đất đai; sự thống nhất trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đai. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện và kiên quyết xử lý nghiêm túc, triệt để những tổ chức, cá nhân có hành vi tiêu cực, tham nhũng, vi phạm luật đất đai nhằm tăng cường giáo dục đồng thời củng cố lòng tin trong nhân dân vào pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Hai là, các Bộ, ngành chức năng cần đẩy mạnh công tác quy hoạch, quản lý các khu công nghiệp trên phạm vi cả nước nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả quỹ đất cũng như lực lượng lao động; hạn chế thấp nhất việc sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng khu công nghiệp. Gắn quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp với phát triển các ngành nghề, đặc biệt là phát triển các ngành nghề truyền thống để tạo thêm nhiều việc làm cho lực lượng lao động ở nông thôn
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cần tăng cường chỉ đạo công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp sau khi đã được duyệt dự án và cấp đất nhằm đảm bảo thực hiện đúng tiến độ, dự án đã được duyệt; kiên quyết thu hồi đối với những trường hợp sử dụng đất sai mục đích, như cho thuê lại, chuyển nhượng, đầu cơ đất, buôn bán đất hoặc để hoang hoá gây lãng phí.
Ba là, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và kinh tế nông thôn, gắn phát triển kinh tế với giải quyết việc làm, ổn định đời sống người. Trước hết, tập trung tổ chức lại và chuyển nền sản xuất nhỏ ,lao động thủ công, kỹ thuật lạc hậu sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá có quy mô hợp lý và dựa trên cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện đại, nhằm nâng cao hiệu quả, năng suất, cải thiện đời sống của nông dân. Muốn vậy, Chính phủ cần đầu tư cho phát triển nguồn lực khoa học - công nghệ nhằm tìm ra giải pháp cải tạo, bồi dưỡng độ phì nhiêu của đất đai
Bốn là, hoàn thiện cơ chế, chính sách, luật pháp về bảo vệ môi trường ở các khu công nghệ,sự ra đời Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 (sửa đổi) có hiệu lực vào 1/7/2006, cùng với một số văn bản hướng dẫn thi hành đã bước đầu phát huy tác dụng tích cực .Mục tiêu đến năm 2010, tất cả các khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung, Nhà nước cần đẩy mạnh hơn việc xây dựng và ban hành các quy định ,tăng cường công tác kiểm tra, kịp thời phát hiện và kiên quyết xử lý nghiêm các doanh nghiệp không thực hiện đúng các cam kết về bảo vệ môi trường
Năm là, chú trọng nghiên cứu và vận dụng sáng tạo bài học kinh nghiệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của các nước, các vùng lãnh thổ trong khu vực và trên thế giới vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Chẳng hạn, nhờ áp dụng phương thức phù hợp và có hiệu quả Nhật Bản với phương châm “nông nghiệp phát triển tạo đà công nghiệp hoá” đã gắn kết hài hoà giữa nông nghiệp, nông thôn với công nghiệp và đô thị trong quá trình công nghiệp hoá. Hàn Quốc với phương châm “công nghiệp đi trước, nông nghiệp theo sau” đã chuyển từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề sang nền kinh tế công nghiệp chỉ trong vòng 20 năm. Đài Loan và Trung Quốc cũng đã đúc kết được những bài học trong tiến trình công nghiệp hoá nói chung và phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng, v.v.
4.3) Những vấn đề đang đặt ra đối với nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp và thủy lợi) nước ta là:
Đất đai ít, ngành nghề và dịch vụ kém phát triển, lao động dư thừa và hàng năm tiếp tục tăng thêm. Hiện nay bình quân mỗi hộ có 0,68 ha, 01 lao động nông nghiệp có 0,27 ha nhưng vẫn tiếp tục giảm và rất manh mún. Gần
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37252.doc