MỤC LỤC
MỤC LỤC 5
BẢNG LIỆT KÊ CÁC HÌNH VẼ 8
CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH 9
Chương 1: Tổng quan về mạng viễn thông 13
1.1 Mạng viễn thông hiện tại 13
1.1.1 Khái niệm về mạng viễn thông 14
1.1.2 Các đặc điểm mạng viễn thông hiện nay 16
1.1.3 Các mạng viễn thông hiện nay 17
1.2 Sự hội hội tụ của hai loại công nghệ kết nối 19
1.2.1 Kết nối định hướng (CO: connection Oriented) 19
1.2.2 Kết nối không định hướng (CL: connectionless) 19
1.2.3 Xu hướng hội tụ CO và CL và sự ra đời chuyển mạch mới
cho NGN 19
1.3 Nhu cầu mới về khai thác dịch vụ mạng viễn thông 20
1.3.1 Độ linh hoạt 20
1.3.2 Độ tương tác 20
1.3.3 Yêu cầu phát triển dịch vụ mới 21
1.3.4 Yêu cầu về phát triển mạng .21
Chương 2: Mạng viễn thông thế hệ sau NGN 24
2.1 Định nghĩa 24
2.2 Đặc điểm của NGN 25
2.3 Những vấn đề cần quan tâm khi phát triển NGN 28
Chương 3: Kiến trúc mạng NGN và công nghệ chuyển mạch
mềm softswitch 29
3.1 Các khái niệm chuyển mạch mềm 29
3.2 Định nghĩa chuyển mạch mếm 31
3.3 Mô hình tham chiếu chuyển mạch mềm 32
3.3.1 Các mặt phẳng chức năng 32
3.3.1.1 Mặt phẳng truyền tải 33
3.3.1.2 Mặt phẳng báo hiệu và điều khiển cuộc gọi 34
3.3.1.3 Mặt phẳng ứng dụng và dịch vụ 35
3.3.1.4 Mặt phẳng quản lý và bảo dưỡng mạng 35
3.3.2 Các thực thể chức năng 35
3.3.2.1 Chức năng điều khiển cổng phương tiện (MGC-F) 36
3.3.2.2 Chức năng định tuyến cuộc gọi và tính cước (R-F, A-F) 38
3.3.2.3 Chức năng cổng báo hiệu và báo hiệu truy cập
(SG-F/AGS-F) 38
3.3.2.4 Chức năng máy chủ ứng dụng (AS-F) 39
3.3.2.5 Chức năng cổng phương tiện (MG-F) 40
3.3.2.6 Chức năng máy chủ phương tiện 41
3.4 Kiến trúc của hệ thống chuyển mạch mềm 42
3.5 Các ưu điểm của chuyển mạch mềm 44
3.5.1 Quan điểm của các nhà quản trị mạng 44
3.5.2 Quan điểm của khách hàng .45
Chương 4: Các giao thức cơ bản của chuyển mạch mềm 46
4.1 Tổng quan về báo hiệu trong chuyển mạch mềm 46
4.2 Giao thức H.323 47
4.3 Giao thức SIP 51
4.4 Giao thức MGCP-MEGACO/H.248 52
4.5 Giao thức SIGTRAN 53
Chương 5: Mô hình ứng dụng và hướng phát triển mạng NGN 55
5.1 Nguyên tắc triển khai mạng NGN 55
5.1.1 Yêu cầu chung 55
5.1.2 Mục tiêu xây dựng 55
5.1.3 Quá trình chuyển đổi từng bước 56
5.2 Hướng phát triển mạng NGN 56
5.3 Giải pháp đề xuất cho việc phát triển mạng NGN 58
5.3.1 Giải pháp xây dựng NGN trên cơ sở mạng hiện tại 58
5.3.2 Giải pháp xây dựng NGN hoàn toàn mới 59
KẾT LUẬN 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO 62
62 trang |
Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 3985 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mạng thế hệ mới NGN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tin quản lý viễn thông.
CHƯƠNG 2
MẠNG VIỄN THÔNG THẾ HỆ SAU NGN
2.1 Định nghĩa
Mạng viễn thông thế hệ sau (NGN) có nhiều tên gọi khác nhau chẳng hạn như:
Mạng đa dịch vụ (cung cấp nhiều loại dịch vụ khác nhau)
Mạng hội tụ (hỗ trợ cho cả lưu lượng thoại và dữ liệu)
Mạng phân phối (phân phối tính thông minh cho mọi phần tử trong mạng)
Mạng nhiều lớp (mạng được phận phối ra nhiều lớp mạng có chức năng độc lập nhưng hỗ trợ nhau thay vì một khối thống nhất như trong mạng TDM)
Cho tới hiện nay mặc dù các tổ chức viễn thông quốc tế và các nhà cung cấp thiết bị viễn thông trên thế giới đều rất quan tâm và nghiên cứu về chiến lược phát triển NGN nhưng vẫn chưa có định nghĩa cụ thể và chính xác nào cho mạng NGN. Do đó định nghĩa mạng NGN nêu ra ở đây không thể bao hàm hết mọi chi tiết về mạng thế hệ sau, nhưng nó có thể tương đối là khái niệm chung nhất khi đề cập đến NGN.
Bắt nguồn từ sự phát triển của công nghệ thông tin, công nghệ chuyển mạch gói và công nghệ truyền dẫn băng rộng, mạng thông tin thế hệ sau ra đời là mạng có cơ sở hạ tầng thông tin duy nhất dựa trên công nghệ chuyển mạch gói, triển khai các dịch vụ một cách đa dạng và nhanh chóng, đáp ứng sự hội tụ giữa thoại và số liệu, giữa cố định và di động.
Như vậy có thể xem mạng thông tin thế hệ sau là sự tích hợp mạng thoại PSTN, chủ yếu dựa trên kỹ thuật TDM, với mạng chuyển mạch gói, dựa trên kỹ thuật IP/ATM. Nó có thể truyền tải tất cả các dịch vụ vốn có của PSTN đồng thời cũng có thể nhập một lượng dữ liệu lớn vào mạng IP, nhờ đó có thể giảm nhẹ gánh nặng cho PSTN.
Tuy nhiên NGN không chỉ đơn giản là sự hội tụ giữa thoại và dữ liệu mà còn là sự hội tụ giữa truyền dẫn quang và công nghệ gói, giữa mạng cố định và di động. Vấn đề chủ đạo là ở đây phải làm sao có thể tận dụng hết mọi lợi thế đem đến từ quá trình hội tụ này. Một vấn đề quan trọng khác ở đây là sự bùng nổ nhu cầu của người sử dụng cho một khối lượng lớn dịch vụ và ứng dụng phức tạp bao gồm cả đa phương tiện.
2.2 Đặc điểm của NGN
- Nền tảng là hệ thống mạng mở
- Mạng NGN là do mạng dịch vụ thúc đẩy nhưng dịch vụ phải thực hiện độc lập với mạng lưới.
- Mạng NGN là mạng chuyển mạch gói dựa trên một giao thức thống nhất.
- Là mạng có dung lượng ngày càng tăng có tính thích ứng cũng ngày càng tăng, có đủ dung lượng để đáp ứng nhu cầu.
Trước hết, do áp dụng cơ cấu mở mà:
- Các khối chức năng của tổng đài truyền thống chia thành các phần tử mạng độc lập, các phần tử được phân theo chức năng tương ứng, và phát triển một cách độc lập.
- Giao diện và giao thức giữa các bộ phận phải dựa trên các tiêu chuẩn tương ứng.
Việc phân tích làm cho mạng viễn thông vốn có dần dần đi theo hướng mới, nhà kinh doanh có thể căn cứ vào nhu cầu dịch vụ để tự tổ hợp các phần tử khi tổ chức mạng lưới. Việc tiêu chuẩn hóa giao thức giữa các phần tử có thể thực hiện kết nối thông giữa các mạng có cấu hình khác nhau.
Tiếp đến, mạng NGN là mạng dịch vụ thúc đẩy với đặc điểm:
Chia tách dịch vụ với điều khiền cuộc gọi
Chia tách cuộc gọi với truyền tải
Mục tiêu chính của chia tách là làm cho dịch vụ thực sự độc lập với mạng, thực hiện một cách linh hoạt và có hiệu quả việc cung cấp dịch vụ. Thuê bao có thể tự bố trí và xác định đặc trưng dịch vụ của mình, không quan tâm đến mạng truyền tải dịch vụ và loại hình đầu cuối. Điều đó làm cho việc cung cấp dịch vụ và ứng dụng có tính linh hoạt.
Thứ ba, NGN là mạng chuyển mạch gói giao thức thống nhất. Mạng thông tin hiện nay, dù là mạng viễn thông, mạng máy tính hay mạng truyền hình cáp, đều không thể lấy một trong các mạng đó làm nền tảng cơ sở để xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin. Nhưng mấy năm gần đây cùng với sự phát triển công nghệ IP, người ta mới nhận thấy rõ ràng là mạng viễn thông, mạng máy tính và mạng truyền hình cáp cuối cùng rồi cũng tích hợp trong một mạng IP thống nhất, đó là xu thế mà người ta thường gọi là dung hợp ba mạng. Giao thức IP làm cho các dịch vụ lấy IP làm cơ sở đều có thể thực hiện nối thông các mạng khác nhau; con người lần đầu tiên có được giao thức thống nhất mà ba mạng lớn đều có thể chấp nhận được; đặt cơ sở vững chắc về mặt kỹ thuật cho hạ tầng cơ sở thông tin quốc gia.
Giao thức IP thực tế đã trở thành giao thức ứng dụng vạn năng và bắt đầu được sử dụng làm cơ sở cho các mạng đa dịch vụ, mặc dù hiện tại vẫn còn ở thế bất lợi so với chuyển mạch kênh về mặt khả năng hỗ trợ lưu lượng thoại và cung cấp chất lượng dịch vụ đảm bảo cho số liệu. Tốc độ đổi mới nhanh chóng trong thế giới Internet, mà nó được tạo điều kiện bởi sự phát triển của các tiêu chuẩn mở sẽ sớm khắc phục những thiếu sót này.
Hình 1.4: Topo mạng thế hệ sau
Hai đặc điểm quan trọng nhất của mạng thế hệ sau NGN đó là: Mạng tích hợp đa dịch vụ và phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông sẵn có với kiến trúc mở và công nghệ chuyển mạch gói. Lớp chức năng được tích hợp theo chiều ngang nghĩa là cùng chung một cơ sở hạ tầng thực hiện hội tụ các chức năng mạng trên lớp truyền dẫn chung dựa trên cơ sở công nghệ chuyển mạch gói và được chia sẻ bởi các dịch vụ khác nhau. Lớp điều khiển được tách độc lập với lớp truyền dẫn và có khả năng cung cấp các giao diện lập trình mở (API) nhằm đảm bảo môi trường tạo dịch vụ mới một cách mềm dẻo, đa năng và có hiệu quả. Chính nhờ sự độc lập giữa chức năng truyền dẫn và điều khiển kết nối việc cung cấp dịch vụ mới chỉ đơn giản là bổ sung thêm các server vào lớp dịch vụ nằm phía trên lớp truyền dẫn.
2.3 Những vấn đề cần quan tâm khi phát triển NGN
Xu hướng chung hiện nay là hình thành và xây dựng các mạng NGN thông qua việc chuyển đổi mạng PSTN trên nền cơ sở hạ tầng chuyển mạch kênh TDM sang cơ sở hạ tầng chuyển mạch gói và công nghệ IP. Do đó các nhà cung cấp dịch vụ chính thống phải xem xét cở sở TDM mà họ đã lắp đặt và quyết định về việc nâng cấp hệ thống này, nên đầu tư vốn cho thiết bị chuyển mạch kênh và xây dựng một mạng NGN xếp chồng hay thậm chí nên thay thế các tổng đài truyền thống bằng những công nghệ chuyển mạch mới sau này. Họ cũng phải xem xét ảnh hưởng của sự gia tăng lưu lượng Internet quay số trực tiếp với thời gian ngắn hơn nhiều. Để duy trì sự cạnh tranh các nhà khai thác này cần tìm ra phương pháp cung cấp các dịch vụ mới cho các khách hàng của họ trong thời kỳ quá độ trước khi các mạng của họ tiến triển sang NGN một cách đầy đủ.
Vấn đề lớn nhất cần nhắc khi sắp tới cần hỗ trợ dịch vụ thoại qua IP và hàng loạt các dịch vụ giá trị gia tăng là cơ chế “best effort” (cố gắng tối đa) phân phối các gói tin không còn đủ đáp ứng nữa. Một thách thức căn bản ở đây là mở rộng mạng IP theo nhiều hướng, khả năng cung cấp dịch vụ vẫn giữ được ưu thế của mạng IP. Để đảm bảo QoS cần thiết, các nhà khai thác sẽ phải có khả năng cam kết cung cấp các thỏa thuận về mức dịch vụ (SLA), các yêu cầu về băng tần và các tham số chất lượng.
Một khía cạnh khác đảm bảo chất lượng là quy mô mạng phải đủ lớn để cung cấp cho khách hàng nhằm chống lại hiện tượng nghẽn cổ chai trong lưu lượng của mạng lõi. Một trong những đặc trưng của NGN chính là khả năng tăng số lượng của các giao diện mở nhưng điều đó cũng hàm chứa các nguy cơ đe dọa an ninh của mạng. Do đó đảm bảo an toàn thông tin trở thành vấn đề sống còn của các nhà khai thác nhằm bảo vệ mạng chống lại sự tấn công phía các tin tặc. Các công cụ an ninh và mật mã hóa phải luôn luôn sẵn sàng.
Công nghệ quang đã chứng minh được là một phương tiện truyền tải thông tin hiệu quả trên khoảng cách lớn, và hiện nay nó là công nghệ chủ đạo trong truyền dẫn trên mạng lõi. Với các cải tiến hiện nay như công nghệ ghép kênh phân chia theo mật độ bước sóng DWDM nâng cao đáng kể hiệu quả kinh tế về truyền tải trên mạng cáp quang. Ngày nay IP sẽ trở thành giao diện thực sự cho các mạng lõi NGN. Vấn đề quan trọng ở đây là mạng cáp quang phải tối ưu cho điều khiển lưu lượng IP. Một giải pháp có tính thuyết phục hiện nay là hội tụ các lớp dữ liệu và các lớp quang trong mạng lõi. Viện hội tụ này mang lại một số lợi thế như cung cấp các dịch vụ tốc độ cao, bảo vệ dòng thông tin liên tục cho mạng quang với chuyển mạch nhãn đa giao thức chung MPLS.
Một vấn đề không kém phần quan trọng là vấn đề các giải pháp quản lý thích hợp cho mạng NGN. Trong khi mong muốn xây dựng một mạng quản lý phải làm việc trong môi trường đa nhà đầu tư, đa nhà khai thác, đa dịch vụ còn mang tính logic. Mặc dù còn phải mất nhiều thời gian và công sức trước khi hệ thống quản lý mạng được triển khai nhưng nó sẽ mang lại nhiều lợi ích như giảm chi phí khai thác, dịch vụ đa dạng…
CHƯƠNG 3
KIẾN TRÚC MẠNG NGN VÀ CÔNG NGHỆ CHUYỂN MẠCH
MỂM SOFTSWITCH
3.1 Các khái niệm chuyển mạch mềm
Các ý kiến khác nhau về chuyển mạch mềm cũng xuất phát từ góc độ nhìn nhận khác nhau về kiến trúc, chức năng và các đặc trưng của mạng. Trước khi đi tới một khái niệm chung chúng ta có thể một số quan điểm của một số hãng khác nhau.
CommWorks: (www.commworks.com) Chuyển mạch mềm softswitch bao gồm các mô-đun phần mềm tiêu chuẩn, có chức năng điều khiển cuộc gọi, báo hiệu, có giao thức liên kết và khả năng thích ứng với các dịch vụ mới trong một mạng hội tụ. Thêm vào đó chuyển mạch mềm thực hiện chuyển mạch cuộc gọi mà không phụ thuộc vào phương thức truyền dẫn cũng như cách truy nhập mạng, các dạng lưu lượng khác nhau được xử lý trong suốt. Thông qua mạng IP chuyển mạch mềm cung cấp các dịch vụ IP với các yêu cầu ngày càng cao của khách hàng.
MobileIN: (www.mobileIN.com) Chuyển mạch mềm là khái niệm trong đó bao hàm việc tách phần cứng mạng ra khỏi phần mềm mạng. Trong mạng chuyển mạch kênh truyền thống, phần cứng và phần mềm của hệ thống không độc lập với nhau mà là thực thể toàn vẹn của một nhà cung cấp. Mạng chuyển mạch kênh dựa trên những thiết bị chuyên dụng cho việc kết nối và được thiết kế với mục đích phục vụ thông tin thoại. Những mạng chuyển mạch gói với hiệu năng cao hơn sẽ sử dụng giao thức IP để định tuyến thông tin thoại và số liệu qua các tuyến khả dụng và các thiết bị dùng chung.
Alcatel (www.alcatel.com) Với sản phẩm 5421Softswitch sử dụng để giảm tải Internet và chạy các ứng dụng VoIP H.323, hệ thống 1000 softswitch ứng dụng làm tổng đài chuyển tiếp gói. Chuyển mạch mềm là trung tâm điều khiển trong cấu trúc mạng viễn thông. Nó cung cấp khả năng chuyển tải thông tin một cách mềm dẻo, an toàn và đáp ứng được các đặc tính mong đợi khác của mạng. Đó là các sản phẩm có chức năng quản lý dịch vụ, điều khiển cuộc gọi Gatekeeper, thể hiện việc hội tụ các công nghệ IP, ATM, TDM trên nền cơ sở hạ tầng sẵn có. Hơn nữa, 1000 softswitch còn có khả năng tương thích giữa chức năng điều khiển cuộc gọi và các chức mới sẽ được phát triển sau.
Theo Nortel: Softswitch là một thành tố quan trọng nhất của mạng thế hệ mới. Softswitch là một phần mềm theo mô hình mở có thể thực hiện được những chức năng thông tin phân tán trên một môi trường máy tính mở và có những tính năng của mạng chuyển mạch thoại TDM truyền thống. Chuyển mạch mềm có thể tích hợp thông tin thoại, số liệu và video. Nó có thể phiên dịch giao thức giữa các mạng khác nhau ví dụ như giữa mạng vô tuyến và mạng cáp. Softswitch cũng cho phép triển khai các dịch vụ VoIP mạng lại lợi nhuận. Một chuyển mạch mềm kết hợp với tính năng của các chuyển mạch thoại lớp 4 (tổng đài chuyển tiếp/liên đài) và lớp 5 (tổng đài nội hạt) với các cổng VoIP, trong khi vẫn hoạt động trên môi trường máy tính mở chuẩn. Các hệ thống máy tính kiến trúc mở sử dụng các thành phần đã được chuẩn hóa và sử dụng rộng rãi của nhiều nhà cung cấp khác nhau. Sử dụng hệ thống máy tính mở cho phép các nhà khai thác phát triển dịch vụ một cách độc lập với phần cứng và hưởng lợi ích từ định luật Moore trong ngành công nghiệp máy tính.
Như vậy tùy thuộc vào thị trường của mình các nhà cung cấp khác nhau có quan điểm khác nhau về chuyển mạch mềm, tuy nhiên các quan điểm đó bổ sung cho nhau để hình thành một định nghĩa chung về chuyển mạch mềm. Chuyển mạch mềm là hệ thống chuyển mạch thực hiện đầy đủ chức năng của chuyển mạch truyền thống, có khả năng kết hợp các loại dịch vụ, có thể đáp ứng nhiều loại lưu lượng, khả năng kết nối với nhiều loại mạng, nhiều loại thiết bị, dễ dàng nâng cấp cũng như tương thích với các loại dịch vụ mới và các dịch vụ trong tương lai.
3.2 Định nghĩa chuyển mạch mềm
Chuyển mạch mềm có thể được định nghĩa như là tập hợp các sản phẩm, giao thức và các ứng dụng cho phép bất kỳ thiết bị nào truy nhập các dịch vụ truyền thông qua mạng xây dựng trên nền chuyển mạch gói thường là IP. Những dịch vụ đó bao gồm thoại, fax, video, dữ liệu và các dịch vụ có thể được phát triển trong tương lai. Những thiết bị đầu cuối truy nhập bao gồm điện thoại truyền thống, điện thoại IP, máy tính, PDAs, máy nhắn tin…Một sản phẩm softswitch có thể bao gồm một hoặc nhiều phần chức năng, các chức năng có thể cùng nằm trên một hệ thống hoặc phân tán trên những hệ thống thiết bị khác nhau.
Softswitch nhìn chung cung cấp các chức năng giống như các chức năng của chuyển mạch kênh nó chỉ khác là được thiết kế trên mạng chuyển mạch gói và có khả năng liên kết với mạng PSTN. Các tính chất khác biệt của hệ thống chuyển mạch mềm bao gồm:
Là hệ thống có khả năng lập trình để xử lý cuộc gọi và hỗ trợ các giao thức của mạng PSTN, ATM và IP.
Hoạt động trên nền các máy tính và các hệ điều hành thương mại.
Điều khiển các gateway trung kế ngoài (External Trunking Gateway) Gateway truy nhập (Access Gateway) và các server truy nhập từ xa RAS (Remote Access Server).
Nó tái sử dụng các dịch vụ IN thông qua giao diện danh bạ mở, mềm dẻo.
Cung cấp các giao diện lập trình ứng dụng mở API cho các nhà phát triển thứ 3 nhằm tạo ra các dịch vụ thế hệ sau.
Nó có chức năng lập trình cho các hệ thống Back office.
Có hệ thống quản lý tiên tiến trên cơ sở máy chủ (policy-server-based) cho tất cả module phần mềm.
Một đặc điểm nữa của Softswitch là không phải làm nhiệm vụ cung cấp kênh nối như tổng đài vì liên kết thông đã được cơ sở hạ tầng mạng NGN thực hiện theo công nghệ chuyển mạch gói. Tức là công nghệ chuyển mạch mềm không thực hiện bất kỳ chuyển mạch gì. Tất cả công việc của Softswitch được thực hiện với một hệ thống các mô-đun phần mềm điều khiển và giao tiếp với các phần khác của mạng NGN, chạy trên một hệ thống máy chủ có hiệu năng, độ tin cập và độ sẵn sàng ở cấp độ nhà cung cấp dịch vụ (Carrier-class).
Mô hình tham chiếu chuyển mạch mềm
Để có một khái niệm toàn diện và thống nhất về chuyển mạch mềm tổ chức chuyển mạch mềm quốc tế ISC (International Softswitch Consortium) đã đưa ra mô hình tham khảo của chuyển mạch mềm với các thực thể và mặt phẳng chức năng.
3.3.1 Các mặt phẳng chức năng
Các mặt phẳng chức năng được đưa ra theo định nghĩa chung nhất nhằm phân biệt các thực thể chức năng trong kiến trúc chuyển mạch mềm. ISC đưa ra 4 mặt phẳng chức năng: mặt phẳng truyền tải (Transport plane); mặt phằng điều khiển và báo hiệu (Call control and Signaling plane); mặt phẳng ứng dụng và dịch vụ (Service and application plane); mặt phẳng quản lý (Management plane).
Hình 1.5: Cấu trúc mạng và dịch vụ của NGN
Mặt phẳng truyền tải
Mặt phẳng truyền tải thực hiện các chức năng vận chuyển các bản tin giữa các thực thể trong mạng. Các bản tin có thể là bản tin báo hiệu cuộc gọi, bản tin thiết lập cuộc gọi hay lưu lượng cần truyền. Cơ chế truyền tải các bản tin này có thể dựa trên bất kỳ một công nghệ truyền dẫn nào, miễn là nó đáp ứng các yêu cầu của việc truyền dẫn loại lưu lượng đó.
Mặt phẳng truyền tải cũng đưa ra các điểm truy nhập dành cho việc liên kết với các mạng khác nhằm mục đích báo hiệu hay truyền tải lưu lượng giữa chúng. Các thực thể và chức năng của mặt phẳng này được điều khiển bởi các chức năng trong mặt phẳng báo hiệu và điều khiển cuộc gọi.
Mặt phẳng truyền tải cũng có thể được chia nhỏ thành 3 miền:
Miền truyền tải IP: Miền này cung cấp hệ thống lõi và chuyển mạch, định tuyến cho việc truyền tải và bản tin qua mạng IP. Miền truyền tải IP bao gồm các thiết bị: định tuyến, chuyển mạch, thiết bị cung cấp cơ chế giám sát chất lượng dịch vụ hay các chính sách truyền tải.
Miền liên kết mạng: Miền này đảm nhận chức năng chuyển đổi các dạng lưu lượng và báo hiệu giữa các mạng khác nhau nhằm bảo đảm sự tương thích giữa chúng, bao gồm các thiết bị: cổng báo hiệu (Signaling Gateway), cổng phương tiện (Media Gateway), cổng liên kết mạng (Interworking Gateway).
Miền truy nhập không IP: Miền này nhằm hỗ trợ việc chuyển dẫn giữa các mạng IP và các đầu cuối không IP hay mạng vô tuyến.Vùng này bao gồm các thiết bị: cổng truy nhập (Access Gateway) hay các cổng nội hạt (Residential Gateway), đầu cuối ISDN, thiết bị truy nhập tích hợp IAD, các cổng phương tiện cho các mạng di động hay mạng truy nhập vô tuyến…
Mặt phẳng quản lý
Báo hiệu ứng dụng
Máy chủ phương tiện
Mặt phẳng ứng dụng và dịch vụ
Mặt phẳng điều khiển và báo hiệu
Mặt phẳng truyền tải
Máy chủ ứng dụng/chức năng
Call Agent, MGC, chuyển mạch mềm, GK
Miền truyền tải IP:
mạng lõi IP, định tuyến, chuyển mạch, BG, QoS
Miền liên kết mạng:TG(NG), SG, tương tác GW
Miền truy nhập phi IP:
Truy nhâp không dây (AG)
Truy nhập di động (RAN AG)
Truy nhập băng rộng (IAD)
Điện thoại IP(H.323, SIP, MGCP) đầu cuối
Đầu cuối IP/mạng di động
IN/AIN
Chuyển mạch
PST/SS7/ATM
Mạng VoIP
Cung cấp thuê bao và các dịch vụ;hỗ trợ vận hành bảo dưỡng mạng; hỗ trợ tính cước
Hình 2.1: Mô hình tham chiếu chuyển mạch mềm ISC
Mặt phẳng báo hiệu và điều khiển cuộc gọi
Mặt phẳng điều khiển hầu hết các thực thể của mạng đặc biệt là các thực thể thuộc mặt phẳng truyền tải. Các thiết bị và chức năng trong mặt phẳng này tiến hành điều khiển cuộc gọi dựa trên các bản tin báo hiệu nhận từ mặt phẳng truyền tải, nó cũng thực hiện việc thiết lập và giải phóng các cuộc gọi trên cơ sở điều khiển các thiết bị thuộc mặt phẳng truyền tải. Mặt này bao gồm các thiết bị như: bộ điều khiển cổng phương tiện (Media Gateway Controller), Gatekeeper (thiết bị điều khiển cổng kết nối), máy chủ LDAP.
Mặt phẳng ứng dụng và dịch vụ
Mặt phẳng này cung cấp các logic dịch vụ và ứng dụng trên mạng. Các thiết bị trong mặt phẳng sẽ điều khiển từng bước cuộc gọi dựa trên các logic có sẵn thông qua việc giao tiếp với các thiết bị trong mặt phẳng báo hiệu và điều khiển cuộc gọi. Mặt phẳng này bao gồm các thiết bị như máy chủ ứng dụng (Application Servers), máy chủ chức năng (Feature Servers).
Mặt phẳng quản lý và bảo dưỡng mạng
Mặt phẳng này thực hiện các chức năng quản lý như tính cước, hỗ trợ vận hành, các xử lý liên quan tới thuê bao hay cung cấp dịch vụ khách hàng. Mặt phẳng này có thể tương tác với 3 mặt phẳng trên thông qua các giao diện chuẩn hay giao diện lập trình mở.
Các thực thể chức năng
Kiến trúc của mạng khi triển khai chuyển mạch mểm có thể được tham khảo qua hình 2.2. Mỗi khối chức năng trên có thể thực hiện một chức năng nhưng cũng có thể kết hợp cùng thực hiện một chức năng. Theo đó các thực thể chức năng thuộc các mặt phẳng chức năng khác nhau.
Hình 2.2: Các thực thể chức năng chuyển mạch mềm
Hình 2.3: Mối liên hệ các khối chức năng của NGN
Chức năng điều khiển cổng phương tiện (MGC-F)
Chức năng này thường được thực hiện bởi thực thể vật lý MGC (Media Gateway Controller). Đây là một những thiết bị quan trọng nhất và được biết với nhiều tên như: Call Agent, Call Controller hay chuyển mạch mềm.
Hình 2.4: Kết nối MGC với các thành phần khác của mạng NGN
Chức năng MGC-F cung cấp logic dịch vụ và báo hiệu điều khiển cuộc gọi cho MG, MGC-F có các đặc điểm:
Duy trì trạng thái cuộc gọi đối với mọi cuộc gọi MG
Điều khiển giao tiếp giữa các MG cũng như giữa MG với các thiết bị đầu cuối.
Đóng vai trò là trung tâm thỏa thuận với các tham số kết nối giữa các đầu cuối thoại các MG.
Tiếp nhận và khởi tạo các bản tin báo hiệu đi và tới các điểm kết cuối và các mạng bên ngoài.
Tương tác với máy chủ ứng dụng nhằm cung cấp các dịch vụ tới khách hàng.
Quản lý một số tài nguyên mạng như các cổng MG, băng thông…
Giao tiếp với các chức năng định tuyến và tính cước để hỗ trợ cho việc tính cước, nhận thực và định tuyến.
Có thể tham gia vào nhiệm vụ quản lý trong môi trường mạng di động
Chức năng này gồm các giao thức ứng dụng Megaco/H.248 và MGCP
Chức năng Call Agent (CA-F) và Interworking (IW-F) là các chức năng thành phần cuộc MGC-F, CA-F thể hiện khi MGC xử lý điều khiển cuộc gọi hay quản lý trạng thái cuộc gọi, IW-F thể hiện khi MGC thực hiện chức năng báo hiệu giữa các mạng báo hiệu khác nhau (ví dụ như SS7 và SIP).
Chức năng định tuyến cuộc gọi và tính cước (R-F, A-F)
R-F cung cấp các thông tin định tuyến cuộc gọi cho MGC-F, A-F thu thập các thông tin phục vụ cho việc tính cước, R-F và A-F có đặc điểm:
Cung cấp chức năng định tuyến cho việc định tuyến cuộc gọi liên mạng.
Cung cấp khả năng quản lý phiên và di động.
Cập nhập các thông tin định tuyến từ các nguồn bên ngoài
Tương tác với AS-F nhằm cung cấp các dịch vụ hay ứng dụng tới khách hàng.
R-F và A-F là thành phần của SPS-F và thường được tích lũy trong chức năng điều khiển cổng MGC-F.
Chức năng cổng báo hiệu và báo hiệu truy cập (SG-F/AGS-F)
SG-F cung cấp cổng phương tiện cho việc báo hiệu giữa mạng IP và PLMN, PSTN (thường là báo hiệu số 7). Vai trò chính của SG-F là đóng gói và truyền các bản tin báo hiệu số 7 của PSTN (ISUP hoặc INAP) hay PLMN (MAP hoặc CAP) qua mạng IP.
AGS-F cung cấp cổng phương tiện cho việc báo hiệu giữa mạng IP và mạng truy cập dựa trên chuyển mạch kênh. Vai trò chính của AGS-F là đóng gói và truyền các bản tin báo hiệu V5 hay ISDN, BSSAP, RANAP qua mạng IP.
Các đặc điểm của SG-F:
Đóng gói vả truyền các bản tin báo hiệu của mạng PSTN (SS7) (sử dụng giao thức SIGTRAN) tới các MGC-F hay SG-F khác.
Một SG-F có thể phục vụ nhiều SGC-F.
Khi SG-F và MGC-F không được cài đặt chung, SG-F sẽ thực hiện chức năng giao diện giao thức (Ví dụ như SIGTRAN).
Các giao thức ứng dụng của chức năng này bao gồm: SIGTRAN, TUA, SUA hay M3UA trên SCTP.
Các đặc điểm của AGS-F:
Đóng gói và truyền các bản tin báo hiệu V5 hay IDSN (ví dụ SS7) tới MGC-F
Một MGC-F có thể phục vụ nhiều AGS-F.
Khi AGS-F và MGC-F không được cài đặt chung, AGS-F sẽ thực hiện chức năng giao thức giao diện (ứng dụng như SIGTRAN).
Các giao thức ứng dụng của chức năng này bao gồm SIGTRAN, IUA, V5UA hay M3UA trên SCTP.
Chức năng máy chủ ứng dụng (AS-F)
Chức năng chính của AS là cung cấp các logic dịch vụ ứng dụng. Các đặc điểm của AS-F bao gồm:
Có thể yêu cầu MGC kết thúc cuộc gọi hay phiên liên lạc để phục vụ cho một ứng dụng nào đó.
Có thể yêu cầu MGC khởi tạo lại các đặc trưng cuộc gọi ví dụ như tính năng chuyển cuộc gọi, chứng thực thẻ gọi trả trước…
Có thể thay đổi các mô tả lưu lượng thông qua giao thức SDP
Có thể điều khiển MS-F nhằm chức năng xử lý lưu lượng.
Có thể kết nối tới các ứng dụng Web và có các giao diện Web.
Có giao diện lập trình ứng dụng cho việc tạo các dịch vụ mới.
Giao tiếp với MGC-F hay MS-F.
Có thể sử sụng các dịch vụ của MGC-F để điều khiển các nguồn tài nguyên bên ngoài.
Các giao thức ứng dụng bao gồm: SIP, MGCP, MEGACO/H248, LDAP, HTTP, CPL,XML…
Các giao diện lập trình ứng dụng mở bao gồm: JAIN và Parlay
Thông thường sự kết hợp giữa AS-F và MGC-F sẽ tạo ra các năng lực điều khiển các dịch vụ tăng cường như: điện thoại, hội nghị, chờ cuộc gọi…Các nhà khai thác sẽ không sử dụng một giao diện giữa AS và MGC, thay vào đó là một giao diện lập trình ứng dụng API giữa MGC và AS. Khi ấy AS còn có tên gọi khác là máy chủ chức năng.
Chức năng điều khiển dịch vụ SC-F (Service Control Function) xuất hiện khi AS-F điều khiển logic dịch vụ. SC-F gồm INAP, CAP, MAP, giao diện API mở.
Chức năng cổng phương tiện (MG-F)
MG giao tiếp với mạng IP bằng các điểm truy nhập hay trung kế mạng. MG-F hoạt động như một cổng giao tiếp giữa mạng IP và các mạng bên ngoài. MG-F có thể cung cấp các cổng giao tiếp giữa mạng IP và mạng chuyển mạch kênh hay giữa các mạng chuyển mạch gói với nhau (IP và 3G hay ATM). Vai trò cơ bản của MG-F là: chuyển lưu lượng từ một khung dạng truyền dẫn này sang một khung dạng truyền dẫn khác, thường là chuyển mạch kênh và chuyển mạch gói, giữa gói ATM và gói IP, hoặc giữa các kênh tương tự/ISDN và các gói giống như trong cổng phương tiện nội hạt.
Các đặc điểm chính của MG-F:
Luôn luôn có quan hệ chủ tớ với MGC-F thông qua giao thức MGCP hay MEGACO/H.248
Có thể thực hiện các chức năng xử lý lưu lượng như chuyển mã, đóng gói, loại bỏ tiếng vọng, giám sát hiện tượng pha (Jitter), đưa ra các xử lý khi mất gói tin…
Có thể thực hiện các chức năng chèn lưu lượng như tạo âm báo tiến trình cuộc gọi, tạo âm DTMF, tạo tạp âm xen…
Thực hiện chức năng báo hiệu và phát hiện sự thay đổi trạng thái của các thiết bị đầu cuối như: phát hiện DTMF, phát hiện sự kiện on/off-hook, phát hiện tín hiệu thoại tích cực.
Quản lý và phân bổ tài nguyên cho các chức năng trên.
Phân tích các con số nhận được từ thiết bị đầu cuối dựa trên kế hoạch đánh số và q uay số do MGC gửi tới.
Cung cấp cơ chế cho chức năng MGC-F để kiểm tra sự thay đổi trạng thái và năng lực của điểm kết cuối. MG-F không yêu cầu khả năng quản lý các cuộc gọi. MG-F chỉ quản lý trạng thái kết nối của các cuộc gọi mà nó hỗ trợ.
Máy điện thoại SIP phone kết hợp MG-F và MGC-F trong một thiết bị.
Cổng ứng dụng SIP kết hợp với MG-F và MGC-F trong một thiết bị.
Các giao thức ứng dụ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mạng Thế Hệ Mới NGN.doc