Mặt trái của chuyển giao công nghệ và giải pháp

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

NỘI DUNG 3

I - CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ VÀ CÁC MẶT TÍCH CỰC 3

III.TÌNH HÌNH CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ VÀ THỰC TRẠNG Ở NƯỚC TA VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP 6

KẾT LUẬN 9

 

 

doc10 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1430 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mặt trái của chuyển giao công nghệ và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MẶT TRÁI CỦA CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ VÀ GIẢI PHÁP LỜI NÓI ĐẦU Phát triển kinh tế ở mỗi nước là kết quả của việc sử dụng một cách đúng đắn, hợp lý các nguồn nhân tài – vật lực và tài nguyên thiên nhiên. Trong công cuộc đổi mới kinh tế Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương “Giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với củng cố quan hệ sản xuất Xã hội chủ nghĩa…”, đó là một phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay. Để giải quyết nhiệm vụ này không thể thiếu vai trò của công nghệ như là một phương tiện để biến đổi các nguồn lực thành hàng hoá tiêu dùng và các yếu tố sản xuất có giá trị. Trước kia trong nền kinh tế quan liêu bao cấp công nghệ đưa vào nước ta chủ yếu bằng con đường viện trợ không hoàn lại trên tinh thần giúp đỡ ít dựa vào cơ sở thương mại công nghệ. Với tâm lý và quản lý của nền kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ và lạc hậu chúng ta đón nhận công nghệ một cách máy móc thụ động. Nhiều công nghệ chỉ vì họ cho mà ta nhận thiếu sự tìm hiểu và điều tra, thiếu tính toán phân tích, thiếu cân nhắc chọn lọc, thiếu chú ý tới mục tiêu và hiệu quả. Hậu quả để lại là tồn tại một nền sản xuất với công nghệ đa dạng nhưng không đồng bộ, có tính chất chắp vá mà không có tính chiến lược, mặt khác đa số công nghệ nhập là lạc hậu đến nay càng lạc hậu hơn. Thời gian gần đây do chuyển từ cơ chế hành chính quan liêu bao cấp sang hạch toán kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường với nền kinh tế nhiều thành phần, mặt khác đòi hỏi thị trường về thị hiếu, sở thích, chất lượng, chủng loại, giá cả luôn biến động trong bối cảnh hàng nhập theo con đường chính tắc và nhập lậu tràn lan nên càng đòi hỏi sự đổi mới về công nghệ. Tuy nhiên trong chuyển giao công nghệ có tính hai mặt, nhà nước phải có sự quản lý và điều chỉnh hợp lý phát huy những mặt tích cực và hạn chế tối đa mặt tiêu cực của nó. Bài viết này nhằm mục đích phân tích và chỉ ra chuyển ra chuyển giao công nghệ như “con dao hai lưỡi”. Nội dung bài viết gồm: Chuyển giao công nghệ và mặt tích cực của nó Tình hình chuyển giao công nghệ trên thế giới và thực trạng ở nước ta Mặt trái của chuyển giao công nghệ và giải pháp Do trình độ và thời gian có hạn nên bài viết này còn nhiều hạn chế rất mong được sự góp ý sửa chữa, xin chân thành cảm ơn. NỘI DUNG I - CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ VÀ CÁC MẶT TÍCH CỰC Chuyển giao công nghệ được hiểu là quá trình truyền bá công nghệ từ nước này sang nước khác ngoài nước sản sinh ra nó hay nói cách khác đó là quá trình chuyển và nhận công nghệ qua biên giới quốc gia. Trong đó bao gồm: truyền bá tài liệu chuyên môn nghiệp vụ liên quan, toàn bộ thông tin đặc biệt là bí quyết liên quan, máy móc trang thiết bị, kinh nghiệm trong việc tổ chức khai thác điều hành và quản lý công nghệ. Trên thế giới có hai thái cực đối lập nhau, một bên là các nước phát triển nơi trình độ khoa học phát triển rực rỡ có nhiều công nghệ đã được áp dụng và khai thác, đến giai đoạn và thời điểm nhất định nó đã trở nên lỗi thời, lạc hậu; một bên là các nước đang phát triển có trình độ khoa học phát triển ở mức thấp, họ rất cần đến công nghệ để giải quyết những vấn đề cấp bách trước mắt của đời sống kinh tế xã hội, để phát triển và tăng trưởng bền vững. Do đó, luồng chuyển giao công nghệ chủ yếu hiện nay là từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Cụ thể là: Đối với bên công nghệ chuyển giao do có công nghệ chuyển giao mà hoàn thiện công nghệ bởi môi trường ở các nước được chuyển giao như dân trí, trình độ, điều kiện tự nhiên… làm bộc lộ yếu kém cả về phương pháp, nguyên tắc, nguyên lý công nghệ lẫn máy móc trang thiết bị công nghệ. Đó là cơ hội để tích cực đầu tư nghiên cứu hoàn thiện công nghệ đó, mở rộng chuyển giao sang các nước láng giềng. Hơn nữa do có chuyển giao công nghệ mà các nước phát triển có được nguồn thu nhập lớn đó là khoản thu trực tiếp từ việc bán công nghệ và khoản thu gián tiếp thông qua nhỏ giọt bí quyết công nghệ, cung cấp tài liệu có liên quan… Chuyển giao công nghệ tạo điều kiện cho các nước phát triển mở rộng thị trường, mở rộng được khu vực ảnh hưởng mà bằng các biện pháp khác như: bao vây, cấm vận, chính trị, quân sự… đều không thực hiện được. Hơn nữa các nước phát triển có khả năng độc quyền thị trường ở các nước nhận công nghệ, tận dụng được nguồn tài nguyên, nguồn lao động dồi dào, rẻ mạt ở các nước này và có thể tận dụng được những điều khoản có lợi trong hợp đồng chuyển giao công nghệ. Về phía bên tiếp nhận do tiếp nhận công nghệ mà đốt cháy được giai đoạn vì thế trong thời điểm này phải có sự tiếp thu nhanh chóng những thành công và hạn chế thất bại tiếp thu có phê phán, tránh tiếp thu một cách ồ ạt nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Mặt khác, tiếp nhận công nghệ làm thay đổi cơ cấu ngành nghề trong nền kinh tế ngành công nghệ cao sẽ thay thế các ngành nghề truyền thống hao phí nhiều vật tư sức lao động ở các nước nhận chuyển giao. Hơn nữa nó tạo ra năng suất lao động cao hơn cùng với sự phong phú về chủng loại sản phẩm tiện ích cho quá trình sủ dụng trở thành vũ khí cạnh tranh của các nền kinh tế trong nền kinh tế toàn cầu hoá. Công nghệ được tiếp nhận còn đóng vai trò quan trọng đối với vấn đề môi trường trong quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động một cách hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất. Quốc gia tiếp nhận công nghệ có điều kiện tiếp xúc với nền khoa học hiện đại, học hỏi được các kinh nghiệm của bên đối tác và mở rộng thị trường đẩy nhanh quá trình hội nhập và phát triển II.MẶT TRÁI CỦA CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Bên cạnh những mặt tích cực chuyển giao công nghệ cũng đem đến những mặt không thuận lợi cho các bên tham gia chuyển giao. Các nước chuyển giao công nghệ sẽ có nguy cơ mất vị trí dẫn đầu về khoa học công nghệ dẫn tới mất vị trí dẫn đâù vế thương mại và thị trường do sản phẩm ở các nước khác có thể cạnh tranh thậm chí nổi trội hơn về chất lượng công dụng ..chuyển giao công nghệ vô hình chung đã tạo ra những đối thủ cạnh tranh mới làm mất đi vị thế độc quyền của các nước có công nghệ chuyển giao trên thị trường quốc tế. Nguy cơ lớn nhất đối với các nước có công nghệ được chuyển giao là có thể bị mất đi những cán bộ kỹ thuật, những chuyên gia giỏi của mình. Phía các nước tiếp nhận công nghệ (các nước đang phát triển ) đang bị phụ thuộc nặng nề về công nghệ do chính sách của các nước phát triển. Các nước phát triển chỉ chuyển giao sang các nước đang phát triển những công nghệ có giá trị gia tăng thấp và cần nhiều lao động, những công nghệ hoặc không còn phù hợp do ô nhiễm môi trường hoặc không còn phù hợp. Họ còn tạo ra sự phụ thuộc kinh tế một cách ting vi hơn từ tiêu dùng đến công nghệ rồi chuyển sang sự phụ thuộc về thong tin, bòn rút tài nguyên từ ở các nước đang phát triển thông qua các ngành công nghiệp dễ làm và giá chuyển giao không trung thực. Điều này dẫn đến sự lệ thộc về kĩ thuật, tài chính dẫn đến sự lệ thuộc về văn hoá-xã hộivà các mặt khác ở các nước tiếp nhận công nghệ đối với các nước có công nghệ chuyển giao. Mặt khác các nước phát triển tiến hành xây dựng các xí nghiệp với quy trình không hoàn chỉnh ở các nước đang phát triển khác nhau để duy trì ưu thế công nghệ, chuyển giao công nghệ không đầy đủ tạo ra sụ cạnh tranh giã các nước đang phát triển thông qua cơ chế đầu tư nhằm tạo lơị thế về đầu tư và chuyển giao công nghệ, các nước đang phát triển buộc phải thoả hiệp với các nước phát triển để nhận đầu tư với những bất lợi về nhiều mặt như: giá nhân công rẻ mạt, đặc quyền cho bên nước ngoài, giảm thuế để tăng lợi nhuận cho các nhà đầu tư. Hơn nữa, các nước phát triển còn tìm mọi cách để ngăn chặn các khả năng phát triển công nghệ nội sinh của các nước đang phát triển bằng cách tạo ra các nhu cầu về nhập công nghệ làm nản chí các nhà khoa học, các cán bộ nghiên cứu, triển khai của các nước đang phát triển và lái các nhà đầu tư trong nước đi theo hướng nhập khẩu, tiếp nhận công nghệ để gia công sản xuất và xuất khẩu những nguyên liệu thô sang các nước có công nghệ cao hơn. Các nước đang phát triển nếu như tiếp nhận công nghệ không tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng thì sẽ có nguy cơ tiếp nhận những công nghệ không phù hợp gây nên sự lãng phí rất lớn về sức người, sức của, thậm chí còn làm xói mòn niềm tin. Tiếp nhận công nghệ con gây nên sự phát triển không hài hoà cân đối giữa các vùng, khu vực kinh tế địa lý tạo nên mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình xây dựng và phát triển đất nước III.TÌNH HÌNH CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ VÀ THỰC TRẠNG Ở NƯỚC TA VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP Trong những năm gần đây thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đẩy nhanh tiến trình hội nhập và phát triển với các nước trong khu vực chúng ta cũng đã tích cực tham gia vào các hoạt động chuyển giao công nghệ trên nhiều lĩnh vực như sản xuất công nghiệp, dịch vụ, y tế, giáo dục, quốc phòng… Là một nước đang phát triển nên chúng ta tham gia vào quá trình này phần lớn là trên phương diện nhập khẩu công nghệ. Theo đánh giá của Bộ Khoa học – Công nghệ và Môi trường, Bộ Công nghiệp thì hiện nay ở nước ta theo ước tính chung có khoảng 80-90% công nghệ hiện đang sử dụng có nguồn gốc xuất xứ từ nước ngoài. Trong đó một phần lớn công nghệ được nhập khẩu trước năm 1987 từ Liên Xô cũ, Trung Quốc và các nước Đông Âu đến nay đã cũ kỹ lỗi thời và không mang lại hiệu quả kinh tế cao. Từ năm 1990 trở lại đây do chúng ta có những chính sách mở cửa và ưu đãi cho đầu tư từ nước ngoài vì thế rất nhiều công nghệ mới, hiện đại đã được nhập khẩu qua con đường đầu tư trực tiếp. Cũng theo ước tính của Bộ Công nghiệp và Bộ Khoa học – Công nghệ môi trường thì công nghệ nhập khẩu đã góp phần làm tăng trưởng GDP của toàn ngành công nghiệp nước ta tới vài ba chục phần trăm. Phải nói rằng trong những năm vừa qua việc thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến như Nhật Bản, Mỹ và một số nước Tây Âu vào Việt nam đã làm cho bộ mặt của nền kinh tế nước ta có những chuyển biến rõ rệt hàng hoá sản phẩm của chúng ta sản xuất ra ngày càng phong phú có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, nhiều mặt hàng đã có sức cạnh tranh cao trong thị trường thế giới. Điển hình là trong các ngành: sản xuất hàng tiêu dùng như may mặc, chế biến thuỷ hải sản, sản xuất nông sản thực phẩm, xây dựng, … Sản xuất nông nghiệp trong 10 năm qua khoa học công nghệ đã tạo ra khoảng 25% giá trị gia tăng, trong lâm nghiệp áp dụng công nghệ mô-hom của Trung Quốc,cũng như các tiến bộ khoa học khác để phân giống bạch đàn và cây giống khác , góp phần quan trọng cho việc triển khai dự án trồng 5 triệu ha rừng, trong thuỷ lợi đã vận dụng các công nghệ tiên tiến kết hợp các các biện pháp nông lâm nghiệp chống cát bay cát nhảy tại ven biển Trung Bộ, công nghệ nhận dạng lũ thượng du sông Hồng dã dược thử nghiệm và đưa vao xử dụng để dự báo và điều khiển lũ , tích nước tăng cường khả năng sản xuất điện,… Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng chuyển giao công nghệ cũng đem lại không ít những khó khăn cho kinh tế xã hội Việt Nam trong những năm vừa qua. Là một nước có 80% lao động làm nông nghiệp, trình độ thấp việc nhập khẩu công nghệ mới hiện đại đã làm cho vấn đề việc làm trở nên rất khó tháo gỡ đó là thực trạng một số lượng lớn lao động không đủ trình độ tiếp xúc với công nghệ mới thì dư thừa nhưng vẫn thiếu rất nhiều lao động có tay nghề cao hiểu biết về khoa học công nghệ để tham gia vào sản xuất với những máy móc hiện đại được nhập khẩu. Một vấn đề cũng gây ra những khó khăn và thiệt hại rất lớn cho nền kinh tế Việt nam trong thời điểm hiện nay đó là về phía các nhà quản lý những người trực tiếp quyết định những hợp đồng chuyển giao công nghệ từ phía các đối tác nước ngoài. Theo nhận định của những nhà chuyên môn cho thấy có tới 25% số thiết bị công nghệ nhập từ nước ngoài là các thiết bị đã qua sử dụng, được tân trang lại và nâng cấp, không những thế một số công nghệ nhập về còn mang tính cơ khí hoá thấp, dùng nhiều lao động thủ công. Những hợp đồng chuyển giao công nghệ do không được cân nhắc kỹ lưỡng đến những điều bất cập mà chỉ chú trọng đến việc nhập được công nghệ dẫn đến những điều khoản có lợi cho bên đối tác làm thiệt hại đến lợi ích của nền kinh tế nước nhà. Còn nhiều vấn đề vẫn còn chưa được cân nhắc đến khi tiến hành chuyển giao công nghệ đó là hầu hết các hợp đồng được ký để giải quyết các vấn đề trước mắt như tăng năng suất, chất lượng mà không được xem xét đến những hậu quả lâu dài của nó như làm hạn chế sự phát triển nghiên cứu công nghệ trong nước. Chẳng hạn từ trước năm 1995 lúa giống sản xuất trong nước hầu hết là từ các cơ quan nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp, sau năm 1995 một số giống lúa có nguồn gốc từ Trung Quốc đã được nhập khẩu cho năng suất cao, chất lượng hạt tốt nên làm cho giống trong nước không có cơ hội phát triển. Hơn nữa, chuyển giao công nghệ còn làm cho tăng tỷ lệ nhập siêu, dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại KẾT LUẬN Nói tóm lại trong bất cứ lĩnh vực nào, vấn đề đổi mới và chuyển giao công nghệ đều hết sức cần thiết và quan trọng với công cuộc xây dựng, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, như bài học thành công của CÔNG TY THIẾT BỊ ĐO LƯỜNG ĐIỆN (EMIC).Song không phải lúc nào chúng ta cũng tiếp nhận được những công nghệ mang lại hiệu quả kinh tế cao,phù với trình độ công nghệ của quốc gia. Trái lại, nhiều khi do chủ quan hoặc do thiếu trình độ hiểu biết ta đã tiếp nhận về những công nghệ không những đã quá cũ kỹ lỗi thời mà còn gây ra những hậu quả khác như tốn kém tiền của, thậm chí còn gây ra ô nhiễm môi trường như vụ nhập về hàng nghìn tấn quặng sắt “rác thải” ở Thái Nguyên vừa qua. Điều đó thể hiện sự kém hiểu biết của các chuyên gia kỹ thuật, sự phân tích không kỹ lưỡng hay vì mục đích “trục lợi” nào đó. Điều này đã gây ra sự tổn hại về tiền của Nhà nước, sự mất lòng tin của nhân dân . Ta không phủ nhận ưu điểm của chuyển giao công nghệ nhưng cũng không thể bỏ qua những nhược điểm của hoạt động này. Đối với đất nước Việt nam ta cũng như các nước đang phát triển khác do còn hạn chế về điều kiện kinh tế cũng như trình độ khoa học kỹ thuật nên càng cần thiết phải xem xét kỹ lưỡng khi quyết định tiếp nhận công nghệ tiên tiến từ nước ngoài. Phải thấy rằng hoạt động chuyển giao công nghệ là một hoạt động phức tạp, không hề đơn giản dễ dàng vì nó liên quan đến nhiều vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội. Chính vì vậy ta có thể khẳng định một điều rằng “Chuyển giao công nghệ là con dao hai lưỡi”

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docE0067.doc
Tài liệu liên quan