Từ cuối năm 2007 với cảnh báo về chất lượng tăng trưởng thấp, chất lượng cuộc sống của người dân bị giảm sút, song quyết tâm của Chính phủ rõ ràng là phải đạt được những thành tựu ấn tượng, vượt lên trên tất cả các thời kỳ trước đây. Ý chí và mục tiêu đó được sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế và các nhà ngoại giao qua những lời ca tụng không ngớt về những thành tựu nổi bật của Việt Nam, về vị thế mới của Việt Nam trên trường quốc tế (thành viên WTO, lần đầu tiên được bầu là thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc.) và về dòng vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp và gián tiếp ào ạt đổ vào trong nước. Trước những thay đổi mạnh mẽ về luồng vốn, tác động từ bên ngoài như vậy, lẽ ra phải thực hiện ngay những cải cách cơ cấu và thể chế cần thiết để nâng cao năng lực giám sát, quản lý các lĩnh vực trọng yếu như ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách hành chính theo hướng mở rộng công khai minh bạch, mở rộng sự tham gia giám sát của các nhà khoa học, hiệp hội chuyên môn trong quá trình chuẩn bị quyết định, soạn thảo chính sách. Song, trên thực tế Chính phủ đã dồn dập triển khai các biện pháp và các công trình để đạt các mục tiêu đề ra: việc phân cấp (về nguyên tắc là đúng đắn và cần thiết) quá mức cho chính quyền địa phương cấp tỉnh về đầu tư (trong nước và ngoài nước), việc cấp đất, mở khu công nghiệp. đã tạo ra những chồng chéo và dư thừa đáng lo ngại về quá nhiều công trình đầu tư vào sân golf, bất động sản, nhà máy thép, nhà máy lọc dầu lớn nhỏ.
18 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 5755 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa tiền tệ và lạm phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát hay được nhắc tới.
- Chỉ số giá sinh hoạt (CLI): sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang bằng sức mua" để phản ánh khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới).
- Chỉ số giá sản xuất (PPI): đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.
- Ngoài ra, còn có nhiều phép đo khác như: chỉ số giá bán buôn, chỉ số giá hàng hóa, chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân...
1.3 Phân loại lạm phát
Do biểu hiện đặc trưng của lạm phát là sự tăng lên của giá cả hàng hóa, nên các nhà kinh tế thường dựa vào tỷ lệ tăng giá để làm căn cứ phân loại lạm phát ra thành ba mức độ khác nhau:
- Lạm phát vừa phải (lạm phát nước kiệu hay lạm phát một con số): xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng chậm ở mức độ một con số hàng năm (dưới 10% một năm). Loại lạm phát này thường được các nước duy trì như một chất xúc tác để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Lạm phát cao (lạm phát phi mã): xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ hai con số hàng năm (từ 10% - 100% một năm). Tuy nhiên, một số nhà kinh tế cũng cho rằng lạm phát phi mã bao gồm cả lạm phát ở mức độ ba con số như: 100%, 200%... Lạm phát phi mã gây ra nhiều tác hại đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Siêu lạm phát (lạm phát siêu tốc): xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ ba con số hàng năm trở lên. Người ta thường ví siêu lạm phát như căn bệnh ung thư gây chết người, có những tác hại rất lớn đến kinh tế - xã hội. Lịch sử lạm phát của thế giới đã ghi nhận tác hại của siêu lạm phát xảy ra ở Đức năm 1920 – 1923, ở Nga sau Cách mạng tháng 10, ở Trung Quốc sau thế chiến thứ hai…
* Ngoài ra, người ta còn phân loại lạm phát dựa vào việc so sánh hai chỉ tiêu là tỷ lệ tăng giá và tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Theo cách này lạm phát sẽ ở trong hai giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Ở giai đoạn này tỷ lệ tăng giá nhỏ hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Một bộ phận của khối tiền gia tăng về cơ bản đáp ứng nhu cầu lưu thông tiền tệ của nền kinh tế. Theo các nhà kinh tế, lạm phát ở giai đoạn này có thể chấp nhận được và thậm chí còn là liều thuốc để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Giai đoạn 2: Ở giai đoạn này tỷ lệ tăng giá lớn hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ, do lạm phát với tỷ lệ cao kéo dài đã làm cho nền kinh tế suy thoái. Hệ quả là khối lượng tiền phát hành vượt mức khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông. Trong trường hợp này lạm phát gây nguy hiểm trầm trọng cho nền kinh tế.
1.4 Nguyên nhân của lạm phát
Do tiếp cận ở nhiều góc độ nên có rất nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát:
1.4.1 Do cầu kéo.
Khi nền kinh tế đã đạt tới hay vượt quá mức sản lượng tiềm năng, việc tăng tổng cầu dẫn tới lạm phát được gọi là lạm phát do cầu kéo hay lạm phát nhu cầu. Số cầu tăng là do tổng khối lượng tiền lưu thông (M) tăng hoặc do tốc độ lưu thông tiền tệ (V) tăng. Số lượng tiền tệ tăng do nhiều yếu tố nhưng chủ yếu là do thiếu hụt ngân sách nhà nước. Số thiếu hụt này được tài trợ bằng nhiều cách: phát hành trái phiếu, vay mượn ở nước ngoài và vay mượn ở ngân hàng trung ương. Một khi ngân hàng trung ương tài trợ thâm hụt ngân sách nhà nước tức là ngân hàng trung ương đã trực tiếp làm tăng khối cung tiền. Vay mượn của nước ngoài cũng làm tăng khối tiền tệ. Khối tiền tệ tăng làm cho tổng số chi trả tăng, do đó gây ra áp lực lạm phát. Tốc độ lưu thông tiền tệ gia tăng chủ yếu là do hệ thống chính trị khủng hoảng, kinh tế suy thoái làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ tiền tệ nhà nước bị xói mòn, từ đó gây ra tâm lý chạy trốn đồng tiền mất giá.
1.4.2 Do chi phí đẩy
Khi chi phí sản xuất kinh doanh tăng sẽ đẩy giá cả tăng lên ngay cả khi các yếu tố sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ được gọi là lạm phát do chi phí đẩy. Nhiều nhà kinh tế cho rằng tiền lương tăng lên là một nguyên nhân đẩy chi phí tăng lên khi tốc độ tăng tiền lương cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Một số nhà kinh tế cho rằng việc đẩy chi phí tiền lương tăng lên là do các công đoàn gây sức ép. Tuy nhiên một số nhà kinh tế khác lại cho rằng chính công đoàn đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm tốc độ tăng của lạm phát và giữ cho lạm phát không giảm xuống quá nhanh vì các hợp đồng lương của công đoàn thường là dài hạn và khó thay đổi. Ngoài ra, các cuộc khủng hoảng về nhiên liệu, nguyên vật liệu cơ bản như dầu mỏ, sắt thép… cũng làm cho giá cả của nó tăng lên và đẩy chi phí sản xuất tăng lên, dẫn đến sức ép đòi tăng giá bán.
1.4.3 Do những nguyên nhân liên quan đến sự thiếu hụt mức cung
Khi nền kinh tế đạt đến mức toàn dụng (các yếu tố sản xuất: nhân công, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị… gần như đã được khai thác tối ưu) và tình trạng tắc nghẽn của thị trường làm mức cung hàng hóa và dịch vụ có khuynh hướng giảm dần. Dẫn đến tình trạng mất cân đối các yếu tố sản xuất giữa các khu vực nhưng thị trường lại không tạo ra cơ chế điều phối có hiệu quả, khiến cho khối lượng hàng hóa không thể đáp ứng đủ nhu cầu tăng lên của thị trường. Hàng hóa khan hiếm làm cho giá cả tăng lên, đó là hậu quả tất yếu. Mặt khác, ngay lúc nền kinh tế chưa đạt tới mức toàn dụng nhưng nếu cơ cấu kinh tế tổ chức bất hợp lý thì cũng không cho phép tạo ra khối lượng hàng hóa và dịch vụ đầy đủ để thỏa mãn nhu cầu ngày càng gia tăng của thị trường. Trường hợp này cũng làm nảy sinh hiện tượng lạm phát.
1.4.4 Những nguyên nhân khác
* Nguyên nhân chủ quan: chính sách quản lý kinh tế không phù hợp của nhà nước như chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách lãi suất… làm cho nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối, kinh tế tăng trưởng chậm ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì điều tất yếu là nhà nước phải tăng chỉ số phát hành tiền. Đặc biệt đối với một số quốc gia, trong những điều kiện nhất định, nhà nước chủ trương dùng lạm phát như một công cụ để thực thi chính sách phát triển kinh tế.
* Nguyên nhân khách quan: thiên tai, chiến tranh, tình hình biến động của thị trường nguyên vật liệu, nhiên liệu trên thế giới…
2 Tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay
2.1 Thực trạng
(1)
Theo như tài liệu thống kê được, hiện nay tỷ lệ đầu tư ở Việt Nam hiện nay là khá cao. Mà càng đầu tư cao, càng cần vốn, cần tín dụng, và vì không thể tăng năng suất do đó mà lạm phát. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là điểm sáng nổi bật nhất trong bức tranh kinh tế Việt Nam. Năm 2006, tổng số vốn FDI đăng ký mới và đầu tư bổ sung đạt trên 10,2 tỉ USD. Nhưng đến 2007, nguồn FDI đã tăng gần như gấp đôi là kết quả đạt được do sự ảnh hưởng của sự kiện Việt Nam trở thành hội viên của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) và trở thành thành viên không chính thức của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Tình hình đầu tư nước ngoài vào nươc ta kéo dài đến 2008. Từ 2009 tình hình dần đi vào ổn định khi thế giới xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế 2008, vì nhờ đó ngòi nổ về vốn đầu tư bị chặn lại.
Năm
Lượng vốn FDI nhận (tỷ USD)
2006
10.3
2007
20.3
2008
64
2009
21.48
2010
18.59
(2)
Bên cạnh đó, Kể từ khi các nhà tài trợ quốc tế nối lại viện trợ phát triển cho Việt Nam vào tháng 11/1993, Việt Nam đã tiếp nhận nguồn vốn ODA khá cao. Gần đây nhất, từ năm 2001 - 2008, số vốn ODA cam kết đạt 29,77 tỷ USD; số vốn đã ký kết đạt hơn 22 tỷ USD; giải ngân theo kế hoạch đạt 15,51 tỷ USD. Riêng năm 2009, trong tổng số vốn ODA cam kết hơn 6,1 tỷ USD, kế hoạch giải ngân vốn ODA năm 2009 là 1,9 tỷ USD nhưng đã giải ngân được khoảng 3,6 tỷ USD
Bảng thống kê tình hình cam kết và giải ngân ODA
( từ 2006 -> 2009 )
Năm
Cam kết
( Triệu USD )
Giải ngân
( Triệu USD )
Tỉ lệ Giải ngân
( % )
2006
4,445
1,790
40.27%
2007
5,250
2,000
38.10%
2008
5,500
2,136
38.84%
2009
6,144.4
3,600
58,59%
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư.
Số liệu trên đây cho thấy mức độ giải ngân nguồn vốn ODA trong các năm gần đây đã được cải thiện đáng kể, nhưng tính ra thì vẫn còn chậm. Cũng đã có những nỗ lực trong việc sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi và dài hạn này, thể hiện ở tỷ lệ giải ngân đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên vẫn còn 1 số rào cản cần phải khắc phục để tăng số vốn giải ngân trong những năm tiếp theo. Trước tình hình đất nước đuợc sự đầu tư khá lớn như thế giúp cho tỷ lệ tăng trưởng GDP 2006-2007 khá cao
Từ năm 2007 mở đầu cho sự kiện Việt Nam vào WTO với dòng tư bản ồ ạt chảy vào tức là vay mượn tăng, dòng chảy tư bản nước ngoài đổ vào, tín dụng tăng, chi tiêu nhà nước tăng. Lạm phát nhanh chóng tăng ở mức 28% vào năm 2008. Thiếu hụt cán cân thanh toán tăng. Và sau đó ngòi nổ xẹp vì kinh tế thế giới khủng hoảng. May là có khủng hoảng, cắt đứt dòng chảy tư bản vào Việt Nam. Vấn đề là Việt Nam vẫn đặt các chỉ tiêu tăng trưởng cao, tiếp tục chi tiêu quá mức, lần này là với lý do nhằm làm giảm ảnh hưởng tiêu cực từ khủng hoảng kinh tế thế giới. Tất nhiên bội chi ngân sách tăng rất cao.
Bội chi ngân sách 2005-2009
Để cải thiện thâm hụt ngân sách một phần chính phủ sử dụng nguồn vay nước ngoài, điều đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Lạm phát cao năm 2007- 2008 là do giá thị trường thế giới tăng mạnh. Như giá xăng dầu thời điểm từ tháng 3 đến tháng 4 giá xăng dầu thế giới tăng làm cho giá xăng dầu trong nước tăng từ 13000 đồng lên 14500 đồng. Hay tính bình quân trong tháng 6/2007 giá phôi thép nhập khẩu là 513 USD/tấn, so với giá bình quân năm 2006 đã tăng tới 124 USD/tấn, cộng với thuế nhập khẩu, chí phí vận chuyển và 50 USD chi phí cán, cùng 5% thuế VAT, giá xuất xưởng chưa tính phí vận chuyển nội địa và hoa hồng đại lý đã là 10.132.709 đồng/tấn. Mặt khác do phương tiện thanh toán của khối M2 tăng cao (vì sao??!!). vì thế, nếu chúng ta sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ tốt hơn, khống chế tổng phương tiện thanh toán (M2) và tổng dư nợ tín dụng 2007 hợp lý hơn thì lạm phát sẽ được giảm thiểu. Do đó. khi lạm phát đã tăng ở trong mức rất cao, nếu chúng ta kết hợp tốt chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ một cách hợp lý thì sẽ không dẫn đến tình trạng rối loạn thanh khoản trong hệ thống ngân hàng ở đầu năm.
Từ cuối năm 2007 với cảnh báo về chất lượng tăng trưởng thấp, chất lượng cuộc sống của người dân bị giảm sút, song quyết tâm của Chính phủ rõ ràng là phải đạt được những thành tựu ấn tượng, vượt lên trên tất cả các thời kỳ trước đây. Ý chí và mục tiêu đó được sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế và các nhà ngoại giao qua những lời ca tụng không ngớt về những thành tựu nổi bật của Việt Nam, về vị thế mới của Việt Nam trên trường quốc tế (thành viên WTO, lần đầu tiên được bầu là thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc...) và về dòng vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp và gián tiếp ào ạt đổ vào trong nước. Trước những thay đổi mạnh mẽ về luồng vốn, tác động từ bên ngoài như vậy, lẽ ra phải thực hiện ngay những cải cách cơ cấu và thể chế cần thiết để nâng cao năng lực giám sát, quản lý các lĩnh vực trọng yếu như ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách hành chính theo hướng mở rộng công khai minh bạch, mở rộng sự tham gia giám sát của các nhà khoa học, hiệp hội chuyên môn trong quá trình chuẩn bị quyết định, soạn thảo chính sách. Song, trên thực tế Chính phủ đã dồn dập triển khai các biện pháp và các công trình để đạt các mục tiêu đề ra: việc phân cấp (về nguyên tắc là đúng đắn và cần thiết) quá mức cho chính quyền địa phương cấp tỉnh về đầu tư (trong nước và ngoài nước), việc cấp đất, mở khu công nghiệp... đã tạo ra những chồng chéo và dư thừa đáng lo ngại về quá nhiều công trình đầu tư vào sân golf, bất động sản, nhà máy thép, nhà máy lọc dầu lớn nhỏ. Hệ quả là bên cạnh sự năng động và tăng nhanh về số lượng, các quyết định hàng tỉ Đô la Mỹ ở các địa phương, tập đoàn kinh tế, liên quan đến năng lượng, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực ở tầm kinh tế quốc dân, rất hệ trọng cho quốc kế dân sinh đã được quyết định một cách nhanh chóng, thiếu sự thẩm định cần thiết của các chuyên gia, hội đồng thẩm định có chuyên môn ở các bộ, ngành và thiếu sự tham gia của các tổ chức quần chúng. Điều tất yếu phải đến đã đến là cung tín dụng tiếp tục tăng trên 50%, lạm phát tăng vọt lên 25%, nhập siêu vượt quá mức an toàn, thị trường chứng khoán sụt giảm kỷ lục, bong bóng thị trường bất động sản bị vỡ, hay theo lời một bộ trưởng là những diễn biến đáng “giật mình”..
Năm 2009 ,tình hình lạm phát được cải thiện, nhưng vẫn còn ở múc cao do biến đổi bất định về tỷ giá. Thực tế, đầu năm 2009 tỷ giá giao dịch liên ngân hàng được niêm yết ở mức 16975/USD nhưng đến giữa tháng 2 tỷ giá này được niêm yết ở mức 18.554 (nguồn : báo Vneconomy) và giảm còn 17941?USD vào cuối năm 2009.
Và tại thởi điểm dó, các nhà kinh tế đã dự báo: Nguy cơ lạm phát cao năm 2010 không chỉ đến từ sự tăng giá của thị trường thế giới mà còn có thế đến từ những bất ổn kinh tế vĩ mô ở trong nước . và thực tế đã diễn ra như vậy, dẫn đến sự bất ổn khá mạnh của chỉ số giá tiêu dùng ở 2010. Từ đầu năm đến cuối tháng 8/2010, CPI có chiều hướng tích cực hứa hẹn những kết quả khả quan. Tuy nhiên từ 9/2010, CPI bắt đầu có dấu hiệu tăng cao.
2.2 Nguyên nhân
- Lượng ngoại tệ vào Việt Nam
Nguồn vốn vay và viện trợ từ nước ngoài tăng cao (FDI, ODA, FII...) : với một lượng vốn vay và đầu tư khá cao vào Việt Nam trong thời gian qua đã làm lượng cung tiền trên thị trường tăng lên khá mạnh. Đứng trước bối cảnh này, Ngân hàng nhà nước đã phải cung ứng một lượng lớn tiền VND để mua ngoại tệ vào nhằm mục tiêu ổn định và phá giá nhẹ tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và điều này làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng cao, tác động làm lạm phát gia tăng. Trong giai đoạn 2006-2010 tình hình kinh tế thế giới cũng biến động rất mạnh làm cho giá cả của hàng loạt các nguyên liệu như: xăng dầu, sắt thép, và lương thực đều tăng mạnh, kích hoạt cho một đợt tăng giá mạnh mẽ của hầu hết các hàng hóa và dịch vụ trong nước. Để ổn định nền kinh tế và kích thích tiêu dùng chính phủ đã thu hút đầu tư nước ngoài bằng nhiều biện pháp ưu đãi, làm cho nguồn cung tiền tệ trong lưu thông càng lớn đã dẫn đến lạm phát. Lượng ngoại tệ này có thể là vốn vay, vốn đầu tư, tiền trợ cấp...nhưng với hình thức vốn vay là khá cao và làm tăng lên gánh nặng nợ cho chính phủ
Lượng kiều hối đổ vào tăng cao cũng là một lý do tiềm ẩn thúc đẩy cung tiền tệ trong nước tăng nhanh. Theo thống kê hiện nay, số lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài là 66000 người , số kiều bào là 3 triệu.Trong đó có khoảng 2.5 triệu người có thể gửi số tiền đáng kể về Việt Nam, trung bình một người một năm có thể gửi 1200USD( 2005) thì đến 2010 là 2800USD ( theo nguồn Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn)
Kiều hối hàng năm- báo cáo của Việt Nam cho NH Phát Triển châu Á (ADB)
Năm
2006
2007
2008
2009
2010
Lượng kiều hối (triệu USD)
3800
6180
6804
6018
7200
Mức độ tăng %
21
63
10
-12
20
( nguồn Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn)
Tăng ngoại tệ nhờ xuất khẩu( timg hiểu mặt hàng chủ lực để xuất tgian nay)
Năm
2006
2007
2008
2009
2010
Lượng ngoại tệ (tỷ USD)
39.6
48.4
62.9
56.6
71.6
( nguồn Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn)
- Chi tiêu công không hiệu quả:
Chính phủ đã in tiền ra chi tiêu để bù đắp vào phần thiếu hụt của Ngân sách và cho các tổ chức kinh tế khác vay để đầu tư sản xuất, xây dựng cơ bản… nhưng Chính phủ không có được vật đối chứng để đảm bảo giá trị đồng tiền vì vậy đã tạo áp lực gây ra sự mất cân đối tiền- hàng trong nền kinh tế, gây ra lạm phát.
Việc tăng chi tiêu của chính phủ đã làm tăng thâm hụt NSNN, để bù đắp thâm hụt chính phủ phải tăng vay trong thị trường nội địa bằng phát hành trái phiếu, để huy động đủ nguồn vốn cần thiết chính phủ phải tăng lãi suất huy động cao hơn lãi suất tín dụng dẫn đến lạm phát
- Cơ chế quản lý:
Một thực tế cần phải thừa nhận là điều tiết vĩ mô của chúng ta trước những biến động bất thường cả từ trong và ngoài nước để nhằm bình ổn thị trường trong nước còn nhiều bất cập. Các quyết định quản lý được đưa ra để điều tiết thị trường thường là chậm trễ, vì thế hiệu quả điều tiết kém. Tình trạng độc quyền, đầu cơ trục lợi vẫn còn phổ biến dẫn đến thao túng, gây rối loạn thị trường, quản lý kém đã dẫn đến tình trạng tham nhũng, lãng phí trong đầu tư xây dựng rất lớn đã dẫn đến nhiều bất ổn trong nền kinh tế. Nguồn vốn được huy động dễ dàng đã tạo tâm lý chủ quan và hưởng thụ trong một bộ phận không nhỏ của cộng đồng doanh nghiệp.
Với việc ưu tiên cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chính phủ đã khuyến khích cho “chính sách tài chính và chính sách tiền tệ nới lỏng” thực hiện trong nhiều năm nhưng quản lý chưa chặt chẽ. Năm 2009, chính sách tiền tệ được mở rộng, lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc được ấn định ở mức thấp. Tăng trưởng tín dụng năm 2009 lên đến 37.74%, và là mức khá cao so với trung bình những năm vừa qua. Tăng trưởng cung tiền M2 lên mức 28.7%, mức tăng này thấp hơn so với năm 2006 và 2007, nhưng vẫn khá cao so với năm 2008 và những năm còn lại trước đó.
Từ năm 2000 đến năm 2009, tín dụng trong nền kinh tế tăng hơn 10 lần, cung tiền M2 tăng hơn 7 lần, trong khi đó GDP thực tế chỉ tăng hơn 1 lần. Điều này tất yếu dẫn đến đồng tiền bị mất giá. Thực tế chúng ta dễ nhận thấy là lạm phát ở Việt Nam cao hơn rất nhiều so với các quốc gia khác trong cùng thời kỳ, mặc dù cùng chịu chung cú sốc tăng giá của hàng hóa thế giới.
Tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế tăng mạnh trong một thời gian dài nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế là một nguyên nhân quan trọng làm gia tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Các ngân hàng cũng mở rộng tín dụng bằng việc nới lỏng điều kiện cho vay, cạnh tranh nhau bằng giảm lãi suất cho vay, tăng lãi suất huy động để tìm kiếm nguồn vốn cho vay,chuyển đổi mô hình, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tập đoàn để tăng vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới nhanh chóng vượt quá khả năng quản trị, cho thành lập thêm các ngân hàng mới và tất cả các ngân hàng chủ yếu đua nhau tìm kiếm lợi nhuận từ nghiệp vụ cho vay nên càng làm cho tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng cao đó là nguyên nhân rất quan trong gây sức ép rất lớn làm gia tăng lạm phát trong thời gian qua.
Năm 2007-2008: với nguồn vốn đầu tư nước ngoài đổ vào nhiều như vậy lẽ ra chính phủ phải thực hiện ngay những cải cách cơ cấu và thể chế để nâng cao năng lực giám sát, quản lý các lĩnh vực trọng yếu như ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản... Song, chính phủ đã dồn dập đầu tư một lượng vốn khổng lồ để triển khai các công trình chưa thật sự cần thiết nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng đề ra. Hệ quả là bên cạnh việc tăng nhanh của mình nền kinh tế đã phải đối mặt với nhiều mất cân đối, các tập đoàn kinh tế nhanh chóng tranh thủ sự lỏng lẻo về giám sát và quản lý của các cơ quan nhà nước đã đồng loạt đầu tư sang các lĩnh vực “thời thượng” như chứng khoán, đầu tư tài chính, bất động sản, thậm chí cả tham gia lập các ngân hàng thương mại; tiêu dùng cá nhân cũng không ngừng gia tăng. Điều này đã làm cho tình hình lạm phát tăng cao mức kỷ lục đến 25%.
Do cầu kéo:
Do đầu tư bao gồm đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp tăng, làm nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu và thiết bị công nghệ tăng; thu nhập dân cư, kể cả thu nhập do xuất khẩu lao động và người thân từ nước ngoài gửi về không được tính vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cũng tăng, làm xuất hiện trong một bộ phận dân cư những nhu cầu mới cao hơn. Biểu hiện rõ nhất của lạm phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị trường thế giới tăng, làm giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình quân của nước ta năm 2007 tăng trên 15% so với năm 2006) kéo theo cầu về lương thực trong nước cho xuất khẩu tăng. Trong khi đó, nguồn cung trong nước do tác động của thiên tai, dịch bệnh không thể tăng kịp; gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương thực thực phẩm tăng theo.
Do chi phí đẩy: Ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới: nền kinh tế nước ta phụ thuộc rất lớn vào lượng nhập khẩu và nước ta theo cơ chế tỷ giá hối đoái cố định, gắn đồng tiền trong nước với USD. Vì vậy, giá nguyên liệu, nhiên liệu ( đặc biệt là xăng dầu, các sản phẩm hoá dầu, thép và phôi thép…) trên thế giới trong những năm gần đây tăng mạnh đã làm tăng giá thị trường trong nước. Nhân tố này chủ yếu là do giá cả các mặt hàng mà Việt Nam nhập khẩu trên thị trường thế giới tăng lên, tập trung là giá xăng dầu, phôi thép, nguyên liệu nhựa, phân đạm Urê, bột giấy, thuốc chữa bệnh, vật phẩm y tế..., làm cho giá bán lẻ trong nước cũng tăng lên. Tình hình đó làm cho chi phí của một loạt lĩnh vực trong nước không ngừng tăng lên, nhất là giao thông vận tải...Bên cạnh đó chi phí xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu, ... của người nông dân cũng tăng cao. Giá sắt thép tăng làm cho ngành xây dựng và cơ khí chế tạo tăng chi phí. Nguyên liệu nhựa và bột giấy tăng... cũng làm cho chi phí của một loạt ngành sản xuất và một loạt sản phẩm phải tăng giá bán lên.
Đặc biệt là sự biến động lớn của thị trường bất động sản, hệ lụy của nó là vô cùng lớn. Đáng nhẽ các nguồn tiền nhãn rỗi trong nền kinh tế đặc biệt là trong dân cư phải được tập trung để đầu tư phát triển sản xuất thì nay mọi người lại dồn hết tiền để kinh doanh bất động sản gây rối loạn thị trường này, đẩy giá bất động sản tăng hàng chục lần. Do vậy giá thuê mặt bằng để sản xuất, thuê cửa hàng để kinh doanh cũng tăng lên tương ứng, đẩy chi phí sản xuất lên cao.
Như vậy qua nghiên cứu về diễn biến chỉ số tăng giá hàng tiêu dùng nói chung và diễn biến lạm phát nói riêng trong những năm qua, có thể khẳng định, lạm phát ở nứơc ta là lạm phát giá cả. Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí đẩy, quản lý vĩ mô kém, có một yếu tố nhỏ là cầu kéo và yếu tố tâm lý dân chúng.
2.3 Một số giải pháp để kiềm chế lạm phát:
Từ những nguyên nhân được nêu ra ở trên chúng ta đã thấy được mối quan hệ mật thiết giữa tiền tệ và lạm phát. Biết được những nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở nước ta trong thời gian vừa qua, từ đó đề ra những giải pháp khắc phục một cách hợp lý.
Để nền kinh tế phát triển tốt và ổn định thì đồng tiền phải được ổn định, vững chắc. Vì vậy, phải biết kết hợp đồng bộ các chính sách về tiền tệ với chính sách tài khóa và chính sách tỷ giá để nâng cao hiệu quả đầu tư của kinh tế nhà nước, giảm bớt sức ép của chính sách tiền tệ đến hoạt động của các ngân hàng, bảo đảm các doanh nghiệp có nguồn tín dụng để mở rộng đầu tư, làm cho việc chống lạm phát không ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng và việc làm.
Sử dụng biện pháp thắt chặt tiền tệ một cách chủ động, linh hoạt, thận trọng. Xuất phát từ nhận định lạm phát thường xuất hiện khi lượng tiền trong lưu thông tăng nên cần hạn chế lượng tiền trong lưu thông, quản lý chặt chẽ việc cung ứng tiền. Quản lý và hạn chế khả năng “tạo tiền” của ngân hàng thương mại bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, siết chặt tín dụng. Nâng cao lãi suất tín dụng để thu hút tiền mặt trong nền kinh tế-xã hội nhằm làm giảm lượng tiền cung ứng, giảm khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng thương mại, bảo đảm an toàn hệ thống và nâng cao được khả năng thanh khỏan trong hoạt động ngân hàng.
Sử dụng chính sách tài khóa: thực hiện từng bước kế hoạch giảm thâm hụt để tiến tới cân bằng ngân sách. Thắt chặt chi tiêu của chính phủ; kiểm soát chặt chẽ đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước; giảm mạnh chi phí hành chính trong các cơ quan nhà nước nhằm giảm bớt sức ép về cầu nhất là các loại cầu không tạo ra hiệu quả. Với các dự án, cần loại bỏ những dự án đầu tư kém hiệu quả, thắt chặt những khoản chi chưa thực sự cần thiết nhưng tạo mọi điều kiện cho đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng.
Sử dụng công cụ tỉ giá: Nên điều chỉnh tăng nhẹ VND so với USD. Điều này cũng phù hợp với việc đồng đô la Mỹ liên tục bị giảm giá so với các đồng tiền khác. Tăng nhẹ giá trị VND tuy có ảnh hưởng đến xuất khẩu nhưng không quá lớn. Tăng giá VND sẽ làm giá hàng nhập khẩu giảm, tăng nguồn cung, có tác dụng giảm mức tăng giá trên thị trường nội địa, nhất là trong điều kiện nhập khẩu hiện chiếm tỉ lệ cao trong GDP của nước ta. Tăng giá VND cũng góp phần kìm giữ giá luơng thực hiện đang tăng tăng cao và có khả năng còn tiếp tục tăng trước nhu cầu của thị trường thế giới.
Bảo đảm ổn định, an toàn của hệ thống tài chính - ngân hàng. Chính phủ giao NHNN kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng; tăng cường công tác thanh kiểm tra, giám sát để đánh giá được thực trạng hoạt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mối quan hệ giữa tiền tệ và lạm phát.docx