_ Hiện nay Technoimport đang kinh doanh với một lượng vốn nhỏ hẹp do Nhà nước cấp xuống. Với khối lượng vốn quá ít cũng khiến cho hoạt động kinh doanh của Công ty không đạt hiệu quả gây ra nhỡ các hợp đồng đã kí hoặc không thể kí kết được hợp đồng. Do vậy, Công ty sử dụng lượng vốn từ nhà nứơc cấp xuống không đạt hiệu quả và làm thất thoát lãng phí nguồn vốn của mình
_ Trình độ lao động của Công ty còn nhiều hạn chế, với nguồn nhân lực có nhiều kinh nghiệm nhưng sự nhạy bén và sự linh hoạt trong lĩnh vực kinh doanh còn nhiều hạn chế, tốc độ nhận biết thông tin và đưa ra các quyết định còn chậm chạp thiếu sắc bén, trình độ quản lý và lãnh đạo của hệ thống cán bộ chưa đủ để đáp ứng với yêu cầu của thời kì đổi mới.
49 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1144 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác giao dịch và hợp đồng xuất nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c.
+ Chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người: trong những năm qua, song song với việc tạo đủ công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên thì thu nhập của người lao động không ngừng tăng lên. thu nhập bình quân năm 2000 đạt 1,1 triệu đồng một người một tháng. Đến năm 2001 con số này là 1,42 triệu đồng và đến năm 2002 là 1,13 triệu đồng và sau đó lại tăng ổn định đến năm 2004 đạt 1,25 triệu đồng
Những chỉ trên đã đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh thực tế của Công ty trong những năm qua. Đây là Công ty mà chức năng chính là XNK và giao dịch, do vậy hàng năm Công ty đã thu chi một lượng lớn giá trị hàng XNK và tổng kim ngạch xuất nhập khẩu được thống kê như sau
Bảng 7: kim ngạch xuất nhập khẩu 2000 - 2004
Chỉ tiêu (1000USD)
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Tổng kim ngạch XNK
Tổng kim ngạch XK
Tổng kim ngạch NK
21077
4875
15696
31051
11777
19273
24882
5853
19028
27092
6221
20871
27110
6012
21098
Nguồn: phòng xuất nhập khẩu
Đối với hoạt động XNK của Công ty trong khi kim ngạch hàng năm trước đây luôn ở mức lớn hơn 20 triệu USD thì trong 5 năm từ 2000-2004 chỉ dao động trên dưới 10 triệu USD. Đây vẫn có thể được coi là thành tích đáng kể của Công ty bởi Công ty không còn được độc quyền XNK máy móc thiết bị toàn bộ như trước nữa.
Tình hình hoạt động XNK trong những năm qua có sự giảm sút song Công ty cũng đã hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra về kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm. sự sút giảm này có thể được lý giải bởi một số lí do khách quan và chủ quan sau: Nhà nước sửa đổi cơ chế chính sách XNK, vấn đề nội lực yếu kém của Công ty, vấn đề thị trường xuất khẩu của Công ty, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật..., làm cho Công ty khó theo kịp điều kiện môi trường. Trong 3 năm trở lại đây từ 2002-2004 tổng kim ngạch XNK không ngừng tăng, năm 2003 tăng so với năm 2002 là 8,9 % và năm 2004 tăng so với năm 2003 là 0,07 %.
Công ty đã không ngừng mở rộng và tăng cường xuất khẩu các loại mặt hàng sang các nước và mở rộng thị trường xuất khẩu ra nhiều nứơc trên thế giới. Tính đến nay thị trường xuất khẩu của Công ty đã mở rộng đến 56 nước và có trên 35 mặt hàng xuất khẩu. Tiêu biển là một số mặt hàng xuất khẩu và thị trường nhập khẩu chính của Công ty
Bảng 8: Một số mặt hàng và thị trường xuất khẩu chủ yếu của Công ty:
Tên hàng xuất khẩu
Nước nhập khẩu
Cao su
Động cơ diesel
Than
Bia chai
Cà phê
Đồ mây tre đan
Gốm sứ
Hồ tiêu
Hàng thêu, ren...
Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, ...
Đài Loan, Singap0re
Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc
Mĩ, Canada, Pháp
Hàn Quốc, Hà Lan, Anh
Đức
Thuỵ Điển
Singapore
Đài Loan, Đức, ...
Nguồn: Phòng xuất nhập khẩu
Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Công ty là những mặt hàng thuộc ngành công nghiệp nhẹ, những nguyên vật liệu thô chưa qua chế biến hoặc chế biến còn dở dang. Tuy nhiên so sánh về kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu thì kim ngạch xuất khẩu rất nhỏ chỉ chiếm bằng 25%-30%kim ngạch nhập khẩu, tỉ lệ chênh lệch này đang được ban lãnh đạo Công ty có những giải pháp để điều chỉnh cho hợp lý hơn
Trên đây là một số kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kĩ thuật, qua đó chúng ta thấy được một phần tình hình sản xuất kinh doanh hiện nay nhìn chung hoạt động kinh doanh của Công ty là có hiệu quả, làm ăn nghiêm túc, thực hiện nghiêm chỉnh và đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước. Kết quả này thể hiện sự nỗ lực cố gắng của toàn bộ tập thể cán bộ công nhân viên, sự lãnh đạo sáng suốt của ban lãnh đạo Công ty. Điều đó cần được duy trì và phát huy
Tuy nhiên quá trình kinh doanh là quá trình từ hoàn thiện mình mà trước hết là trong nghiệp vụ kinh doanh, kinh doanh XNK vô cùng khó khăn phức tạp, bao gồm nhiều hoạt động, nghiệp vụ tác nghiệp từ thủ tục hải quan, kiểm dịch, kiểm hoá hàng hoá, thuê tầu vận chuyển, thanh toán, ..., mỗi hoạt động cần phải phối hợp đồng bộ và nhịp nhàng, cần tự hoàn thiện mình để tiếp tục phát triển.
3.2. Các thành tựu khác
Trong 46 năm qua, Technoimport đã có nhiều đóng góp lớn lao cho sự phát triển của đất nước. Có rất nhiều các phong trào đền ơn đáp nghĩa, xây dựng quỹ vì người nghèo quyên góp ủng hộ các vùng lũ lụt trong cả nước, góp quỹ cho các cháu nhiễm chất độc màu da cam,... được thể hiện qua
Năm 1999 đóng góp 15 triệu và năm 2001 đóng góp 25 triệu để xây dựng nhà tình nghĩa cho các bà mẹ Việt Nam anh hùng và cho các gia đình chính sách có hoàn cảnh neo đơn.
Năm 1999 ủng hộ 30 triệu đồng và năm 2003 ủng hộ 50triệu đồng cho đồng bào bị lũ lụt ở miền Trung và miền Nam và có nhiều đóng góp khác như năm 2004 đóng góp 12 triệu cho các cháu bị nhiễm chất độc màu da cam... Đây phải nói Công ty rất cso trách nhiệm đối với xã hội, đã góp nhiều của cải vật chất, công sức để xây dựng một xã hội tiến bộ góp phần lớn cho công việc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa...
4. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác giao dịch và hợp đồng xuất nhập khẩu
4.1. Chính sách thuế của Nhà nước
Từ khi mở cửa hội nhập kinh tế thị trường, nước ta liên tục có những chính sách thuế và cải tiến chính sách thuế tạo ra môi trường kinh doanh không ổn định và luôn luôn thay đổi. Những biến đổi này luôn luôn tác động sấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh và giao dịch trong hợp đồng XNK. Trong điều kiện nước ta hiện nay, chính phủ chưa thể đưa ra một mức thuế nhất định và hợp lí để kích thích và thúc đẩy các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh. Nếu mức thuế đưa ra có thể thấp hơn mức hợp lí có lẽ có thể không khuyến khích thúc đẩy hoạt động kinh doanh thậm chí còn kinh doanh các mặt hàng trái pháp luật... còn nếu mức thuế đưa ra cao hơn khả năng so với mức thuế hợp lí có thể kìm hãm và tạo ra sự chốn thuế và triệt tiêu khả năng kinh doanh của Công ty. Đối với Technoimport với chức năng XNK còn có các loại thuế chính là thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Kể từ ngày 1/1/1999 khi bắt đầu áp dụng biểu thuế XNK 1999 và hai sắc thuế mới là thuế giá trị gia tăng và thuế lợi tức doanh nghiệp cùng với những thay đổi các văn bản pháp qui có liên quan đến hai sắc thuế này đã dẫn đến những biến đổi trong hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn đối với hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ và thiết bị lẻ, thì biểu thuế XNK ưu đãi năm 1999 đã có giá trị từ ngày 1/1/1999 nhưng đến ngày 7/4/1999 Bộ Tài Chính mới ban hành thông tư số 37/1999/TT/BTC hướng dẫn về cách phân loại hàng hoá nên đã xuất hiện rất nhiều vướng mắc về phương thức áp dụng mã thuế nhập khẩu. Phía hải quan do không thể từ quyết định phương thức áp dụng mã thuế XNK nên đã chọn phương thức có mã thuế cao nhất, điều này gây thiệt hại cho các Công ty XNK và trong đó có cả Technoimport
Thuế VAT là khoản thuế tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh nhằm tránh tình trạng đánh thuế chồng lên nhau. tuy nhiên phương thức tính thuế VAT cùng với những qui định về áp dụng thuế VAT tỏ ra thiếu chính xác và chưa toàn diện đã gây trở ngại cho Technoimport.
Nhìn vào công thức tính VAT đối với hàng nhập khẩu có thể thấy rằng thuế VAT đã đánh chồng lên thuế nhập khẩu.
4.2. Chính sách tài chính và tín dụng quốc gia
Kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế yếu kém, nền tài chính nhỏ bé không thể làm đồng tiền mạnh để thanh toán trong các hợp đồng kí kết mua bán XNK hàng hoá giữa nước ta với nước ngoài. Hàng năm kim ngạch xuất khẩu của nước ta ra nước ngoài chỉ đạt trên 20 tỉ USD. Do vậy, đồng tiền Việt Nam phụ thuộc chủ yếu vào tỉ giá các ngoại tệ mạnh như: đồng USD, đồng EURO, nhân dân tệ, Yên Nhật....Nếu đồng EURO mạnh hơn USD thì Technoimport xuất khẩu sang thị trường châu Âu sẽ có lợi nhuận lớn hơn xuất khẩu sang thị trường Mĩ và thị trường sử dụng đô la Mĩ là chủ yếu và ngược lại. Nếu kim ngạch xuất khẩu hàng năm tăng lên, tỉ lệ lạm phát giảm kéo theo kinh tế xã hội đất nước phát triển thì đồng tiền VND sẽ mạnh dần lên và điều đó sẽ có lợi cho Technoimport
Nhà nước hàng năm có thể điều chỉnh và phát hành một lượng tài chính có thể làm tăng lượng cầu ở trong nước và khuyến khích xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài tạo điều kiện thuận lợi, bên cạnh đó chính sách tài chính của Nhà nước có thể thu gom tài chính bằng những biện pháp ở mọi nguồn từ dân cư, các doanh nghiệp, các Công ty tài chính..., để làm giảm tỉ lệ lạm phát, làm tăng giá trị đồng VND so với ngoại tệ, hàng ngày tỉ giá hối đoái của VND so với các ngoại tệ vẫn biến động, tuy nhiên hiện nay đã tương đối ổn định.
4.3. Cơ sở hạ tầng, công nghệ và thiết bị máy móc của Công ty
Công ty có một hệ thống các chi nhánh, văn phòng đại diện ở trong và ngoài nước. Hệ thống chi nhánh và văn phòng này tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyên môn hoá trong hoạt động của Công ty. Các văn phòng đại diện của Công ty ở nước ngoài giúp cho việc thu thông tin của khách hàng, giám sát việc thực hiện hợp đồng cũng như đảm bảo quyền lợi của Công ty khi xảy ra tranh chấp.
Tuy nhiên, hàng loạt các đơn vị trực thuộc, các chi nhánh, văn phòng đại diện ở trong và ngoài nước của Công ty chủ yếu hoạt động đơn lẻ, thiếu liên kết, thiếu vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cho cơ sở hạ tầng của Công ty tạo nên bộ mặt không sánh sủa trong hoạt động kinh doanh ...
Chẳng hạn trụ sở chính của Công ty tại 16-18 Tràng Thi rất nhỏ bé, không thuận tiện cho công tác giao dịch, giao thông đi lại không thuận tiện chỉ có một tuyến đường một chiều chạy qua và đường phố lại nhỏ hẹp, các văn phòng và các phòng làm việc trật hẹp, đơn giản, thiếu nhiều phòng làm việc, các bãi và các nơi dùng để chứa và vận chuyển XNK cũng rất thiếu.
Về công nghệ và thiết bị máy móc của Công ty: tuy Công ty đã đưa vào và ứng dụng nhiều những trang thiết bị kĩ thuật, máy móc hiện đại vào hoạt động kinh doanh XNK như máy tính, máy kiểm tra kĩ thuật hàng hoá trước khi giao nhận hàng song so với yêu cầu của sự phát triển kinh tế và so với yêu cầu của thị trường thì không thể cạnh tranh nổi vì hầu hết các đối thủ cạnh tranh đều có công nghệ hiện đại, trang thiết bị kĩ thuật máy móc tiên tiến. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này ở Công ty là do thiếu vốn, không đủ vốn để đầu tư trang thiết bị kĩ thuật máy móc hiện đại, đa số các trang thiết bị máy móc đang phục vụ cho Công tác XNK còn cũ kĩ lạc hậu, hầu hết các loại công nghệ, máy móc kĩ thuật được mua mới còn quá ít mặt khác lại rất không đồng bộ với các loại máy móc hiện đang sử dụng dẫn đến phát sinh nhiều chi phí mà hạn chế vẫn chưa được giải quyết thoả đáng. Điều này chứng tỏ rằng để tiếp tục đứng vững và phát triển trong điều kiện môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt và quyết liệt như hiện nay thì Technoimport phải chú ý hơn nữa tới việc đầu tư đổi mới trang thiết bị máy móc để có thể đáp ứng tốt các yêu cầu của công việc, chỉ có trên cơ sở đó hoạt động kinh doanh của Công ty mới có thể ngày càng có hiệu quả.
4.4. Trình độ lao động, trình độ quản lý và lãnh đạo Công ty
Technoimport đi vào hoạt động kinh doanh cho tới nay với tổng số lao động hiện có là 214 người. Trong đó trình độ đại học và trên đại học là 172 người chiếm 84,8%, còn lại là dưới đại học 42 người chiếm 19,6%. Công ty có đội ngũ cán bộ, lao động có trình độ cao và đủ trình độ để thực hiện các công việc phức tạp trong hoạt động thương mại quốc tế như: giao dịch, đàm phán, thanh toán quốc tế... ở mỗi phòng XNK các nhân viên, trưởng, phó phòng có thể giao dịch trực tiếp với khách hàng nước ngoài từ một đến hai thứ tiếng thông dụng như tiếng Anh tiếng Pháp. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty trong việc chủ động làm ăn với khách hàng nước ngoài, tiết kiệm được thời gian và chi phí trong giao dịch, đàm phán. Mặt thuận lợi nữa là Công ty còn có ban lãnh đạo hết lòng vì công việc, có bản lĩnh kinh doanh, dám nghĩ , dám làm và dám chịu trách nhiệm. Toàn thể cán bộ nhân viên Công ty sống hoà thuận, có khả năng hợp tác cao.
Tuy nguồn nhân lực của Công ty có nhiều kinh nghiệm nhưng hầu hết đều đã cao tuổi nên sự nhạy bén và linh hoạt trong kinh doanh còn nhiều hạn chế, tốc độ nhận biết thông tin và đưa ra quyết định còn chậm chạp thiếu sắc bén, trình độ quản lý và lãnh đạo của hệ thống cán bộ Công ty còn nhiều hạn chế...
4.5. Sự biến động của môi trường kinh doanh trong nước và ngoài nước
Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa được gần 20 năm, Nhà nước ta đã cải tiến, sửa đổi luật pháp, chính sách thuế, chính sách đầu tư trong và ngoài nước tạo ra cho cơ chếe làm ăn thông thoáng của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Sự hợp tác làm ăn buôn bán với nước ngoài được mở rộng tạo thành khối liên minh liên kết môi trường kinh doanh thống nhất và thị trường chung.
Technoimport là Công ty có chức năng chính là giao dịch và XNK. Công ty phụ thuộc rất nhiều vào môi trường kinh doanh trong nứơc và quốc tế. Mọi sự biến động của môi trường trong nước và quốc tế dù lớn hay nhỏ đều có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của Technoimport
Trong thời gian qua, Việt Nam đã và đang chuẩn bị gia nhập các tổ chức như: tổ chức thương mại thế giới, hội nhập AFTA... khi gia nhập vào các tổ chức này thì thị trường trong khối là thị trường chung và chơi cùng sân chơi, mọi hàng rào thuế quan đều ít nhiều bị xoá bỏ. Điều này tạo cho Công ty có cơ hội làm ăn mới và tiếp xúc mở rộng tìm hiểu các thị trường mới. Ngược lại, Công ty cũng sẽ gặp không ít những khó khăn mới nảy sinh với các đối thủ cạnh tranh có công nghệ hiện đại với cách thức cạnh tranh rất phong phú.
Thị trường thế giới có nhiều biến động có thể tạo ra cơ hội mới cho Công ty và xoá bỏ đi phần nào yếu kém vẫn đang tồn đọng khó hoặc không thể giải quyết được chẳng hạn như sự thay đổi mặt hàng xuất khẩu, sự thay đổi thị trường sẽ kéo theo sự thay đổi hoàn toàn công nghệ cũ, sự thay đổi cơ cấu tổ chức, bộ máy tổ chức Công ty... Và sự không ổn định của môi trường quốc tế cũng tạo ra không ít khó khăn và nguy cơ mới cho Công ty như: những năm đầu thập kỉ 90 môi trường kinh doanh ở thị trường các nước xã hội chủ nghĩa biến động, Công ty đã bị ảnh hưởng nặng nề và sau nhiều năm mới khôi phục được. Mới đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 ở Đông Nam á đã tác động tiêu cực mạnh đến thị trường xuất khẩu của Công ty .
Hiện nay môi trường kinh doanh trong nước và quốc tế đã và đang có xu hướng thuận lợi cho Công ty, tạo cho Technoimport nhiều cơ hội phát triển mới. Trong vài năm trở lại đây Technoimport đã mở rộng thị trường tương đối lớn, ngoài thị trường rộng lớn trong nước, Công ty còn mở rộng thị trường kinh doanh rộng lớn ra nước ngoài và đã có mặt ở thị trường 68 nước trên thế giới
Chương 2: đánh giá thực trạng trong công tác giao dịch và hợp đồng XNK của Công ty
Đánh giá chung kết quả đạt được trong công tác giao dịch và hợp đồng xuất nhập khẩu
Technoimport là một trong những Công ty có bề dày lịch sử về buôn bán quốc tế ở Việt Nam. Technoimport có thị trừơng rộng lớn, kinh doanh đa ngành, đa nghề, trong những năm gần đây, từ năm 1990 đến nay, Công ty đã có những bước phát triển đáng mừng mặc dù thị trường thế giới có nhiều biến động mạnh mẽ.
Với cơ chế mở cửa và hội nhập, Công ty đã dần từng bước hoà mình vào nhịp độ phát triển của thị trường, nhờ vậy, Technoimport đã dần tự khẳng định vị thế của mình và đạt được những thành tựu đáng kể, chúng ta có thể thấy rõ điều này qua bảng phân tích tình hình kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty qua 4 năm . Qua đây chúng ta thấy rằng Công ty đã thu được những thành tựu khá khả quan.
1.1. Các kết quả hoạt động kinh doanh XNK trong những năm qua
1.1.1. Kết quả hoạt động kinh doanh theo cơ cấu mặt hàng nhập khẩu
Chúng ta có thể thấy rõ hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty qua bảng số liệu về giá trị các mặt hàng nhập khẩu trong 4 năm 2001 – 2004(bảng )
Việc phân tích và đánh giá tình hình nhập khẩu hàng hoá theo kết cấu mặt hàng sẽ giúp cho Công ty thấy được cơ cấu hàng hoá của mình và có sự điều chỉnh phù hợp với nhu cầu phát triển đất nước. Qua bảng số liệu ta thấy rằng tổng giá trị hàng hoá nhập khẩu trong 4 năm từ 2001 – 2004 liên tục tăng, đây là dấu hiệu nền kinh tế đất nước có sự phát triển ổn định.
So sánh kết quả tổng giá trị nhập khẩu hàng hoá 2003 với năm 2002 ta thấy: sản lượng năm 2003 tăng so với năm 2002 được tính theo giá trị tăng 29556000000VND tương ứng với tỉ lệ tăng là 9,7%. Kết quả này là đáng khả quan, Công ty đã nỗ lực tìm hiểu và khảo sát thị trường trong nước biết được nhu cầu tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế đất nước, đã nhập khẩu phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước, đã nhập khẩu phục vụ cho sự phát triển kinh tế. Năm 2004 Công ty nắm bắt được nhu cầu của thị trường và có kế hoạch hợp lý nên tổng giá trị nhập khẩu năm 2004 tăng so với 2003 là 3532000000VND tương ứng với tỉ lệ 1,05%. Ta có thể đi sâu xem xét vào từng mặt hàng cụ thể sau:
_ Thiết bị toàn bộ
Đối với nước ta, cơ chế kinh tế đang chuyển mạnh sang cơ chế kinh tế thị trường nên nhu cầu phát triển kinh tế đi sâu và tăng mạnh phát triển công nghiệp, nhu cầu về vật liệu xây dựng, công nghiệp nhẹ, phát triển nông nghiệp cũng cần nhiều. Cụ thể giá trị nhập khẩu thiết bị toàn bộ năm 2003 tăng so với 2002 là 6234720000VND tương ứng với tỉ lệ 3,72 %. Nhưng năm 2004 kinh tế nước ta đã dần ổn định và phát triển, đã tự sản xuất và tự cung ứng để phục vụ làm giảm bớt phần nào sự phụ thuộc vào bên ngoài, cụ thể giá trị nhập khẩu năm 2004 đã giảm so với năm 2003 là 4914720000VND, tương ứng với tỉ lệ 2,91%m sự giảm này báo hiệu tính tự chủ của nền kinh tế nước nhà.
_ Thiết bị lẻ máy móc, phụ tùng:
Để phục vụ cho sự phát triển kinh tế, hàng năm nước ta nhập khẩu một giá trị lớn các loại thiết bị lẻ, máy móc và phụ tùng, đây là ngành công nghiệp nặng nên nước ta khó có thể cung ứng được cho mình mà phải nhập khẩu từ nước có nền công nghiệp phát triển. Năm 2003 do thị trường xuất khẩu có nhiều biến động, nên Công ty đã thay đổi và chuyển sang nhập khẩu thị trường khác, sự chuyển đổi thị trường đã làm Công ty thay đổi nhiều qui chế mới, luật mới, ... Nên giá trị nhập khẩu năm 2003 đã giảm so với năm 2002 là 769520000VND tương ứng với tỉ lệ 1,26%. Sự ổn định dần thị trường xuất và nhập khẩu, năm 2004 giá trị nhập khẩu tăng so với năm 2003 là 7387120000VND tương ứng với tỉ lệ là 10,9%
_ Nguyên vật liệu
Để phục vụ cho việc sản xuất với bất kì một ngành nghề kinh doanh nào đều cần tới nguyên vật liệu. Nền kinh tế nước ta còn nhỏ bé chủ yếu là nông nghiệp nên nhu cầu về nguyên vật liệu là chưa lớn. Nhưng với sự đột biến về nhu cầu của một nền kinh tế nhỏ, năm 2003 lượng nhập khẩu nguyên vật liệu đã tăng so với năm 2002 là 25953360000 NVD tương ứng với tỉ lệ 42,6%. Dấu hiệu này thường xảy ra ở các nước có nền kinh tế nhỏ như nước ta, nó được thể hiện ngay năm 2004, năm 2004 giá trị nhập khẩu nguyên vật liệu đã giảm so với năm 2003 là 5833040000 VND tương ứng với tỉ lệ 7,2%. Sự biến động này không đáng lo ngại đối với nền kinh tế nước ta, vì nước ta cũng có tiềm năng lớn.
_ Hàng tiêu dùng
Đi đôi với tăng trưởng dân số, phát triển kinh tế tất yếu sẽ dẫn tới tăng nhu cầu tiêu dùng của bất kì quốc gia nào. Nhu cầu tiêu dùng ở nước ta hàng năm tương đối lớn, ngoài những mặt hàng tiêu dùng được sản xuất trong nước, nước ta còn phải nhập thêm nhiều mặt hàng tiêu dùng từ nứơc ngoài. Năm 2003 Công ty đã nhập nhiều mặt hàng tiêu dùng có hạn ngạch thấp như: rượu, bia, nên giá trị đã giảm, năm 2003 giá trị nhập khẩu giảm so với năm 2002 là 1862560000VND tương ứng với tỉ lệ 12,23%. Nhưng năm 2004 Công ty đã thay đổi mặt hàng nhập khẩu khác và giá trị nhập khẩu đã tăng so với năm 2003 là 6892640000VNDtương ứng với tỉ lệ 34%. Tuy nhiên, sự tăng mạnh như thế này cũng là điều đáng lo ngại vì xu hướng người Việt Nam ưa chuộng hàng ngoại vẫn còn tăng đòi hỏi các ngành sản xuất kinh doanh... ở trong nước phải cải tiến và nâng cao chất lượng hàng hoá, mẫu mã sản phẩm, giá trị hàng hóa... Qua bảng phân tích tình hình nhập khẩu của Công ty cho ta thấy: Technoimport vẫn giữ nguyên vai trò quan trọng để điều tiết cho nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với cơ chế thị trường, xứng đáng là Công ty được Nhà nước giao cho chức năng là XNK hàng hoá phục vụ cho nền kinh tế quốc dân.
1.1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh theo cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
Chúng ta có thể thấy rõ hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty qua bảng số liệu về giá trị các mặt hàng xuất khẩu trong 4 năm 2001 - 2004(bảng) như sau:
Theo kết quả ở bảng số liệu trên, ta nhận thấy năm 2001 là năm mà Công ty có giá trị kim ngạch xuất khẩu là cao nhất trong 4 năm thống kê, sau đó, kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty giảm từ năm 2002. Đây là mốc đánh dấu sự thất bại của Công ty vì lí do: Công ty tận dụng thị trường xuất khẩu đã khai thác hết thế mạnh của mình, thấy cái lợi trước mắt, không nắm vững xu thế phát triển,..., đã làm cho giá trị xuất khẩu giảm nghiêm trọng, giảm tới 46,8%.
Sau cơn sốc này, Technoimport đã rút kinh nghiệm hơn và có những biện pháp và phương hướng làm ăn mới trong cơ chế thị trường. Kết quả là từ năm 2002 trở đi kim ngạch xuất khẩu của Công ty đi dần vào thế ổn định. Đến năm 2003 kim ngạch xuất khẩu đã tăng so với năm 2002 là 5880336000VND tương ứng với tỉ lệ 6,3%. Tuy năm 2004 kim ngạch xuất khẩu có giảm nhưng giảm không nhiều và Công ty có đủ khả năng kiểm soát được sự biến động của thị trường xuất khẩu. Công ty đã không ngừng mở rộng thị trường xuất khẩu sang nước ngoài và đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu, ta có thể thống kê một số mặt hàng xuất khẩu chính của Công ty sau:
_ Cao su: đây là mặt hàng xuất khẩu chính của Công ty, hàng năm mặt hàng này chiếm tới 58% giá trị kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Cao su xuất khẩu dưới dạng chưa chế biến dạng mủ hoặc chỉ chế biến một vài công đoạn, thị trường nhập khẩu chính của Công ty là Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đức, Mĩ, Pháp. Theo thống kê trên bảng thì lượng cao xu xuất khẩu năm 2003 tăng so với năm 2002 tính theo giá trị là 341595000 VND tương ứng với tỉ lệ 6,3%. Nhưng năm 2004 tổng giá trị xuất khẩu lại giảm so với năm 2003 là 3867183000VND tương ứng với tỉ lệ 6,7%, theo nhận xét của ban lãnh đạo Công ty thì đây không phải là dấu hiệu tồi mà do thị trường trong nước có nhu cầu ngày càng tăng.
_ Mặt hàng nông sản: đây là sản phẩm chính của ngành nông nghiệp nước ta. Hàng năm nước ta sản xuất mặt hàng này với khối lượng tương đối lớn, ngoài nhu cầu tiêu dùng trong nước còn có dư nhiều để xuất khẩu. Các nước nhập khẩu chủ yếu của Công ty như: Đài Loan, Đức, Pháp, Nga, Trung Quốc, Singapore.
Theo số liệu tính toán hàng năm Công ty xuất khẩu mặt hàng này trên 20 tỉ VND, năm 2003 Công ty xuất khẩu tăng so với năm 2002 là 3166918000VND tương ứng với tỉ lệ tăng 17% và liên tục năm 2004 tăng so với năm 2003 là 1186710000VND tương ứng với tỉ lệ 5,4%.
_ Than: là tài nguyên khoáng sản dồi dào của nước ta, than được xuất khẩu chủ yếu ở dạng: than bột, than gáo dừa. Đây là mặt hàng đem lại lợi nhuận lớn cho Công ty, than được tiêu thụ chủ yếu ở các thị trường như: Nhật, Hàn Quốc, Mĩ, nhưng do sự điều chỉnh cơ cấu xuất khẩu nên giá trị xuất khẩu mặt hàng này năm 2003 đã giảm so với năm 2002 là 1285211000VND tương ứng với tỉ lệ 11,4%. Cơ cấu xuất khẩu đã được Công ty điều chỉnh và năm 2004 mặt hàng này đã đựơc xuất khẩu với giá trị cao hơn năm 2003 là 626860000VND tương ứng với tỉ lệ 6,3%.
_ Hàng công nghiệp: đây là mặt hàng chiếm tỉ lệ xuất khẩu thấp một phần là nước ta chưa đủ khả năng đáp ứng thị trường nứơc ngoài về chất lượng, mẫu mã, giá cả mặt hàng này. Song hàng năm tỉ lệ xuất khẩu của Công ty cũng tăng dần. Đặc biệt hàng công nghiệp mà Công ty xuất khẩu năm 2004 đã tăng so với năm 2003 là 794390000VND tương ứng với tỉ lệ tăng là 16% nhưng đối với kế hoạch đề ra của Công ty thì hoàn toàn đạt kế hoạch và đối với cơ cấu ngành xuất khẩu thì đây là điều đáng lo ngại trước hầu hết bất cứ đối thủ cạnh tranh nào vì đây là mặt hàng đem lại tiềm năng, lợi nhuận lớn nhất không những cho Công ty mà cho cả đất nước.
1.1.3. Nhận xét chung về cơ cấu nhập khẩu và xuất khẩu của Công ty
Trong những năm mở cửa lưu thông với bên ngoài, Công ty đã có những điều kiện kinh doanh mới và đã đạt được những thành công đáng khích lệ, song sự thành công đó chỉ là sự phát triển bình thường theo đúng quy luật tự nhiên của sự phát triển, những giá trị hay các yếu tố đã đạt được chỉ là những kết quả nhỏ bé, yếu kém nhiều về mọi mặt như: chất lượng giá trị, thương hiệu,... của một nền kinh tế nhỏ bé và yếu kém của ngành và của nước ta. Kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu của Công ty không cân đối so với cơ cấu của toàn ngành, cơ cấu XNK của cả nước. Mặc dù vậy Công ty luôn luôn có kế hoạch và phương hướng mới cho bước đi sau này, hy vọng năm 2005 và những năm tiếp theo Công ty sẽ đạt được nhiều kết quả tốt.
1.2. Các hợp đồng XNK
Sau khi kết thúc giai đoạn giao dịch và đàm phán, Công ty thực hiện bước tiếp theo là kí kết các hợp đồng XNK.
1.2.1. Đối với hợp đồng xuất khẩu
_ Kiểm tra thư tín dụng: đây là bước khá quan trọng đối với công tác hợp đồng XNK, bởi vì nó quyết định tới việc hợp đồng có được thực hiện và đem lại hiệu quả hay không. Quá trình thực hiện hợp đồng XNK tại Technoimport được tổng giám đốc đưa ra và áp dụng đối với các đơn vị thành viên trong từng hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu sau khi k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- I0014.doc