Một số gải pháp cơ bản nhằm hình thành và phát triển các TĐKT ở VN hiện nay

Chức năng, nhiệm vụ của công ty mẹ là: Thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với phần vốn nhà nước đầu tư vào các Công ty con theo quy định của pháp luật, giữa quyền chi phối các công ty con thông qua vốn, công nghệ thương hiệu, thị trường: điều hành thống nhất mạng lưới: trực tiếp quản lý và kinh doang mạng lưới viễn thông đường trục.

Đối với các Công ty con:

Các Công ty con do Công ty mẹ sở hữu 100% vốn: Các Công ty viễn thông vùng được thành lập trên cơ sở sáp nhập các Công ty quản lý mạng viễn thông tại các bưu điện tỉnh, thành phố, và các trường công nhân bưu điện; Các Công ty hoạt động trong lĩnh vực truyền thông gồm: Công ty phát triển phần mềm và truyền thông (VASC), Công ty điện toán và truyền dữ liệu(VDC); Các đơn vị sự nghiệp gồm: Học viện công nghệ BCVT, các bệnh viện Bưu điện .

Các Công ty con do công ty mẹ sở hữu vốn trên 50% gồm các công ty thông tin di động, các công ty tư vấn chuyên nghànhBCVT, các công ty cung cấp dịch vụ Internet và giá trị gia tăng.

 

doc41 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1190 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số gải pháp cơ bản nhằm hình thành và phát triển các TĐKT ở VN hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thế phát triển của sản xuất hiện đại nhất thể hóa quốc tế mà hạt nhân là sự phân công quốc tế hiện đại và tổ chức lại cơ cấu ngành. Có sự đa dạng hoá loại sản phẩm và dịch vụ, đa dạng thị trường để giảm thiểu rủi ro và biến động thị trường, biến động trong ngành sản xuất kinh doanh chủ chốt của tập đoàn doanh nghiệp với sự tham gia đa dạng về thành viên trong tập đoàn. 4.4. Trình độ phát triển khoa học công nghệ. Trong những năm gần đây, thành quả của công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ sản xuất vật liệu mới, nguồn năng lượng mới, kỹ thuật không gian, được áp dụng rộng rãi vào sản xuất đã nâng cao đáng kể năng lực sản xuất của xã hội và trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh chóng. Nếu trước đây, trong xã hội công nghiệp, nguồn lực chủ yếu là sức lao động, các nguồn nguyên liệu và nguồn năng lượng thì hiện nay, nguồn lực chủ đạo để phát triển kinh tế là tri thức của con người. Động lực thúc đẩy kinh tế nói chung, công nghiệp nói riêng phát triển là cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Sự tiến bộ không ngừng của khoa học công nghệ làm cho hàm lượng khoa học công nghệ trong sản xuất ngày càng cao, tốc độ chuyển hóa thàh những thành tựu của khoa học công nghệ thành sản phẩm hàng hóa ngày càng nhanh, chu kỳ sản xuất hàng hóa ngày càng được rút ngắn.Những yếu tố này là môi trường quan trọng tọ ra nhu cầu cần thiết phải liên kết các doanh nghiệp riêng lẻ thành các tập đoàn kinh tế lớn. 4.5. Trình độ phát triển của thị trường. Trong quá trình phát triển của nền kinh tế dù theo hình thức nào cũng đều phải xây dựng một nền tảng ban đầu là các nguồn vốn, lao động nền kinh tế hàng hóa ngày càng phát triển sẽ tăng khả năng cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Quá trình phát triển thị trường hiện nay đang được hình thành với sự tác động tổng hợp của các quy luật trong sản xuất và lưu thông hàng hóa trên thị trường. Những quy luật chủ yếu là quy luật giá trị, quy luật giá trị thặng dư, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ.Thông qua các quy luật có thể điều tiết được hoạt động của các đơn vị kinh tế. Thị trường thế giới hiện nay đang là một thị trường rất rộng lớn được hình thành qua nhiều giai đoạn bao trùm lên tất cả nền kinh tế trên thế giới. Việc hình thành các tổ chức kinh tế trên thế giới về chính trị thương mại tài chính đã tác động mạnh mẽ lên thị trường. Thị trường trên thế giới hiện nay cũng đã hình thành ở nhều khu vực kinh tế và hỗ trợ nhau cùng phát triển vừa có tác động chống cạnh tranh, đó là các thị trường khu vực hoặc các diễn đàn và các tổ chức các nước có cùng quan điểm. Việc hình thành khu vực thị trường làm cho cạnh tranh trên thị trường thế giới càng mạnh mẽ dẫn đến việc thúc đẩy nhanh chóng các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia hoạt động tại nhiều lĩnh vực. 4.6. Trình độ quản lý kinh tế vĩ mô. Trình độ quản lý kinh tế vĩ mô quốc tế đang được phục hồi và phát triển, các nền kinh tế ngày càng phụ thuộc lẫn nhau nên ảnh hưởng của các quyết định về chính sách của một nước sẽ được nhân rộng ra các nước khác. Mối liên hệ chặt chẽ ngày càng tăng giữa các nước trong cùng khu vực cũng thấy lí do phải tạo ra một mạng lưới khu vực nhằm ngăn chặn và chống lại khủng hoảng kinh tế. Vì mối liên kết thương mại và tài chính ngày càng tăng giữa các nước trong khu vực nên nếu một nền kinh tế hoạt động kém sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế láng giềng. Thực tế này đòi hỏi phải có sự giám sát chặt chẽ và hỗ trợ của các nước láng giềng. TĐKT là công cụ vật chất để nhà nước điều tiết nền kinh tế. 4.7. Trình độ khu vực hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế. Hiện nay xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa đang diễn ra mạnh mẽ.Xu thế chuyển động của các cuộc cạnh tranh trên thế giới giữa các doanh nghiệp của các nền kinh tế chủ yếu trên hành tinh đòi hỏi ngày càng nhiều các nhà lãnh đạo phải vươt qua giai đoạn hội nhập chính trị quốc tế trên nhiều mặt. Những khác biệt trong các chính sách quốc gia chi phối cạnh tranh, những quy chế tài chính những tiêu chuẩn của sản phẩm của môi trường, những điều kiện về việc làm những thị trường công, những trợ cấp của nhà nước cho khoa học và công nghệ là những nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp phải đương đầu với sự cạnh tranh trên các thị trường khác nhau. 5. Vai trò của TĐKT trong nền kinh tế quốc dân. Lý do mà mô hình TĐKT đạt được sự thống trị của nó là ở sự vượt trội về sức mạnh bền vững, tính cạnh tranh và tính hiệu quả trong môi trường cạnh tranh toàn cầu. Cụ thể là: TĐKT có khả năng tập trung, điều hoà vốn, khắc phục sự hạn chế và thiếu vốn của từng đơn vị riêng biệt. Nó làm tăng sức mạnh kinh tế và khả năng cạnh tranh của cả tập đoàn cũng như từng đơn vị thành viên trong tập đoàn. Bên cạnh đó, mối liên hệ chặt chẽ giữa các đơn vị thành viên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thống nhất phương hướng chiến lược phát triển kinh doanh, đồng thời hạn chế sự cạnh tranh của các tập đoàn khác. Tiềm lực kinh tế vững chắc cho phép TĐKT đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, triển khai, ứng dụng kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh của các đơn vị thành viên. Một số mô hình quản ký của các TĐKT trên thế giới. Mô hình của Mỹ Mô hình của Mỹ là mô hình thống nhất ngang, có những đặc trưng sau: Có hội đồng giám đốc bao gồm nhiều giám đốc phụ trách theo các tiêu thức khác nhau về khách hàng, khu vực, bộ phận, … Chú trọng lợi ích của chủ đầu tư và người lao động. Thực hiện theo nguyên tắc giám đốc, mức độ luật định thấp. Về yếu tố chính phủ: duy trì môI trường ổn định để các thị trường tự do hoạt động, tuy nhiên tự do trong khuôn khổ. Công đoàn tham gia tự nguyện nhưng yếu. Về quyền cổ đông: Sở hữu rộng rãi và việc chi trả cổ tức cá nhân được ưu tiên hàng đầu khi công ty phá sản. Về quyền người lao động: Bị hạn chế, hầu như không được tham gia vào công việc điều hành công ty. Về thị trường chứng khoán: đóng vai trò rất lớn trong việc cấp vốn và giám sát hoạt động của công ty. Về vai trò của ngân hàng: bị hạn chế trong việc sở hữu và kiểm soát công ty. Mô hình của Nhật Mô hình của Nhật là mô hình thống nhất ngang mở rộng, có những đặc trưng sau: Thành lập ban giám đốc và có uỷ ban quản lý. Chú trọng lợi ích của gia đình là trên hết. Về yếu tố chính phủ: Can thiệp mạnh vào nền kinh tế, thực thi chính sách ủng hộ và định hướng phát triển. Quan chức chính phủ và giới kinh doanh có mối quan hệ chặt chẽ. Công đoàn hoạt động chủ yếu và chịu ảnh hưởng của giới chính trị. Về quyền cổ đông: Các cổ đông có vai trò ngang nhau. Về quyền người lao động: có nhiều ảnh hưởng bởi họ làm việc lâu dài và gắn bó với công ty. Về thị trường chứng khoán: đóng vai trò vừa phải. Về vai trò ngân hàng: đóng vai trò quan trọng trong việc cấp vốn nhưng kém quan trọng trong việc quản lý. Mô hình của Trung Quốc Là mô hình tách rời ngang, có những đặc trưng sau: Thành lập hội đồng quản trị và ban giám đốc, ban giám sát trên cơ sở xử lý hài hoà mối quan hệ giữa ‘ba hội mới’ và ‘ba hội cũ’ (Ban chấp hành đảng bộ, Ban chấp hành công đoàn, Đại hội công nhân viên chức). Bí thư Đảng uỷ và Chủ tịch hội đồng quản trị do một người kiêm nhiệm. Đẩy mạnh việc phát triển công ty có nhiều chủ đầu tư thông qua việc đa dạng hoá và quyền cổ phần nhằm hình thành cơ cấu quản trị có pháp nhân công ty. Mối quan hệ của cá nhân, hành vi, tổ chức là sự kết hợp vừa mang tính lịch sử với các cơ chế chính thức. Về yếu tố chính phủ: phi tập trung hoá quyền lực, xoá bỏ sự can thiệp thoái quá của nhà nước, hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mang mầu sắc Trung Quốc. Như vậy, các TĐKT trong các mô hình trên phát triển và vận hành theo các nguyên tắc cốt lõi của nền kinh tế thị trường là tự do cạnh tranh, phát triển sở hữu tư nhân gắn với lợi ích cá nhân, sự diều tiết và quản lý nhà nước linh hoạt có chủ đích trong một số ngành nghề nhất định. Thực tế các tập đoàn phát triển không theo một mô hình, thể chế cứng nhắc hoặc khuôn mẫu nào mà nó thay đổi linh hoạt dựa trên nhu cầu phát triển của tập đoàn trong từng giai đoạn. Những bài học kinh nghiệm của các TĐKT trên thế giới Con đường hình thành Hình thành tập đoàn kinh doanh là kết quả tất yếu của quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, vốn kinh doanh. Nguồn vốn tự tích luỹ đóng vai trò cơ bản trong việc hình thành các tập đoàn kinh doanh. ở các nước tư bản phát triển quá trình thành lập các tập đoàn là quá trình tập trung sản xuất, tập trung vốn. Quá trình này diễn ra theo các phương thức khác nhau bằng con đường thôn tính thông qua việc mua lại các công ty nhỏ yếu hơn biến chúng thành một bộ phận không thể tách rời của công ty mẹ hay theo con đường tự nguyện sát nhập với nhau để hình thành những công ty lớn hơn. Trong khi đó ở các nước công nghiệp hoá đi sau, các tập đoàn được hình thành và phát triển chủ yếu bằng tích tụ và liên doanh nhằm tăng vốn, khả năng sản xuất, khả năng chuyển giao công nghệ nước ngoài và khả năng cạnh tranh. Dù hình thành bằng cách nào thì tập đoàn cũng được hình thành chủ yếu từ nguồn vốn tự tích luỹ từ kết quả hoạt động kinh doanh của bản thân các công ty. Các tập đoàn kinh tế của Nhật Bản chủ yếu khởi đầu từ lĩnh vực thương mại hoặc ngoại thương các tập đoàn này thường chuyên môn hoá trong các hoạt động thương mại với một số sản phẩm nhất định. Qua quá trình hoạt động, phát triển, quy mô và cơ cấu kinh doanh dần được mở rộng, đa dạng hoá các loại hình kinh doanh Đối với Mỹ và một số nước Châu Âu, các tập đoàn lại bắt đầu từ các hoạt động sản xuất. Thông qua kết quả của các hoạt động sản xuất mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực khác như thương mại, vận tải, bảo hiểm, ngân hàng... Có sự khác biệt này là do những nét đặc thù của môi trường kinh doanh ở mỗi nước quy định. Đối với các nước kém phát triển, khởi điểm bắt đầu từ các doanh nghiệp sản xuất có vai trò rất lớn đến xây dựng và hình thành cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế và khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới Mô hình tổ chức Cơ cấu tổ chức và mối quan hệ liên kết kinh tế Nhìn chung tập đoàn kinh tế là một hình thức tổ chức kinh tế lỏng vì phần lớn chúng không có tư cách pháp nhân. Trong tập đoàn luôn có một công ty mẹ và các công ty thành viên. Công ty mẹ và các công ty thành viên có mối quan hệ phụ thuộc, hỗ trợ về mặt chiến lược, tài chính, tín dụng. Các công ty thành viên vẫn giữ nguyên tính độc lập về mặt pháp lý. Mối quan hệ giữa các thành viên chủ yếu dựa trên mối quan hệ liên kết về lợi ích kinh tế được điều khiển bởi các hợp đồng hoặc thoả thuận kinh tế. Phương thức quản lý Hầu hết các TĐKT đều áp dụng chính sách quản lý theo kiểu phi tập trung hoá. Có một ban quản trị chung để quản lý tập đoàn và trụ sở thường nằm ở công ty mẹ. Ban quản trị tập đoàn chỉ kiểm soát về mặt tài chính, chiến lược đầu tư thông qua sử dụng các đòn bẩy kinh tế, còn các thành viên hoàn toàn tự chủ trong quyết đình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình ở các công ty thành viên có ban quản trị, ban giám đốc riêng để lãnh đạo. Kiểu quản lý này vừa phát huy được tính năng động tự chủ của các công ty thành viên, vừa tạo sự thống nhất chung trong tập đoàn Các loại hình tập đoàn Theo tính chất sở hữu Các tập đoàn tư bản lớn ngày nay có nguồn gốc từ những công ty sở hữu gia đình. Từ sở hữu của tư bản cá biệt chúng chuyển dần thành sở hữu của tập thể các nhà tư bản độc quyền. Nhìn chung chúng mang sắc thái của sở hữu tư nhân nhưng lại gắn bó chặt chẽ với chính phủ các nước và đại diện cho sức mạnh kinh tế của nước đó (ở Mỹ). Hình thức hỗn hợp dưới dạng công ty cổ phần là một hình thức được ưa chuộng vì nó đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất đồng thời phản ánh được lợi ích của nhiều bên tham gia trong tập đoàn (ở Châu Âu) Theo tính chất ngành nghề Các tập đoàn liên kết những công ty trong cùng một ngành nhưng hình thức này hiện nay không còn phổ biến. Loại hình tập đoàn theo liên kết dọc giữa các ngành trong cùng một dây truyền công nghệ vẫn còn là phổ biến trong giai đoạn hiện nay. Các tập đoàn này hoạt động có hiệu quả cao và bành trướng hoạt động sản xuất kinh doanh sang hầu hết các nước trên thế giới. Để thành lập một tập đoàn kiểu này cần phải: Có được một công ty đủ lớn, có uy tín để quản lý và kiểm soát các công ty khác, đồng thời có thể đảm bảo kiểm tra tài chính và sự lệ thuộc của các công ty thành viên. Có được một ngân hàng có quy mô và khả năng cần thiết để có thể đảm bảo phần lớn tín dụng cho tập đoàn. Có những mối liên hệ nhiều mặt với nhà nước. Một trong những điều kiện hết sức quan trọng để thành lập và phát triển loại hình tập đoàn này là cần phải có thị trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ hệ thống thông tin toàn cầu... Ngày nay một TĐKT mạnh thường có cơ cấu sản xuất kinh doanh trong tất cả các ngành nghề và mô hình đang được ưa chuộng và trở thành xu hướng chính hiện nay có cơ cấu gồm một ngân hàng, một công ty thương mại, và các công ty sản xuất công nghiệp. Vai trò của Nhà nước Nhà nước có vai trò cực kỳ to lớn với sự tồn tại, phát triển của các TĐKT, thể hiện qua việc tạo dựng, duy trì và thúc đẩy môi trường kinh tế xã hội cần thiết cho các tập đoàn hoạt động. Vai trò của nhà nước được thể hiện trên các mặt sau: Nhà nước duy trì trật tự, ổn định xã hội Nhà nước xây dựng môi trường pháp luật đảm bảo cạnh tranh bình đẳng, khuyến khích các tập đoàn phát triển nhưng cũng đảm bảo môi trường bình đẳng cho các doanh nghiệp hoạt động (ví dụ như luật chống độc quyền) Nhà nước định hướng đúng xu hướng phát triển làm tiền đề cho các quyết định của các tập đoàn và các tổ chức kinh tế khác. Phương hướng phát triển kinh tế của nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của các tập đoàn. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TẬP ĐOÀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN HIỆN NAY Mô hình Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam. Phương thức hình thành TĐKT ở Việt Nam Các TĐKT Việt Nam có thể hình thành theo những phương thức sau: Thứ nhất, dựa vào một số TCT91 có quy mô tương đối lớn, trình độ quản lý tương đối cao, trang thiết bị công nghệ cao có sự liên doanh liên kết với nhiều đối tác trong và ngoài nước để tập trung sức xây dựng thành TĐKT. Để làm được điều đó thì quan trọng nhất là thực hiện cổ phần hoá các DN thành viên mà TCT nắm cổ phần khống chế, chi phối từ 51% - 100% vốn điều lệ. Tuy vậy, đối với các TĐKT được hình thành theo cách này cần phải có tổ chức tài chính độc lập và bộ phận nghiên cứu triển khai. Thứ hai, thành lập TĐKT từ những doanh nghiệp, công ty hiện có, hình thành các công ty mẹ, công ty con thuộc thành phần kinh tế khác. Quá trình đổi mới, sắp xếp và phát triển các DNNN, quá trình triển khai thực hiện luật DN, luật đầu tư nước ngoài hiện nay là cơ hội tốt để hình thành các TĐKT. Quá trình phát triển này sẽ dần hình thành: Công ty mẹ: Có quy mô lớn về doanh thu, máy móc thiết bị và lao động, hiệu quả kinh doanh cao, kinh nghiệm quản lý sản xuất lớn, có chiến lược phát triển lâu dài... Các công ty con (công ty thành viên): Là những công ty thuộc mọi thành phần kinh tế mà công ty mẹ có cổ phần lớn, có tác động quyết định đến chiến lược phát triển của công ty con. Các công ty con có thể được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện tham gia tập đoàn và có quyền lựa chọn, đăng ký với công ty mẹ để tham gia. Các DN sản xuất kinh doanh độc lập, các đơn vị nghiên cứu triển khai, đơn vị dịch vụ thuộc mọi thành phần kinh tế liên kết lại với nhau thành lập TĐKT để thực hiện một chiến lược kinh doanh thống nhất, tích tụ, tập trung vốn, tạo thế cạnh tranh mạnh nhằm tạo ra hiệu quả cao hơn. Các DNNN có tiềm lực kinh tế mạnh được trang bị kĩ thuật, công nghệ hiện đại, công nghệ quản lý tiên tiến đầu tư vào các DN khác (như thông qua mua cổ phần...) và biến các DN này thành các công ty con của mình. Như vậy, việc thành lập TĐKT cho dù bằng cách nào thì cũng cần phải có một môi trường vĩ mô thông thoáng, hệ thống luật lệ đồng bộ và hoàn chỉnh có thể mới tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế thông qua đó thúc đẩy sự phát triển của các TĐKT. Loại hình TĐKT Việt Nam Mô hình ĐTKT ở Việt Nam sẽ có những điểm cơ bản giống với ĐTKT trên thế giới: quy mô lớn, kinh doanh đa ngành nghề trong đó có ngành nghề kinh doanh chủ đạo và cơ cấu sở hữu, cơ cấu tổ chức tương tự. Nhưng trong bối cảnh kinh tế – chính trị – xã hội ở nước ta thì TĐKT cũng có điểm khác biệt. Do vậy, TĐKT ở Việt Nam có các hình thức sau: + Về sở hữu có: TĐKT sở hữu hỗn hợp (đa sở hữu) gồm có DNNN, các CTy TNHH, CTy CP và các đơn vị thành viên có thể là đơn vị hạnh toán độc lập, phụ thuộc, đơn vị sự nghiệp. TĐKT có một sở hữu là TĐKT gồn các DNNN hoặc TĐKT nhà nước. + Về ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh: Có TĐKT đa ngành, đa lĩnh vực, sản phẩm nhưng trong đó có một ngành, một lĩnh vực chuyên môn hoá giữ vị trí then chốt và có TĐKT chuyên ngành. + Về liên kết kinh tế: - TĐKT được hình thành dựa trên các liên kết theo chiều dọc tức là những tập đoàn được tập hợp trên cơ sở hợp nhất những công ty, xí nghiệp có liên hệ với nhau bởi quy trình công nghệ thống nhất từ khâu khai thác nguyên liệu, chế biến gia công, hoàn chỉnh sản phẩm, tiêu thụ trên cơ sở xác lập thống nhất về tài chính, mỗi công ty đảm nhiệm sản xuất một bộ phận, một công đoạn nhưng vẫn giữ tính độc lập về hình thức tổ chức của các đơn vị thành viên. TĐKT này sẽ hoạt động trong các ngành luyện kim, dệt may, nông nghiệp, công nghiệp chế biến... - TĐKT hình thành dựa trên cơ sở các mối quan hệ liên kế ngang tức là các công ty hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực hợp nhất lại trên cơ sở xác lập thống nhất về tài chính còn các thành viên thì vẫn duy trì sự độc lập tương đối về hình thức tổ chức.TĐKT này sẽ hoạt động trong các ngành công nghiệp vật liệu xây dựng (xi măng...), cơ khí chế tạo... - TĐKT hình thành dựa trên cơ sở các mối liên kết hỗn hợp tức là gồm các công ty sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau. + Về hình thức tổ chức TĐ tổ chức theo mô hình một pháp nhân độc lập còn tất cả các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc TĐ tổ chức theo mô hình phân tán. Khi đó, TĐ sẽ là một pháp nhân độc lập đồng thời các đơn vị thành viên cũng có thể là một pháp nhân độc lập. TĐ tổ chức theo mô hình hỗn hợp: Khi đó TĐ là một pháp nhân, đơn vị thành viên vừa là pháp nhân độc lập vừa là pháp nhân phụ thuộc. Cơ cấu tổ chức quản lý TĐKT Việt Nam Cơ cấu tổ chức chung nhất của TĐKT ở Việt Nam là một tổ hợp các DN liên kết với nhau theo mô hình “công ty mẹ, công ty con” . Công ty mẹ có thể là một công ty cổ phần, CTy TNHH hoạt động theo luật DN, có thể có vốn góp của nhà nước (dưới dạng cổ phần chi phối – trên 51% hoặc cổ phần khống chế – ít hơn 50% nhưng có quyền quyết định các vấn đề tổ chức, nhân sự, chiến lược của công ty mẹ) hoặc nhà nước sở hữu 100% vốn. Công ty con là CTy CP, CTy TNHH có tư cách pháp nhân hoạt động theo luật DN. Công ty con bị công ty mẹ nắm giữ 100% vốn theo điều lệ hoặc ít hơn. TĐKT có thể có tổ chức tài chính – ngân hàng cổ phần, công ty tài chính, đơn vị sự nghiệp, viện nghiên cứu triển khai, trường đào tạo... Cơ cấu tổ chức của TĐKT gồm có: Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Bộ máy điều hành, Giám đốc và các đơn vị thành viên. Cơ chế quản lý của TĐ chủ yếu được xây dựng trên mối quan hệ liên kết theo kiểu “công ty mẹ – công ty con” và các quan hệ hợp đồng kinh tế . Công ty mẹ là một DN giữ vai trò trung tâm, đầu tư vốn vào các công ty con theo nhiều cấp độ, chi phối các công ty con tuỳ theo tỉ lệ vốn đầu tư vào công ty con. Mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con là mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít thể hiện trên các mặt: Quan hệ về tổ chức; quan hệ về vốn và tài sản; quan hệ về kinh tế, tài chính; quan hệ về kế hoạch hoá đầu tư cơ sở vật chất kĩ thuật; và quan hệ về tổ chức nhân sự. Mối quan hệ giữa các thành viên trong TĐ chủ yếu là mối quan hệ về lợi ích kinh tế được điều khiển bằng các hợp đồng, thoả thuận kinh tế. Ngoài ra, trong mô hình tổ chức các TĐKT ở Việt Nam thì nhà nước cũng giữ một vai trò hết sức quan trọng. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của TĐ mà chỉ điều tiết hoạt động của tập đoàn thông qua các chính sách, đòn bẩy kinh tế. Quan hệ giữa các bộ với TĐKT là quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực đối với các tổ chức kinh doanh trong ngành, lĩnh vực đó. Các bộ đề ra chiến lược và kế hoạch phát triển ngành, định mức kinh tế kĩ thuật, chính sách, chế độ... chung thống nhất cho mọi DN kinh doanh trong ngành, thực hiện sự kiểm tra giám sát hoạt động của DN theo pháp luật. Nhà nước quản lý phần vốn của mình trong các TĐKT thông qua đại diện chủ sở hữu nhà nước trong hội đồng quản trị của tập đoàn. Thực trạng Tập đoàn kinh tế Việt Nam trong thời gian qua Hiện có 8 tổng công ty nhà nước đã được phê duyệt đề án thí điểm công ty mẹ, công ty con như bưu chính viễn thông, than- khoáng sản, dầu khí, điện lực, công nghiệp tàu thuỷ, dệt may, cao su, tài chính – bảo hiểm. Đó có thể coi là các mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước đang có ở nước ta. Ngoài ra, cũng có nhiều doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp mạnh, liên kết các thế mạnh để hoạt động dưới một bộ máy điều hành chung, một thương hiệu chung tạo ra sự phát triển vượt bậc theo mô hình của các tập đoàn kinh tế tư nhân như FPT, Hoà Phát, Hoàng Anh Gia Lai, Đồng Tâm, Kinh Đô, Trung Nguyên… Về trình độ tích tụ, tập trung hóa sản xuất kinh doanh Đa số các tập đoàn kinh tế thế giới đều có quy mô lớn về vốn, doanh thu, lao động, máy móc thiết bị, số các doanh nghiệp thành viên. Năm 1999, giá trị cổ phiếu của Tập đoàn General Electric là 259 tỉ USD, Tập đoàn Exxon là 172 tỉ USD, Tập đoàn Coca cola là142 tỉ USD, Tập đoàn Philipmorit có 112 tỉ USD, Tập đoàn Toyota motor là 86 tỉ USD. So với các tập đoàn kinh tế trên thế giới và khu vực, các tổng công ty của ta chưa thực sự là tập đoàn kinh tế xét theo tiêu chí quy mô (trước hết là về vốn). Tính đến tháng 6 năm 2003, 17 tổng công ty 91 có tổng số vốn nhà nước là 95.000 tỷ đồng, bình quân vốn nhà nước ở mỗi tổng công ty là 5.588 tỷ đồng (tương đương 355 triệu USD). Trong số 17 tổng công ty 91, có tới 14 tổng công ty có số vốn dưới 1000 tỷ đồng. Do mỗi nước có trình độ tích tụ, tập trung hoá sản xuất và có những mục tiêu, yêu cầu cụ thể riêng, nên sự so sánh đơn giản ấy sẽ có thể dẫn tới nghi ngờ hoặc phủ định khả năng hình thành và phát triển loại hình doanh nghiệp này. Trong điều kiện nước ta hiện nay, để tập đoàn kinh tế hình thành và hoạt động có hiệu quả, phát huy được thế mạnh, cần có mức vốn thấp nhất là 12.000 tỷ đồng – tương đương 750 triệu USD. Về mối quan hệ liên kết Về thực chất, tập đoàn kinh tế là công ty cổ phần với mối liên kết kiểu công ty mẹ – công ty con. Hiện nay, mô hình công ty mẹ – công ty con là hình thức liên kết phổ biến của tập đoàn kinh tế ở các nước trong khu vực và trên thế giới, đồng thời cũng phù hợp với yêu cầu, mục đích xây dựng tập đoàn kinh tế ở nước ta. Về môi trường kinh doanh Bất cứ một loại hình tổ chức nào muốn ra đời, tồn tại và phát triển đều đòi hỏi phải có môi trường thích hợp. Môi trường kinh doanh vừa tác động tích cực, vừa tác động tiêu cực đến tập đoàn. Vì lẽ đó, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho hoạt động của tập đoàn là đòi hỏi búc xúc và quan trọng. Đó chính là điều kiện sống còn để hình thành và phát triển tập đoàn. Môi trường để tập đoàn kinh tế hình thành và hoạt động có hiệu quả bao gồm: + Môi trường pháp lý: Gồm hệ thống pháp lý và các văn bản pháp quy, trong đó đặc biệt quan trọng là các luật về kinh doanh, chống độc quyền và các quy chế khung về tổ chức và hoạt động của các loại hình tổ chức kinh doanh. Chúng ta cần phải có hệ thống pháp luật tạo điều kiện cho các đơn vị kinh doanh tự do liên kết kinh tế để hình thành lợi nhuận bình quân, và có chính sách phân phối lợi nhuận theo vốn đầu tư. Hệ thống pháp luật có liên quan đến tập đoàn kinh tế phải có tác dụng tạo điều kiện cần thiết, khuyến khích tập đoàn kinh tế phát triển, đồng thời ngăn ngừa, hạn chế và xử lý các mặt tiêu cực phát sinh trong hoạt động của tập đoàn kinh tế. + Môi trường kinh tế: Bao gồm sự phát triển của thị trường và các quan hệ kinh tế trên thị trường, sự phát triển của các quan hệ cạnh tranh và liên kết kinh tế giữa các chủ thể, sự khẳng định các quan hệ sở hữu tồn tại hợp pháp, sự phát triển của các quan hệ phân công, hiệp tác… Về trình độ cán bộ quản lý Tập đoàn kinh tế có quy mô lớn và độ phức tạp cao trong tổ chức quản lý, nên đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành thực sự có năng lực, trình độ cao, phong cách lãnh đạo và phẩm chất đạo đức tốt, để quản lý điều hành bộ máy của tập đoàn hoạt động có hiệu quả. Sẽ là vô cùng nguy hiểm khi Nhà nước trao một lượng vốn lớn hàng ngàn tỷ đồng vào tay nhà quản lý, kinh doanh chưa đủ tầm, chưa đủ tài và kinh nghiệm để tổ chức quản lý quy mô tập đoàn kinh tế. Mặt khác, sẽ là quá mạo hiểm khi doanh nghiệp tư nhân nào lại đem doanh nghiệp và vốn của mình gia nhập tập đoàn kinh tế nhà nước mà đội ngũ cán bộ ở đó yếu kém. Cho nên, một trong những điều kiện cơ bản để hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế là phải có đội ngũ chủ doanh nghiệp, cũng như đội ngũ các nhà quản lý điều hành có tài, giàu kinh nghiệm quản lý và quản trị kinh doanh trong môi trường cạnh tranh của nền kinh tế thị trường để ngang tầm với quy mô tập đoàn kinh t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37246.doc
Tài liệu liên quan