Một số giải pháp đầu tư cho quá trình công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn

Lời nói đầu 1

Phần I: Lý luận chung 2

I. Những khái niệm cơ bản 2

1. Khái niệm - Đặc điểm của ĐTPT – Vai trò của ĐTPT đối với CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn 2

2. Những đặc điểm cua hoạt động đầu tư phát triển: 3

II. Sự cần thiết phải thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp - nông thôn 7

1. Tính tất yếu khách quan 7

2. Nội dung của CNH -HĐH nông nghiệp - nông thôn 8

a. Phát triển toàn bộ cơ sở hạ tầng nông thôn 8

b. Coi trọng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học vào nông nghiệp. 9

Phần II: Thực trạng đầu tư cho CNH - HĐH Nông nghiệp nông thôn 11

I. Thực trạng về nguồn vốn đầu tư 11

1. Nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước 11

2. Vốn đầu tư của dân cư 13

3. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài 14

4. Nguồn vốn tín dụng 16

II- Tình đầu tư cho công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn 17

1. Đầu tư cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn 17

2. Đầu tư cho nghiên cứu và áp dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ sinh học vào nông nghiệp và nông thôn 19

3. Đầu tư cho cơ giới hoá nông nghiệp và nông thôn 20

4. Đầu tư xây dựng các trọng điểm kinh tế 21

III. Đánh giá chung về kết quả đầu tư cho CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. 21

1. Những thành tựu đã đạt được: 21

2. Hạn chế: 23

Phần III: Một số giải pháp đầu tư cho quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. 25

I. Giải pháp về huy động vốn đầu tư 25

II. Về sử dụng vốn đầu tư 28

Kết luận 30

Danh mục tài liệu tham khảo 31

 

doc32 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1236 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp đầu tư cho quá trình công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp hoá các vùng nông thôn. Các nội dung trên có quan hệ chặt chẽ với nhau và làm nền tảng cho nhau, thúc đẩy quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn phát triển. Vì vậy, xem xét tác động của quá trình CNH -HĐH cần phải tính đến tác động cuả các nội dung trên đối với tất cả các mặt của đời sống kinh tế xã hội. Phần II: Thực trạng đầu tư cho CNH - HĐH Nông nghiệp nông thôn I. Thực trạng về nguồn vốn đầu tư Có thể nói vốn đầu tư là điều kiện tiên quyết có tầm quan trọng đặc biệt đối với quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. Những thành tựu to lớn và quan trọng của nông nghiệp và nông thôn những năm qua một mặt do tác động tích cực của cơ chế và chính sách đổi mới của Đảng. Mặt khác có vai trò quyết định là nguồn vốn đầu tư giành cho nông nghiệp - nông thôn ngày càng tăng. Vốn đầu tư cho CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn trong 10 năm qua đã có sự gia tăng đáng kể, đóng góp vào sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp. Từ năm 1991 đến năm 2000 vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn ước đạt 65.2 nghìn tỷ đồng (Mặt bằng giá năm 1995) tương đương 5.9 tỷ USD, chiếm khoảng 10.4% tổng vốn đầu tư XH. Trong đó 5 năm 1991-1995 chiếm 8.5% và 5 năm 1996-2000 chiếm 11.4% với tốc độ tăng vốn đầu tư trong 5 năm 1996-2000 lên tới 21.8%. Chúng ta có thể đi vào xem xét cụ thể từng nguồn vốn sau: 1. Nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước Trong nhiều năm qua đầu tư tập trung của ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp nông thôn luôn được quan tâm: tỷ trọng đầu tư cho khu vực nàu bắt đầu gia tăng đáng kể từ năm 1992 với số vốn hàng năm gần 2000 tỷ đồng. Nếu năm1996 đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp và nông thôn chiếm 10% tổng vốn đầu tư từ ngân sách thì năm1997 là 11.3% và năm 1998 là 15.3%. Nguồn vốn này giành chủ yếu cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là thuỷ lợi, giao thông, điện và cung cấp nước sạch nông thôn. Đây cũng là lĩnh vực cần nhiều vốn mà các thành phần kinh tế chưa đủ khả năng đảm nhiệm hoặc chưa muốn đảm nhiệm. Phải có cơ sở hạ tầng nông thôn luôn vững mạnh thì mới có khả năng thu hút thêm nhiều nguồn vốn đầu tư từ các khu vực, các nước và các tổ chức quốc tế để phục vụ cho sự phát triển. Chính bởi lẽ đó mà từ trước tới nay Nhà nước luôn tập trung vốn đầu tư cho lĩnh vực này. Xem xét vốn đầu tư cơ bản từ ngân sách Nhà nước dành cho nông nghiệp nông thôn: Nếu năm 1990 nguồn vốn này là 402 tỷ đồng (chiếm 17.34% tổng vốn đầu tư toàn xã hội từ ngân sách Nhà nước) thì các năm 1996 đạt 2882.4 tỷ đồng (bằng 10%) và đến năm 1998 số vốn này chiếm 15.3% tổng vốn đầu tư cho toàn xã hội từ ngân sách Nhà nước. Lượng vốn này chủ yếu được dành cho việc xây dựng và nâng cấp các công trình thuỷ lợi để tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng quan trọng nhất phục vụ tưới tiêu nước, phát triển sản xuất nông nghiệp. Trong số 2882.4 tỷ đồng vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 1996 có tới 1737 tỷ đồng dành cho thuỷ lợi (chiếm 60%),439 tỷ đồng dành cho trồng trọt trong đó đầu tư vào trại trạm phục vụ trồng trọt là 143.6 tỷ đồng, chăn nuôi là 213 tỷ đồng (chiếm 17.2%). Năm 1998 vốn đầu tư cho thuỷ lợi đã tăng lên đáng kể ở mức 2800 tỷ đồng, năm 1999 khoảng 4000 tỷ đồng, vào năm 2000 khoảng 3800 tỷ đồng. Xét cả giai đoạn 1991-2000, vốn đầu tư năm 2000 đã tăng gấp 2 lần năm 1997 và gấp hơn 6 lần năm 1991. Trong cơ cấu đầu tư hiện nay (từ ngân sách Nhà nước) đầu tư cho thuỷ lợi chiếm hơn 70% đầu tư cho toàn ngành. Xét trong cả giai đoạn 10 năm 1991-2000 tổng vốn đầu tư cho thuỷ lợi ước tính khoảng gần 20 000 tỷ đồng (khoảng 1.7 tỷ USD). Trong đó thời kỳ 1991-1995 đạt khoảng 5000 tỷ đồng (500 triệu USD) và thời kỳ 1996-2000 ước đạt khoảng 14 900 (1.2 tỷ USD) gấp 2.4 lần số vốn đầu tư thực hiện của thời kỳ 1991-1995. Nhà nước còn đầu tư cho công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn thông qua hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng người nghèo và các chính sách hỗ trợ tài chính khác. Năm 1998 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cho 6 triệu hộ nông dân vay khoangả 22 000 tỷ đồng để phát triển nông nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Tuy nhiên, đầu tư ngân sách cho nông nghiệp và nông thôn vẫn chưa khắc phục được tình trạng dàn trải theo vùng, hiệu quả thấp, thất thoát vốn lớn và đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ nhỏ bé. Ngoài nguồn vốn ngân sách Nhà nước nói trên, sau Nghị quyết 10 nông nghiệp nông thôn còn thu hút được vốn đầu tư từ các nguồn khác: vốn đầu tư của dân cư, vốn đầu tư của các doanh nghiệp, vốn tín dụng, vốn đầu tư nước ngoài... 2. Vốn đầu tư của dân cư Vốn đầu tư của dân cư bao gồm vốn đầu tư của nông dân, vốn đầu tư của người dân thành thị và kiều bào nước ngoài. Trong 2 năm 1997-1998 ước tính sơ bộ lượng vốn đầu tư phát triển của dân cư nói chung cho nông nghiệp nông thôn đạt bình quân hàng năm trên 7500 tỷ đồng, năm 1999 đạt 8202 tỷ đồng, năm 2000 ước tính đạt 9439.8 tỷ đồng bằng 115% so với năm 1999. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tỷ lệ tích luỹ trên GDP của khu vực nông thôn nước ta ngày càng tăng: năm 1990 là 5.2% năm 1995 là 10.6%. Theo số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư thì tốc độ trang bị đầu tư máy móc của hộ nông dân tăng lên một cách nhanh chóng. Trong vòng 10 năm (1985 đến 1995) số lượng máy kéo nhỏ đã tăng lên gấp 3 lần, máy kéo lớn tăng 1.4 lần, động cơ điện tăng lên 1.6 lần động cơ xăng chạy điezen tăng 1.4 lần, máy phát điện cỡ nhỏ tăng 12.5 lần, máy bơm nước tăng 2.8 lần, máy tuốt lúa tăng 3.2 lần, máy nghiền thức ăn gia súc tăng 5 lần, ôtô và các loại xe vận tải tăng lên 6 lần. Trang trại với số vốn tự có của dân từ 30 đến 50 triệu đồng (cao nhất là gần 1 tỷ đồng 1 trang trại) đang rất phổ biến. Nhiều địa phương đã xây dựng mới và cải tạo tr bổ được nhiều công trình hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn, góp phần đáng kể vào việc nâng cao đời sống kinh tế văn hoá xã hội ở nhiều làng xã. Theo thống kê sơ bộ tại 49 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, số vốn mà dân đóng góp cho xây dựng cơ sở hạ tầng của các làng xã đạt trên 5000 tỷ đồng, trong khi tổng vốn hỗ trợ từ các nguồn khác là 4400 tỷ đồng. Vốn đầu tư của dân không chỉ tăng về số lượng mà đã có sự chuyên môn hoá theo cơ cấu đầu tư hợp lý hơn: tập trung vào các vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá lớn như lúa gạo ở đồng băng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, cà phê ở Tây nguyên, cao su, hạt điều ở Đông Nam Bộ, nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng ven biển... Tuy nhiên do thu nhập của người nông dân nhìn chung còn thấp nên việc đầu tư bằng vốn tự có của họ chỉ chiếm tỷ lệ dưới 50% (giai đoạn 1990-1995) còn lại là vốn vay Ngân hàng nông nghiệp theo chỉ thị 202 của Chính phủ (tháng 6/1991). Những năm gần đây, giai đoạn 1996-2000 vốn đầu tư của dần đã có sự tập trung vào mở rộng sản xuất hàng hoá theo mô hình trang trại (trồng cà phê, cao su, hạt điều, vải, nhãn, nuôi trồng thuỷ sản...) chủ yếu tại các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây nguyên, đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ. Ước tính mỗi năm mỗi hộ nông dân đầu tư bình quân 1 triệu đồng thì nguồn vốn này cũng đạt tới 13 000 tỷ đồng. Theo số liệu của Tổng cục thống kê tỷ lệ tích luỹ so với GDP của khu vực thành thị tăng từ 12.9% năm 1990 lên 28.7% năm 1995, lượng vốn nhàn rỗi trong dân thành thị ngày càng lớn. Việc thu hút lượng vốn này rất quan trọng cho việc phát triển khu vực nông nghiệp nông thôn. Cùng với nguồn vốn của dân thành thị trong thời gian qua với trên 2 triệu kiều bào ta ở nước ngoài đã gửi về một lường kiều hối rất lớn. Năm 1998 trở về trước khoảng 800 triệu / năm tương đương khoảng 100 000 tỷ đồng Việt Nam, năm 2000 lượng vốn này khoảng gần2 tỷ USD. Đây là một con số đáng kể, nó đã bổ sung một lượng vốn đầu tư quan trọng cho nguồn vốn của nhân dân để thực hiện quá trình công nghiệp hóa hiện đại hoá nông thôn đất nứơc nói chung và nông nghiệp nông thôn nói riêng. 3. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài Việc huy đồng các nguồn lực từ bên ngoài có ý nghĩa quan trong với việc thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn Đầu tư nước ngoài vào phát triển nông nghiệp và nông thôn có tác dụng tích cực tới việc khai thác lợi thế về tài nguyên sinh học đa dạng, về nhân lực, nâng cao trình độ khoa học công nghệ, mở rộng thị trường. Trong những năm qua, đầu tư nước ngoài (kể cả đầu tư trực tiếp và gián tiếp) tăng lên đáng kể, góp phần nhất định vào việc phát triển nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là sau khi có luật đầu tư nước ngoài (1988). Nếu như năm 1988 có 37 dự án với số vốn là 23.6 triệu USD thì năm 1996 đã có 326 dự án với số vốn đầu tư là 5548 triệu USD. Trong nguồn vốn đầu tư nước ngoài thì đầu tư trực tiếp đã trở thành một bộ phận quan trọng của hoạt động đầu tư toàn xã hội. Riêng trong giai đoạn 1987-1994, FDI vào lĩnh vực nông nghiệp đạt 784 triệu USD (chiếm 8.2% tổng vốn FDI của cả nền kinh tế trong giai đoạn), nhưng tỷ lệ vốn thực hiện còn ở mức rất thấp23.5% do sức hấp dẫn của các dự chưa cao. Tuy nhiên nhờ có chính sách khuyến khích của Nhà nước, dòng vốn này vẫn tiếp tục tăng qua các năm. Nếu năm 1989 cả nước mới chỉ có 5 dự án FDI với 2.8 triệu USD vào nông nghiệp và nông thôn thì đến năm 1998 đã có 225 dự án với số vốn đăng ký lên tới trên 2.4 tỷ USD ( gồm 910 triệu USD cho sản xuất nông nghiệp và khoảng 1.5 tỷ USD cho lĩnh vực chế biến lương thực, thực phẩm nông lâm hải sản) chiếm khoảng 7% tổng số vốn đăng ký cả nước, số vốn đã triển khai đạt 467 triệu USD. Đến tháng 9 năm 1998 thì FDI vào nông nghiệp nông thôn chỉ chiếm 10% về số dự án và 5% về số vốn. Các dự án FDI chủ yếu tập trung vào trồng và chế biến cao su, cà phê, chè, mía, đường, mì chính, gạo, chăn nuôi gia súc, gia cầm theo phương pháp công nghiệp, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến nông lâm thuỷ sản nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm theo yêu cầu của thị trường quốc tế. Hiệu quả sử dụng vốn FDI cũng đáng khích lệ, năm 1997 doanh thu của các dự án này là 60 triệu USD lợi nhuận trên 30 triệuUSD, kim ngạch xuất khẩu đạt gần 300 triệu USD, giải quyết việc làm cho trên 20 ngàn lao động trực tiếp và hàng chục ngàn lao đông gián tiếp với mức lương bình quân là60 USD/tháng. Bước sang năm1998 cho đến năm 2000, tình hình thu hút FDI trong nông nghiệp nông thôn có phần "ảm đạm" hơn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng khu vực Châu á. Theo số liệu tổng hợp của Bộ kế hoạch và đầu tư, vốn đầu tư nước ngoài đăng ký năm 2000 đạt khoảng 2.4 tỷ USD, trong khi lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp chỉ có 36 dự án với tổng số vốn đăng ký là 55.4 triệu USD (chiếm khoảng 2.34% tổng vốn FDI đăng ký). Trong những ngay cuối của năm 2000, chúng ta đã cấp giấy phép cho dự án chế biến nông nghiệp với số vốn là150 triệu USD để gối đầu năm 2001 tạo đà tăng trưởng cho toàn ngành. Ngoài các dự án sử dụng vốn FDI, trong các năm qua nguồn vốn vay, viện trợ, hợp tác khoa học kỹ thuật của các quốc gia phát triển và các tổ chức quốc tế (UNDP, FAO, ADB, WB, IMF, UNICEF, OECF ... )trong lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn tiếp tục gia tăng góp phần đáng kể vào sự phát triển của nông nghiệp nông thôn. Đến nay, lĩnh vực nông nghiệp nông thôn đã thu hút trên 1.5 tỷ USD vốn cam kết hỗ trợ phát triển chính thức. Nguồn vốn này chủ yếu tập trung vào việc nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn (nhất là miền núi), thuỷ lợi, nước sạch, vệ sinh môi trường, sức khoẻ cộng đồng, đặc biệt là sức khoẻ phụ nữ và trẻ em... Các dự án này đóng góp hàng trăm tỷ đồng mỗi năm, một đóng góp quan trọng để tăng nguồn vốn, nâng cấp cơ sở hạ tầng vật chất phục vụ nông nghiệp và nông thôn. Nhưng nhìn chung, đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp và nông thôn còn rất hạn hẹp. So với các lĩnh vực đầu tư khác như công nghiệp nhẹ, dầu khí, du lịch và dịch vụ, thì nông nghiệp nông thôn là khu vực kém hấp dẫn hơn do độ rủi ro cao hơn, mức độ sinh lời thấp hơn. Bởi vậy để thu hút đầu tư nước ngoài cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn cần phải tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn, thích hợp với từng loại hình thức đầu tư. 4. Nguồn vốn tín dụng Rõ ràng vốn đầu tư từ các nguồn trên không thể đáp ứng đủ nhu cầu đầu tư của xã hội cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, trên thực tế chỉ đáp ứng đước trên dưới 50%. Chính vì vậy mà vai trò của nguồn vốn tín dụng là không thể thiếu. Hiện nay có nhiều tổ chức tín dụng khác nhau cùng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nông nghiệp nông thôn. Hệ thống tín dụng phục vụ nông nghiệp nông thôn đã từng bước khôi phục và phát triển góp phần không nhỏ vào việc giải quyết nhu cầu vốn cho sản xuất của nông dân. Cụ thể là hệ thống các Ngân hàng Thương mại quốc doanh, một số Ngân hàng cổ phần, hệ thống các quĩ tín dụng nhân dân, Ngân hàng người nghèo và các quĩ cho vay theo chương trình 120,327,773... các ngân hàng nước ngoài có số dư tín dụng khá cao nhưng số đầu tư vào khu vực nông nghiệp nông thôn không lớn lắm. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn giữ vai trò chính, là chủ thể cung cấp tín dụng chủ yếu cho đầu tư vào nông nghiệp nông thôn: Năm 1991 dư nợ là2847 tỷ đồng đến năm 1995 con số này đã lên tới 16 000 tỷ đồng Việt Nam. Tính đến hết quí I năm 1998 nguồn vốn kinh doanh của hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã lên tới 27 000 tỷ đồng. Cùng với các chính sách huy động, các cơ chế và chính sách cho vay cũng thường xuyên được cải tiến nên tổng mức dư nợ cũng tăng nhanh. Vào quí I năm 1998 tổng mức dư nợ đã lên đến 24 000 tỷ đồng. Tuy nhiên trong tổng số dư nợ tính đến hết quí I năm 1998 thì có khoảng gần 7000 tỷ đồng chiếm 28% là dư nợ trung và dài hạn. Đến tháng 8 năm 2000 dư nợ tín dụng cho khu vực nông thôn đã tăng 10 339 tỷ đồng. Trong thời gian tới việc khuyến khích đầu tư ngày càng được cởi mở, thông thoáng thì nhu cầu vay vốn để trong khu vực nông nghiệp nông thôn sẽ tăng lên. Điều đó cũng có nghĩa là nhu cầu vay vốn trung và dài hạn cũng sẽ tăng lên. Mức dư nợ tín dụng trung và dài hạn như hiện nay còn cách khá xa so với nhu cầu vay vốn. Vì vậy cần có những điều chỉnh cho phù hợp để tạo vốn tín dụng cung cấp đủ cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. II- Tình đầu tư cho công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn 1. Đầu tư cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn Phát triển cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống thuỷ lợi, điện, đường giao thông, trường học, trạm xá, bệnh viện. Nhìn chung trong những năm qua sự đầu tư vào nông nông thôn chủ yếu là tập trung cho sự phát triển nông nghiệp. Gần như 80% số vốn Chính phủ đầu tư để hiện đại hoá nền nông nghiệp là tập trung cho thuỷ lợi và một phần xây dựng hệ thốg điện trong nông thôn. Riêng năm 1996 Nhà nước đã đầu tư 1737 tỷ đồng để đầu tư cho thuỷ lợi đưa tổng số các công trình thuỷ lợi lên 20 644 công trình (lớn và nhỏ). Trong đó có 20 502 công trình thuỷ nông (6272 hồ chứa nước tưới, 5899 cống, 2363 trạm bơm điện, 671 trạm bơm dầu, 4842 công trình phụ thuộc, 162 trạm thuỷ điện vừa tưới nước vừa cung cấp điện. Các công trình này bảo đảm tưới gần 53% diện tích gieo trồng, tiêu trên 2 triệu ha, ngăn mặn 0.7 triệu ha, chống lũ cho 2 triệu ha. Tuy nhiên việc đầu tư cho thuỷ lợi còn có sự chênh lệch lớn giữa các vùng. Con số về diện tích được tưới chứng tỏ điều này. Mấy chục năm qua đầu tư cho thuỷ lợi được tập trung ở các tỉnh đồng bằng, tiện lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp, chủ yếu tập trung đầu tư các công trình thuỷ lợi quy mô lớn và vừa. Vấn đề đầu tư thuỷ lợi ở các vùng sâu vùng xa và phát triển thuỷ lợi nhỏ đang đặt ra những thách thức mới. Tình trạng khô hạn ở miền Trung, Tây nguyên, miền núi phía Bắc, tình trạng lũ lụt ở các tỉnh Nam bộ đòi hỏi phải định hướng lại đầu tư cho thuỷ lợi. Nội dung quan trọng khác của phát triển cơ sở hạ tầng là phát triển hệ thống điện nông thôn. Cho đến nay, cả nước có 60.4% số xã, 49.6% số thôn bản, và53.2% số hộ đã có điện dùng. Tuy nhiên tỷ lệ này có sự chênh lệch lớn giữa các vùng. Nguyên nhân chủ yếu lá do Chính phủ không đủ kinh phí đầu tư hoàn chỉnh hệ thống điện như ở thành thị. Việc xây dựng hệ thống điện phụ thuộc vào sự đóng góp của nông dân địa phương mà nông dân ở các vùng xa vùng sâu nghèo không đủ kinh phí đóng góp. Về hệ thống đường giao thông ở nông thôn cũng chưa được quan tâm đầu tư, chủ yếu là do dân tự làm. Hiện nay cả nước có 150 000 km đường bộ. Trong đó quốc lộ chiếm 8%, tỉnh lộ chiếm 11%, huyện lộ chiếm21% và đường xã chiếm 60%.Tuy chiếm 81% chiều dài trong hệ thống đường của cả nước nhưng cac tuyến đường từ huyện trở xuống chất lượng rất kém, phần lớn là đường đất tự nhiên và đường cấp phối. Cả nước có 271 xã chưa có đường ôtô tới trung tâm, trong đó 48% ở các tỉnh miền núi và trung du Bắc Bộ, 23% miền Trung, 24% ở Tây nguyên. Để có thể thực hiện thành công công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn thì vấn đề đầu tư xây dựng hệ thống đường giao thông nông thôn trở nên hết sức quan trọng. Hệ thống trường học cũng là một trong những nội dung của công nghiệp hoá hiện đại hoá. Cho đến nay, 94.7% dân số Việt Nam biết chữ. Đó là kết quả của việc đẫu xây dựng cơ sỏ vất chất của các trường cùng với việc phát triển lực lượng giáo viên. Cả nước bình quân có 2.53 trường phổ thông cho một vạn dân. Các vùng như Đồng bằng sông Hồng, Khu bốn cũ, Đông Nam Bộ có số trường học tương đối nhiều gần 2.8 trường trên 1 vạn dân. Tuy nhiên số trường học cho 1 vạn dân ở Đồng bằng sông Cửu Long là 1.28, Tây nguyên là1.84, ở miền núi phía Bắc là 1.7. Chứng tỏ việc đầu tư xây dựng trương học ở các vùng này còn quá ít và manh mún. Nhiều tỉnh ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa do qúa nghèo, chất lượng cơ sở vật chất kỹ thuật của trường không đảm bảo điều kiện tối thiểu cho việc dạy và học. Cùng với hệ thống đường, điện và trường học, hệ thống bệnh viện, trạm y tế để chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân đã được quan tâm đầu tư xây dựng. Việc xây dựng các trạm y tế ở các thôn xã là điều kiện quan trọng để nhân dân tiếp cận các dịch rụ khám bệnh. Tuy nhiên mức độ đầu tư xây dựng các giương bệnh rất chênh lệch giữa các vùng. Số giường bệnh cho một vạn dân ở Duyên Hải miền Trung là12.1, ĐBSCL là12.7, miền núi phía Bắc là13.9 thấp hơn rất nhiều so với bình quân của cả nước là 23. Sự khác nhau về hệ thống điện, đường và chiến lược đầu tư là nguyên nhân cơ bản của sự khác nhau về hệ thống chăm sóc sức khoẻ cho dân ở các vùng nông thôn. 2. Đầu tư cho nghiên cứu và áp dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ sinh học vào nông nghiệp và nông thôn Cùng với việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, nông nghiệp và nông thôn còn được công nghiệp hoá hiện đại hoá thông qua việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học vào nông nghiệp. Trước hết là giống cây, giông con cho phù hợp với mỗi địa phương. Năm 1999, chỉ riêng Ngân sách đầu tư cho chương trình con giống đã lên tới 28 tỷ đồng. Năm 2000 kinh phí cho nghiên cứu và xây dựng cơ sở giống tăng lên đến 70 tỷ đồng. Như theo kế hoạch của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đưa ra 22 dự án, với tổng số vốn đầu tư 320 tỷ đồng thì mức đầu tư trên còn thấp. Mục tiêu của chương trình giống nhằm đẩy mạnh nghiên cứu và sản xuất giống (cây lương thực, cây ăn quả, cây lâu năm, giống gia súc, gia cầm) trong nước vươn kịp trình độ các nước trong khu vực. Đồng thời chọn lựa để nhập giống có năng suất cao mà ta chưa sản xuất được, đảm bảo giống tốt cho nông dân trồng trọt và chăn nuôi đạt hiệu quả. Bộ khoa học công nghệ cho biết từ tháng 8/1998 đến tháng 5/2001 đã có 172 dự án thuộc chương trình 132 đã và đang được triển khai tại tất cả 6 tỉnh thành trong cả nước. Trong đó có 72 dự án ở các xã miền núi và hải đảo (gồm 49 dự án cho vùng đồng bào dân tộc và các xã thuộc diện nghèo và đặc biệt khó khăn, 23 dự án ở các xã vùng sâu vùng xa), 100 dự án ở các xã đồng bằng và trung du. Những dự án này được phân bổ theo các mục tiêu và nội dung cụ thể là: 88 dự án cải thiện các loại giống cây, con, nâng cao trình độ canh tác, tăng năng suất cây trồng vật nuôi, tăng sản lượng. Hiệu quả trên mỗi đơn vị canh tác góp phần xoá đói giảm nghèo. Việc đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến nhằm đẩy mạnh hơn nữa nền kinh tế nông nghiệp hàng hoá. Lĩnh vực chế biến nông sản thực phẩm thu hút được nhiều dự án đầu tư nước ngoài và có qui mô đầu tư lớn với 68 dự án đăng ký1,679 tỷ USD. Nhà máy bột ngọt VEDAN đầu tư 322 triệu USD là một trong những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Riêng lĩnh vực công nghiệp mía đường có 10 dự án tổng vốn đăng ký 487 triệu USD, hiện có 6 nhà máy đi vào hoạt động nhưng mới đạt 30% công suất thiết kế. Ngoài ra còn một số dự án chế biến gạo xuất khẩu, bột mỳ, cà phê. Trong lĩnh vực chế biến thức ăn gia súc có 32 dự án với số vốn đầu tư là 419 triệu USD. Nhưng cho đến nay mới có 16 dự án hoạt động. Trong đó 11 dự án đạt hiệu quả cao như Proconco công suất 650 000 tấn/năm, doanh thu hàng năm của công ty đạt khoảng 134 triệu USD . Công nghệ sinh học đã góp phần làm cho sản xuất nông nghiệp phù hợp hơn với môi trường, nhất là vùng nghèo tài nguyên. Đi liền với giống mới, chúng ta đã áp dụng công nghệ hoá học như phân khoáng, thuốc bảo vệ thực vật. Ơ Việt Nam 90% lượng phân đạm dùng vẫn phải nhập khẩu. Công nghiệp phân đạm trong nước chưa được chú ý đầu tư chiều sâu đúng mức nên chất lượng thấp, giá thành còn cao. Điều đó nói lên công nghiệp phục vụ cho nông nghiệp chưa thực sự được đầu tư chiều sâu. 3. Đầu tư cho cơ giới hoá nông nghiệp và nông thôn Cơ giới hoá là khâu rất căn bản của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Đến năm 1997 cả nước có hơn 115 000 máy kéo được sử dụng trong nông thôn với số vốn đầu tư tăng gấp 1.5 lần so với năm 1985. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì tốc độ trang bị đầu tư máy móc trong nông nghiệp tăng lên một cách nhanh chóng. Ơ Tây nguyên nơi có nhiều cao su, chè, cà phê số máy nông nghiệp năm 1997 tăng 6.2 lần so với năm 1992. Số máy kéo dùng ở Đồng bằng sông Cửu Long năm 1997 tăng gấp 2 lần so với năm 1992. Thực hiện cơ khí hoá, hiện đại hoá ở các khâu thích hợp của quá trình sản xuất trong nông thôn như cày, bừa, bơm nước, vận chuyển... Bên cạnh các máy kéo nhỏ và vừa các máy công tác như bơm nước, nghiền thức ăn gia súc, tuốt lúa cũng tăng. Nhờ vậy phần lớn các công việc nặng nhọc đã được cơ giới hoá. Tỷ lệ làm đất bằng máy tăng từ 21% năm 1990 đến 27% năm 1997 và chủ yếu ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long do thiếu lao động hơn so với các vùng khác nên tốc độ cơ giới hoá cao hơn. Cơ giới hoá còn được hướng vào ở khâu vận chuyển. Đến năm 1997 cả nước có 22.000 ôtô các loại (không kể máy kéo và máy công nông) trong đó hơn 150.000 xe tải, gấp 2 lần so với năm 1990. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng mức độ cơ giới hoá rất khác nhau giữa các vùng. Số máy kéo tăng nhiều ở Đồng bằng sông Cửu Long, Tây nguyên và Đông Nam Bộ. Điều này là do mối quan hệ giữa việc làm, giá tiền công lao động và thuê máy qui định. Có xu hướng là những vùng thiếu lao động có tốc độ cơ giới hoá cao hơn so với những vùng đất chật người đông. Một vấn đề đặt ra cho quá trình cơ giới hoá ở nước ta là ruộng đất qui mô nhỏ, manh mún, lao động nông thôn dư thừa nhiều. Trong khi đó hướng cơ giới hoáphần lớn ở các năm vừa qua là đầu tư mua sắm máy móc, công cụ có công suất lớn nhằm giải phóng sức lao động khỏi nông nghiệp. Quá trình cơ giới hoá cần phải góp phần tạo ra việc làm cho nông dân. 4. Đầu tư xây dựng các trọng điểm kinh tế Xây dựng các trọng điển kinh tế ở từng vùng bằng cách đầu tư xây dựng các trung tâm công nghiệp, thu hút lao động nông thôn và thực hiên công nghiệp hóa các vùng nông thôn. Theo các tác giả Quý Hào và Đức Long (1998) ở Việt Nam hiện có 57 khu công nghiệp được hình thành từ sau năm 1991. Các khu công nghiệp này đã thu hút được 5.5 tỷ USD vốn đăng ký, 10 vạn lao động và đóng góp 11% giá trị xuất khẩu của cả nước. Có hai loại khu công nghiệp được hình thành trên cơ sở đã có một số doanh nghiệp đang hoạt động trên đó hay di dời một số doanh nghiệp công nghiệp ra các vùng nông thôn. Những khu công nghiệp này thường có quy mô nhỏ, ở Đồng bằng sông Hồng, các tỉnh miền trung, đồng bằng sông Cửu long phục vụ chế biến nông sản. Hai là các khu công nghiệp mới thành lập phân bố khá rộng trên các vùng đất nước. Tuy nhiên sự phân bố của các khu công nghiệp này không đồng đều giữa các vùng, chỉ tập trung chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai vung đông nam bộ và Hà Nội thuộc đồng bằng sông Hồng. Trong khi đó các vùng Tây Nguyên, khu bỗn cũ, Miền núi và trung du bắc bộ hầu như không có khu công nghiệp nào. Tình trạng này tạo ra sự khác biệt trong tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế giữa các vùng. III. Đánh giá chung về kết quả đầu tư cho CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. 1. Những thành tựu đã đạt được: Có thể nói sau 10 năm đổi mới nông nghiệp và nông thôn đã đạt được những thành tựu vượt bậc, thể hiện trên một số mặt sau: Sản xuất nông nghiệp đã phát triển toàn diện, liên tục tăng trưởng cao (đạt tối thiểu bình quân 4.3%/năm). Năm 1997 so với năm 1987 sản lượng lương thực tăng 1.8 lần, bình quân mỗi năm tăng từ 1 - 1.2 triệu tấn, sản lượng cà phê tăng 20 lần, cao su tăng 3.5 lần. chè tăng 1.8 lần. Năm 1998 mặc dù bị hạn hán, lũ lụt nặng nề ở nhiều nơi nhưng sản lượng lương thực vẫn đạt 31.8 triệu tấn tăng 1.2 triệu tấn so với năm 1997. Cơ cấu giá trị sản lượng nông, lâm, thuỷ sản cả nước giai đoạn 1990-2000 Đơn vị: % 1990 1995 1998 2000 Nông n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0157.doc
Tài liệu liên quan