Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

Tổng điều tra đánh giá hiệu quả thực tế các doanh nghiệp sau CPH để rút ra những kinh nghiệm về thành công và chưa thành công của các doanh nghiệp. Qua đó làm cho mọi doanh nghiệp thấy được lợi ích rõ ràng, những bài học cụ thể từ CPH. Điều nay sẽ có tác động làm thay đổi nhận thức, tạo những hiểu biết tốt hơn, từ đó tạo niềm tin và động lực từ bên trong của doanh nghiệp. Đồng thời có chiến lược hỗ trợ một cách có hiệu quả về đào tạo nâng cao năng lực trước, trong và sau CPH.

Nhanh chóng thực hiện những biện pháp giải quyết dứt điểm những vướng mắc hiện nay về vấn đề đất đai, tài sản và những vướng mắc về lao động và đảm bảo lợi ích cho người lao động (không để CPH làm thiệt hại đến lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp). Đặc biệt cần sớm chấm dứt trên thực tế ( không phải chỉ trên giấy tờ văn bản) sự phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, nhất là các DNNN đã CPH. Điều này rất quan trọng và sẽ là một nhân tố thúc đẩy doanh nghiệp tiến hành CPH có hiệu quả.

 

doc16 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1630 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g đến mối quan hệ giữa tư bản và lao dộng. Tập trung tư bản tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường bóc lột giá trị thặng dư, nên đẩy nhanh tích tụ tư bản. Tập trung tư bản có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhờ tập trung tư bản mà xây dựng được những xí nghiệp lớn, sử dụng được kỹ thuật và công nghệ hiện đại. II/ KHÁI NIỆM, MỤC TIÊU VÀ THỰC CHẤT CỔ PHẦN HÓA DOANH NHIỆP NHÀ NƯỚC: Cổ phần hoá (CPH) các doanh nghiệp Nhà nước thực chất là quá trình chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần là một biện pháp chuyển doanh nghiệp từ sở hữu Nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần, trong đó tồn tại một phần sở hữu Nhà nước. CPH là chủ trương đã được thực tế chứng minh là rất đúng đắn ,có tác dụng rõ rệt nâng cao hiệu quả DNNN.Chủ trương này đã được quan tâm hoàn thiện,luật hóa và gần đây tập trung chỉ đạo đạt kết quả khá hơn. Theo Nghị quyết TW 3 (khóa IX) của Đảng và nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16.11.2004 của Chính phủ về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần,ngoài việc huy động thêm vốn của xã hội để tăng cường năng lực tài chính, thì mục tiêu của CPH là nhằm sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước,nâng cao hiệu quả,sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước và nền kinh tế nói chung, thông qua việc thay đổi cơ cấu sở hữu, tạo ra động lực mới và chuyển DNNN sang phương thức quản lý mới năng động,chặt chẽ hơn. Nhìn bề ngoài , CPH là quá trình : xác định lại mục tiêu,phương hướng kinh doanh, nhu cầu vốn điều lệ và chia ra thành cổ phần,đánh giá lại tài sản của doanh nghiệp, quyết định mức vốn Nhà nước cần nắm giữ và rao bán rộng rãi phần còn lại. Qua đó làm thay đổi cơ cấu sở hữu, huy động thêm vốn, xác lập cụ thể những người tham gia làm chủ, được chia lợi nhuận và chuyển DNNN thành công ty cổ phần, thuộc sở hữu của tập thể cổ đông và chuyển sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Song để hiểu rõ thực chất của CPH, cần thấy rằng trong công ty cổ phần, trên cơ sở vốn điều lệ được chia ra thành nhiều phần, thì quyền lợi và trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh cũng được phân ra thành những đơn vị và có cơ cấu xác định tương ứng với cơ cấu sở hữu. Do đó, sỡ dĩ CPH có thể nâng cao hiệu quả của các DNNN là do qua CPH, cơ cấu sở hữu của doanh nghiệp được thay đổi, dẫn tới cơ cấu và cơ chế thực hiện quyền lợi và trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh cũng thay đổi theo ; từ đó tạo ra một cơ cấu động lực có chủ thể rõ ràng và hợp lực mới mạnh mẽ hơn; đồng thời, chuyển doanh nghiệp sang vận hành theo cơ chế quản lý mới, tự chủ, năng động hơn, nhưng có sự giám sát rộng rãi và chặt chẽ hơn. Cho nên, thực chất CPH nói chung chính là giải pháp tài chính và tổ chức, dựa trên chế độ cổ phần, nhằm đổi mới cơ cấu và cơ chế phân chia quyền lợi và trách nhiệm gắn chặt với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn CPH theo phương thức hiện hành là giải pháp nhằm làm thay đổi cơ cấu sở hữu, dẫn tới thay đổi cơ cấu và cơ chế thực hiện quyền lợi và trách nhiệm từ chỗ chỉ có nhà nước nắm quyền và chịu trách nhiệm chuyển sang chia sẻ kết quả kinh doanh, cả quyền lợi và trách nhiệm, lợi nhuận và rủi ro cho những người tham gia góp vốn, qua đó tạo ra động lực, trách nhiệm và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp. PHẦN II THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA I/ MỘT SỐ THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC: Các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa do huy động thêm được vốn để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ nên năng lực sản xuất kinh doanh, năng suất, hiệu quả, lợi nhận cao hơn trước. Quyền lợi của người lao động trong công ty đồng thời là các cổ đông gắn với quyền lợi của công ty. Người lao động một mặt làm việc với tinh thần trách nhiệm cao vì quyền lợi của mình, mặt khác cũng yêu cầu Hội đồng quản trị , giám đốc điều hành phải chỉ đạo và lãnh đạo công ty hoạt động có hiệu quả để lợi nhuận cao hơn. Phương pháp quản lý, điều hành doanh nghiệp thay đổi, từ việc Giám đốc doanh nghiệp nhà nước do cấp trên chỉ định sang hình thức cổ đông bầu hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Ban giám đốc do đó trách nhiệm của hội đồng quản trị và giám đốc điều hành cao hơn, hoạt động của doanh nghiệp có tính đến hiệu quả cụ thể hơn. Cổ phần hóa là chuyển từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu nhiều thành phần, tạo điều kiện cho người lao động thật sự làm chủ doanh nghiệp, làm cho tài sản xã hội tăng lên. Tính khả thi và hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước – cổ phần hóa nói riêng và các doanh ngiệp cổ phần nói chung đã được thực tế chứng minh. Một không khí sản xuất mới đã dược thiết lập. Tình trạng lãng phí của cải, tài sản giảm thiểu, vấn đề ăn nhậu xa hoa không còn, tiền phong bao cũng không có. Bởi vì thông thường điều lệ của các công ty quy định rất rõ định mức các khoản chi nhất là chi tiếp khách. Nhà nước đã thu về được một lượng vốn đáng kể, các chỉ tiêu khác như vốn, nộp ngân sách, việc làm, thu nhập bình quân đều tăng đáng kể. Nhờ sự làm ăn có hiệu quả tốt nên giá cổ phiếu của công ty cổ phần hóa đã tăng nhanh. Giá trị cổ phiếu bình quân tăng 2 đến 3 lần Hiệu quả kinh doanh có tiến bộ đáng kể. Báo cáo hoạt động của 50 doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá hơn một năm cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đều có chuyển biến tích cực trên nhiều mặt, kể cả các doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá bị thua lỗ, doanh thu hàng năm tăng gần 30%, có một số tăng 50%. Trong 6 tháng đầu năm 1999 có công ty cổ phần đạt doanh thu gấp đôi so với trước khi cổ phần hóa . điển hình là công ty cơ điện lạnh đạt 360 tỷ đồng so với 80 tỷ đồng, công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển đạt 160 tỷ đồng so với 16 tỷ đồng. Số lao động không bị giảm mà còn tăng bình quân 10%, có công ty tăng trên 20%. Ví dụ công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An từ 900 người lên 1280 người, công ty cổ phần cơ điện lạnh từ 334 người tăng lên 739 người, công ty cổ phần đại lý liên hợp vận chuyển từ 85 người tăng lên 350 người. Thu nhập của người lao động tăng bình quân 20% (chưa kể thu nhập cổ tức), điển hình là công ty liên hiệp vận chuyển, trước khi cổ phần hóa thu nhập là 1.1 triệu đồng/người/tháng, nay đạt 4.4 triệu đồng/người/tháng. công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc từ 524 ngàn đồng tăng lên 1.3 triệu đồng. Lợi nhuận trước thuế hàng năm tăng lên 26%, có công ty đạt tổng lợi nhuận gấp hai ba lần so với trước khi cổ phần hóa. Ví dụ: Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển lãi từ 4.1 tăng lên 37 tỷ đồng, công ty cổ phần cơ điện lạnh lãi từ 8.8 tỷ đồng tăng lên 34 tỷ đồng. Nộp ngân sách hàng năm tăng bình quân trên30%, một số công ty đạt gấp đôi so với trước khi cổ phần hóa . Chẳng hạn năm 1998, công ty cổ phần Cơ điện lạnh nộp ngân sách 68 tỷ đồng so với 3,7 tỷ đồng trước khi cổ phần hóa ; Công ty cổ phần đại lý Liên hiệp vận chuyển nộp ngân sách 40 tỷ đồng so với 5,1 tỷ đồng trước khi cổ phần hóa . Vốn điều lệ tăng bình quân trên 25%/năm, có một số tăng lên 2 lần. Lãi cổ tức đạt cao hơn lãi tiết kiệm bình quân đatẹ 12% /tháng, Công ty cổ phần sửa chữa và đóng tàu thuyền Bình Định đạt 20% trong năm 98, các Công ty cổ phần sơn Bạch Tuyết , chế biến thức ăn gia súc, chế biến hàng xuất khẩu Long An đều đạt cổ tức 2% /tháng. Về thực hiện mục tiêu cổ phần hóa – doanh nghiệp nhà nước , tuy số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa mới chiếm 7% tổng số doanh nghiệp hiện có nhưng qua đó bước đầu đã huy động thêm được các nguốn vốn khác ngoài nguồn vốn nhà nước để đầu tư vào doanh nghiệp cổ phần hóa . Mặt khác, thực tế cho thấy, phần vốn nhà nước tại các doang nghiệp cổ phần hóa không những không bị giảm đi mà ngược lại đã tăng lên từ 10-15% so với giá trị ghi trên sổ sách. Thay đổi phương thức quản lý tạo động lực cho thúc đẩy kinh doanh đạt hiệu quả cao. Vai trò làm chủ thực sự của người lao động với tư cách là cổ đông trong công ty cổ phần bước đầu khơi dậy, phát huy thể hiện ở tinh thần hăng say, tự giác làm việc, ý thức tổ chức kỷ luật và tiết kiệm trong sản xuất – kinh doanh được nâng lên, nhằm chi tiêu kinh tế tăng lên rõ rệt so với thời kỳ trước khi cổ phần hóa . II/ NHỮNG MẶT HẠN CHẾ: CPH tuy đã đạt được một số kết quả tích cực nhưng so với yêu cầu đổi mới còn chậm. Vốn Nhà nước trong các DNNN đã CPH còn nhỏ và việc huy động vốn trong quá trình chưa được nhiều, hời gian tiến hành CPH một doanh nghiệp còn quá dài.Thường xuyên không hoàn thành kế hoạch đề ra. So với đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì số DNNN được CPH chưa đạt 80%. Số lượng doanh nghiệp được CPH trong năm 2005 tuy đạt con số 754 đơn vị, nhưng nếu so với yêu cầu của Nghị Quyết Hội nghị lần thứ 9 ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX là phải hoàn thành về cơ bản việc CPH DNNN vào năm 2005 là chưa đạt. Theo báo cáo kết quả khảo sát của dự án hỗ trợ kỹ thuật giám sát chuyển đổi sở hữu DNNN tại 934 doanh nghiệp đã CPH cho thấy, thời gian CPH một doanh nghiệp tuy đã giảm từ 512 ngày (năm 2001) xuống còn 437 ngày (năm 2004) nhưng vẫn còn dài. Chuyển sang công ty cổ phần doanh nghiệp trở thành đa sở hữu về vốn. Nhưng thực tế trong số gần 3000 doanh nghiệp đã cổ phần, thì chỉ có 30% Nhà nước không giữ một đồng vốn nào, 29% Nhà nước giữ cổ phần chi phối trên 51%. Nhà nước đang còn nắm khoảng 46,5% vốn kinh doanh của các doanh nghiệp này. Như vậy thực chất mới chỉ có khoảng 8% vốn kinh doanh của các DNNN đã CPH thuộc về các chủ sở hữu khác-không phải Nhà nước ( phần lớn là những cổ đông vốn là người lao động trong doanh nghiệp). Con số này là quá ít. Vì nói đến CPH thì chỉ tiêu chủ yếu nhất là CPH vốn kinh doanh,do vậy có thể nói rằng CPH các DNNN được thực hiên rất chậm chạp, chưa nhiều. Qua số liệu trên ta cũng nhận thấy mặc dù đã cổ phần hóa nhưng Nhà nước vẫn là cổ đông lớn nhất , đồng thời phần lớn các công ty cổ phần được thành lập theo cách này đang được Nhà Nước nắm cổ phần chi phối.Điều đáng nói là tỷ lệ vốn điều lệ mà Nhà nước còn nắm tại các công ty cổ phần không giảm mà ngày càng tăng. Nếu thời kì đầu (1992-1998) tỷ lệ cổ phần mà Nhà nước nắm trong các công ty cổ phần là 28% thì đến thời kì 2001-2004 tỷ lệ này lên tới 49,8% và hiện nay bình quân là 46,5%. Việc Nhà nước đang còn nắm quá nhiều vốn cho thấy sự chi phối, gây ảnh hưởng của Nhà nước vẫn ở mức độ lớn (dưới các hình thức khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp). Do vậy trong nhiều doanh nghiệp đã CPH chưa thấy có những thay đổi căn bản về tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh theo mô hình mới của một công ty cổ phần thực thụ. Các doanh nghiệp này vẫn chưa có hay rất thiếu những cổ đông mới có quyền lực mạnh, các cổ đông chiến lược mới. Việc Nhà nước còn nắm cổ phần chi phối trong nhiều doanh nghiệp đã CPH cũng cho thấy Nhà nước còn đầu tư dàn trải trên nhiều lĩnh vực và phạm vi hoạt động kinh doanh, chưa có sự tập trung vốn cần thiết vào các lĩnh vực, các ngành hay các doanh nghiệp trọng điểm mà ở đó cần có sự hiện diện của Nhà nước. Mặc dù có chuyển biến trong năm 2005 là đã có những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả , có quy mô vốn lớn và một số tổng công ty đang CPH, nhưng nhìn chung đại đa số các doanh nghiệp đã CPH đều có vốn Nhà nước quá nhỏ, điều này chứng tỏ chúng ta mới chỉ CPH được các doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ. Đó cũng là các doanh nghiệp chủ yếu do các địa phương quản lý. Trên thực tế các doanh nghiệp này không có vai trò đáng kể và không thể hiện được vai trò là những DNNN chủ đạo trong nền kinh tế. Và như thế chúng ta mới thực hiện được phần dễ nhất trong toàn bộ khối lượng công việc phải làm. Số lượng các doanh nghiệp CPH có quy mô vốn Nhà nước dưới 5 tỷ đồng chiếm tới gần 60%, chỉ có 18,5% số doanh nghiệp CPH có quy mô vốn Nhà nước trên 10 tỷ VNĐ.Điều đó dẫn đến tình trạng là về mặt số lượng DNNN đã CPH chiếm tới 53% tổng số DNNN có tại thời điểm đầu năm 2001, nhưng về vốn mới chỉ chiếm hơn 10%. Như vậy là số vốn chưa được CPH còn rất lớn (khoảng 270.000 tỷ đồng). Số vốn nay đang nằm trong các doanh nghiệp lớn. Việc tiến hành CPH các doanh nghiệp này không hề đơn giản như đã làm trong thời gian qua vì vai trò, tầm quan trọng và phạm vi kinh doanh, phạm vi ảnh hưởng của các doanh nghiệp này rất lớn và phức tạp hơn nhiều. Rõ ràng để CPH thành công các doanh nghiệp này cần phải có những giải pháp thích hợp Những cản trở đối với quá trình CPH các DNNN trong thời gian qua : Chiến lược, chính sách và cơ chế quản lý chưa phù hợp, rõ ràng, không có quy định ưu tiên. CPH đối với doanh nghiệp hay bộ phận kinh tế nào. Công tác chuẩn bị và hỗ trợ các DNNN thực hiện CPH chưa làm tốt nên nhiều doanh nghiệp khi tiến hành CPH gặp rất nhiều khó khăn , nhất là vấn đề giải quyết các tồn tại của DNNN trước đây hay giải quyết vấn đề người lao động dư thừa khi CPH. Hơn nữa nhiều doanh nghiệp đang gặp khó khăn nếu không có sự trợ giúp thì rất khó chuyển thành công ty cổ phần. Một số nội dung, cơ chế chính sách đưa ra chưa thực sự bám sát đời sống doanh nghiệp. Tiến hành CPH DNNN là một giải pháp cải cách mang tính chất triệt để nhất, cương quyết nhất, cho nên rất cần phải có văn bản pháp luật có tính pháp lý cao làm cơ sở vững chắc cho việc triển khai thực hiện. Nhưng trên thực tế vẫn còn thiếu một hệ thống các văn bản pháp quy có tính pháp lý cao như luật, pháp lệnh về CPH. Đội ngũ cán bộ chỉ đạo đổi mới DNNN chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Số lượng cán bộ kiêm nhiệm còn nhiều nên ít chú trọng, thiếu chủ động và kiên quyết trong việc tổ chức triền khai và đẩy nhanh CPH. Công tác giám sát và đôn đốc của ban chỉ đạo TW đối với công tác CPH ở các cấp cơ sở chưa được tốt. Cuối cùng là vai trò của các doanh nghiệp. Dường như vấn đề CPH vẫn chưa phải là nhu cầu tự thân, nhu cầu nội tại của các DNNN, thậm chí còn là sự miễn cưỡng.Trong thực tế thực hiện, hầu hết các chương trình hay kế hoạch CPH đều là của các bộ, ngànhhay chính quyền địa phương, chưa có (hoặc nếu có thì cũng rất ít) doanh nghiệp chủ động đề xuất đưa tên mình vào chương trình hay kế hoạch đó. Điều này chỉ có thể lý giải là đối với các doanh nghiệp, CPH không hấp dẫn họ. Hầu hết các DNNN vẫn không muốn, hay né tránh, hoặc tìm cách né tránh thực hiện CPH vì muốn được an toàn hơn và không muốn bị mất đi lợi ích hay lợi thế đang có. Một trong những lợi thế đang mang lại quá nhiều lợi ích-lợi nhuận siêu ngạch đó là sự độc quyền hoặc những ưu đãi mà các doanh nghiệp vẫn nghĩ chỉ là DNNN mới có được. Ở đây Nhà nước và các DNNN chưa có cùng một suy nghĩ và hành động. Do vậy nếu còn có sự khác nhau về thái độ và quyết tâm đối với CPH và khi các DNNN vẫn còn e ngại và nghi ngờ, chưa quyết tâm thì vẫn còn nhiều trở ngại cho quá trình. III/ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM: 1. Nhận thức đúng đắn về CPH DNNN Mục tiêu của đẩy mạnh tuyên truyền cổ động cho CPH là làm cho các cấp các ngành,từng doanh nghiệp và từng người lao động nhận thức sâu sắc về CPH như một xu thế tất yếu và sẽ đem lại lợi ích lâu dài cho cả Nhà nước lẫn cá nhân. Từ đó tích cực,yên tâm thực hiện CPH, đẩy nhanh tiến độ thực hiện chủ trương quan trọng này của Đảng và Nhà nước. Tăng cường giáo dục cho cán bộ Đảng viên trong các cơ quan Nhà nước và nhân dân hiểu rõ chủ trương của Đảng, Nhà nước và lợi ích của CPH DNNN. Đây là một công việc rất quan trọng nhưng từ trước đến nay chưa được quan tâm đúng mức. Làm cho các cấp, các ngành, các DNNN quán triệt sâu sắc và có nhận thức đúng đắn về chủ trương,chính sách và các giải pháp đổi mới và phát triển DNNN. CPH DNNN không thể làm chệch hướng của nước ta lên CNXH. 2. Hoàn thành cơ chế chính sách Nhà nước cần xem xét, soạn thảo và sớm ban hành một văn bản pháp lý cao về CPH để thể chế chủ trương CPH với các quy định rõ ràng, cụ thể về các vấn đề, cổ phần khống chế, tiến trình định giá, chế độ hỗ trợ doanh nghiệp được CPH, chế độ chính sách đối với người lao động để doanh nghiệp yên tâm triển khai CPH. Sửa đổi và hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách phục vụ cho hoạt động CPH doanh nghiệp, nâng cao năng lực pháp lý của hệ thống chính sách có liên quan đến hoạt động chuyển đổi sở hữu DNNN, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động chuyển đổi sở hữu và đa dạng hóa doanh nghiệp. Để có căn cứ pháp lý cho việc CPH DNNN trên diện rộng, Chính phủ cần xúc tiến nghiên cứu trình Quốc hội ban hành đạo luật về CPH DNNN. 3. Tổ chức thực hiện có hiệu quả chủ trương CPH DNNN 3.1 Lựa chọn doanh nghiệp CPH Việc lựa chọn DNNN sang công ty cổ phần phải tính đến khả năng tham gia của các cá nhân và các tổ chức có vốn. Họ là người đầu tư tài chính vì mục tiêu lợi nhuận .Vì vậy không ai mua cổ phiếu ở các doanh nghiệp thua lỗ. Do đó trước mắt phải nhằm CPH các doanh nghiệp làm ăn có lãi và tương đối có uy tín trong kinh doanh. Việc lựa chọn DNNN để CPH còn liên quan đến điều kiện kinh tế xã hội hiện nay của đất nước. Việc CPH các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ là phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay. Trong thời gian tới cần tiến hành CPH các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn. 3.2 Tổ chức thực hiện kế hoạch CPH 3.2.1Tăng cương công tác chỉ đạo Thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Nhà Nước với vai trò chủ sở hữu , với những biện pháp quyết liệt hơn, khẩn trương hơn, có lộ trình cụ thể. Tiến hành mở nhanh những vùng,lĩnh vực kinh doanh đang còn độc quyền hay mang tính độc quyền, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau tham gia. Cùng với đó tập trung chỉ đạo thực hiện nhanh và kiên quyết việc CPH các DNNN lớn, chiếm giữ một lượng vốn lớn của Nhà nước, đang nắm nhiều lợi thế độc quyền nhưng chậm đổi mới. Đối với các doanh nghiệp này, thực hiện CPH còn phải được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của ban lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp. Họ phải có trách nhiệm thực hiện những chủ trương đổi mới và cải cách, những chiến lược của chủ đầu tư- của Nhà nước. Chỉ có thực hiện thành công ở các doanh nghiệp này thì mới hoàn thành sự nghiệp CPH các DNNN. Tổng điều tra đánh giá hiệu quả thực tế các doanh nghiệp sau CPH để rút ra những kinh nghiệm về thành công và chưa thành công của các doanh nghiệp. Qua đó làm cho mọi doanh nghiệp thấy được lợi ích rõ ràng, những bài học cụ thể từ CPH. Điều nay sẽ có tác động làm thay đổi nhận thức, tạo những hiểu biết tốt hơn, từ đó tạo niềm tin và động lực từ bên trong của doanh nghiệp. Đồng thời có chiến lược hỗ trợ một cách có hiệu quả về đào tạo nâng cao năng lực trước, trong và sau CPH. Nhanh chóng thực hiện những biện pháp giải quyết dứt điểm những vướng mắc hiện nay về vấn đề đất đai, tài sản và những vướng mắc về lao động và đảm bảo lợi ích cho người lao động (không để CPH làm thiệt hại đến lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp). Đặc biệt cần sớm chấm dứt trên thực tế ( không phải chỉ trên giấy tờ văn bản) sự phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, nhất là các DNNN đã CPH. Điều này rất quan trọng và sẽ là một nhân tố thúc đẩy doanh nghiệp tiến hành CPH có hiệu quả. Chính phủ cần tăng cường công tác chỉ đạo và thường xuyên kiểm tra tiến độ triển khai CPH của các bộ, địa phương và các tổng công ty để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp. Đông thời biểu dương những đơn vị làm tốt,phê phán những đơn vị triển khai không tích cực. Kiên quyết xử lý đối với những cán bộ được giao nhiệm vụ CPH nhưng còn chần chừ, do dự hoặc có hành vi cản trở tiến trình CPH.Chính phủ cần kiện toàn và củng cố bộ máy chỉ đạo thực hiện CPH. Phải tạo được nhận thức và xác định vai trò quản lý của Nhà nước đối với công ty cổ phần. 3.2.2 Tạo lập một môi trường thuận lợi cho việc hình thành và phát triển công ty cổ phần . Ổn định tiền tệ, giảm tốc độ lạm phát là điều kiện quan trọng nhất. Tiền tệ ổn định là điều kiện quan trọng cho sự ra đời của của công ty cổ phần, tiền tệ là yếu tố tác động đến nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ là vật ngang giá chung, có vai trò nối liền tất cả các loại thị trường và nó chỉ phát huy được chức năng khi có sự ổn định tiền tệ. Sự ổn định tiền tệ sẽ thúc đẩy sự ra đời các doanh nghiệp mới trong đó có công ty cổ phần. Bên cạnh đó, về thực chất người mua cổ phiếu là đầu tư tài chính với mục đích lợi nhuận cao hơn và đều có yêu cầu chung là phải an toàn trong khoản đầu tư đó. Nếu lạm phát họ sẽ không sẵn sàng mua cổ phiếu của công ty cổ phần. Lạm phát cao còn hạn chế khả năng phát hành cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp vì lợi tức cổ phiếu, trái phiếu cao doanh nghiệp không chịu nổi. Do đó lạm phát thấp sẽ thúc đẩy nhanh sự ra đời và phát triển của thị trường vốn trong nước. Đồng thời nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu và cả những người đầu tư lĩnh vực này. Thứ hai, hình thành thị trường chứng khoán để tác động tích cực góp vốn đầu tư phát triển công ty cổ phần. Khi chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần khu vực tư nhân được mở rộng, luật doanh nghiệp được ban hành. Theo luật này công ty cổ phần được phát hành trái phiếu và cổ phiếu là những mặt hàng cung cấp cho thị trường chứng khoán, nên thị trường chứng khoán được tổ chức thì việc mua bán chứng khoán được dễ dàng sẽ đưa vốn vào sản xuất tốt hơn. Thị trường chứng khoán và công ty cổ phần có tác dụng hỗ trợ tích cực cho nhau, thị trường chứng khoán là "chợ trao đổi hàng hóa cổ phần" cho công ty cổ phần. Công ty cổ phần là tiền đề đáp ứng hàng hóa cổ phần cho yêu cầu của thị trường chứng khoán. Như vậy qua thị trường chứng khoán người dân có điều kiện được thông tin đầy đủ hơn để xác định công ty cổ phần hay doanh nghiệp CPH làm ăn lành mạnh, có hiệu quả để tích cực tham gia mua cổ phiếu góp vốn vào sản xuất kinh doanh cho yêu cầu ích nước lợi nhà. Cuối cùng để thúc đẩy tiến trình CPH DNNN, cần tạo sự bình đẳng giữa các khu vực kinh tế, giữa đầu tư trong nước và nước ngoài, xóa bỏ bao cấp cho kinh tế quốc doanh dưới mọi hình thức để không còn chỗ dựa tạo đặc quyền, đặc lợi như trước đây. 3.2.3 Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ về tài chính như miễn thuế lợi tức, thuế thu nhập trong thời gian đầu của doanh nghiệp CPH để kích thích các thành phần kinh tế tham gia mua cổ phiếu. Theo điều 13 NĐ 44/1998/NĐ-CP về chuyển DNNN thành CPH,khi CPH DNNN được hưởng 6 ưu đãi chính: - DNNN chuyển thành CPH là hình thức đầu tư mới, được hưởng ưu đãi theo NĐ của luật khuyến khích đầu tư trong nước. Nếu không đủ điều kiện trên thì được giảm 50% thuế lợi tức trong 2 năm liên tiếp từ sau khi chuyển sang hoạt động theo luật doanh nghiệp. - Được miễn thuế tước bạ đối với việc chuyển nhượng tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của DNNN CPH thành sở hữu của công ty cổ phần. - Được tiếp tục vay vốn tại Ngân hàng thương mại, công ty tài chính - Được tiếp tục xuất nhập khẩu hàng hóa theo các chế độ quy định hiện hành đối với DNNN trước khi CPH. - Được duy trì và phát triển phúc lợi dưới dạng hiện vật - Các khoản chi phí thực tế, hợp lý và cần thiết cho quá tình chuyển DNNN thành công ty cổ phần được trừ vào tiền bán cổ phần thuộc vốn Nhà nước theo mức quy định của Bộ Tài chính. Thực tế tiến hành CPH DNNN cho thấy ưu tiên trên là hợp lý và phù hợp với thực tiễn của công tác CPH và được sự đồng tình của các doanh nghiệp. 3.3 Một số giải pháp khác: Nhà nước cần có chính sách giúp đỡ để công nhân viên chức có khả năng mua cổ phiếu ở các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền để nhân dân, đặc biệt là những người lao động làm cho họ hiểu rõ mục tiêu CPH là giúp họ có cơ hội làm chủ doanh nghiệp thông qua việc mua cổ phần. Nâng tổng giá trị ưu đãi cho người lao động ở những DNNN có vốn nhà nước nhỏ,số lượng lao động lớn để đảm bảo ưu đãi cho người lao động theo quy định. Các chính sách giải quyết lao động đã dư trước và sau CPH như: khuyến khích người lao động tự nguyện thôi việc, khuyến khích thành lập các trung tâm đào tạo và tuyển dụng lại lao động đã dư. Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ cho các hoạt động này. Thay đổi các tiêu chí về lương thưởng đối với người lãnh đạo, cán bộ quản lý doanh nghiệp cũng như chính sách phân bổ quỹ lương, quỹ phúc lợi. Mở rộng chủ trương huy động vốn trong toàn xã hội, bao gồm cả các nhà đầu tư trong ngoài nước, những người có khả năng góp vốn và năng lực quản lý với những doanh nghiệp mà Nhà nước không nên khống chế số lượng cổ phần của các pháp nhân, cá nhân. Việc định giá doanh nghiệp cần chi tiết và cụ thể hơn dựa trên nguyên tắc thị trường. Thủ tục định giá cần gọn nhẹ và các tiêu chí rõ ràng, khách quan, tránh tình trạng áp đặt theo ý kiến chủ quan của các chuyên gia định giá doanh nghiệp. Muốn vậy cần phải có chính sách công khai tài chính doanh nghiệp, có hệ thống hạch toán kế toán theo thông lệ quốc tế để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong các báo cáo tài chính doanh nghiệp. Có chính sách yêu cầu các doanh nghiệp CPH báo cáo két quả hoạt động kinh doanh của mình để làm cơ sở đánh giá kết quả CPH và tạo lòng tin cho các doanh nghiệp khác. Cuối cùng cần có chính sách và chương trình trong việc sử dụng tiền bán cổ phần tránh để lãng phí vốn "chết" tại kho bạc vì theo quy định hiện hành tiền bán cổ phần của Nhà nước khi thực hiện CPH được nộp đầy đủ vào kho bạc Nhà nước nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính. Công ty cổ phần không được sử dụng số tiền này vào bấ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở việt nam.doc
Tài liệu liên quan