Kiểm toán nhiều giai đoạn mà mỗi giai đoạn lại chịu sự điều chỉnh 
của nhiều chính sách, chế độ khác nhau là một công việc khó 
khăn cho các kiểm toán viên. Đặc biệt là việc phân định rạch ròi 
các giai đoạn, ví dụ: thông thường các cơ quan chức năng giao 
đơn giá tiền lương trên cơ sở cả niên độ năm tài chính, tuy nhiên 
khi thực hiện quyết toán quỹ tiền lương hạch toán vào chi phí thì 
phải áp dụng đơn giá tiền lương năm cho số tháng là doanh 
nghiệp nhà nước và phải xác định rõ ràng các chỉ tiêu tính lương 
như: doanh thu, sản lượng, lợi nhuận của số tháng là DNNN, 
mà đôi khi các chỉ tiêu này doanh nghiệp không có số liệu hoặc 
số liệu không đáng tin cậy, chỉ mang tính thống kê. 
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 17 trang
17 trang | 
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2147 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số khó khăn khi kiểm toán các Doanh nghiệp cổ phần hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một số khó khăn khi kiểm toán các 
Doanh nghiệp cổ phần hóa 
Chủ trương cổ phần hóa Doanh nghiệp của Đảng 
và Nhà nước ta trong các năm qua là một chủ 
trương lớn và đang đạt được những kết quả nhất 
định. Tuy nhiên trong quá trình cổ phần hóa đang 
bộc lộ nhiều mặt hạn chế như: Thời điểm IPO lần đầu, việc đánh 
giá giá trị tài sản, cổ phiếu ưu đãi, các thông tin liên quan có lợi 
mà các doanh nghiệp chưa thông báo hoặc cố tình không thông 
báo… 
Mặt khác các văn bản chế độ, chính sách về cổ phần hóa doanh 
nghiệp nhà nước vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Việc kiểm 
toán đối với các doanh nghiệp trong giai đoạn cổ phần hóa cũng 
rất mới mẻ đối với các kiểm toán viên, trong quá trình kiểm toán 
cũng phát sinh rất nhiều khó khăn, vướng mắc, thể hiện trên các 
mặt: 
Theo Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ 
về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ 
phần thì doanh nghiệp cần phải lập báo cáo tài chính ( BCTC ) tại 
các thời điểm chính như sau: 
Căn cứ vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa đã được cơ quan 
có thẩm quyền quyết định, doanh nghiệp có trách nhiệm điều 
chỉnh số liệu trong sổ kế toán; bảo quản và bàn giao các khoản 
nợ và tài sản đã loại trừ khi xác định giá trị doanh nghiệp; lập báo 
cáo tại chính doanh nghiệp giai đoạn từ thời điểm xác định giá trị 
doanh nghiệp đến thời điểm doanh nghiệp chính thức chuyển 
thành công ty cổ phần. 
Trong thời gian từ 01 tháng từ thời điểm được cấp Giấy chứng 
nhận đăng ký kinh doanh lần đầu, doanh nghiệp cổ phần hóa 
phải hoàn thành việc lập báo cáo tài chính tại thời điểm đăng ký 
kinh doanh, xác định giá trị phần vốn nhà nước tại thời điểm 
chính thức chuyển thành công ty cổ phần và các tồn tại về tài 
chính cần tiếp tục xử lý. 
Việc cổ phần hóa phải trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn sẽ 
có sự thay đổi về số liệu kế toán. Do đó, nếu các thời điểm nêu 
trên thuộc phạm vi niên độ kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước thì 
cũng phải kiểm toán các giai đoạn khác nhau trong tiến trình cổ 
phần hóa doanh nghiệp. Khi đó khi kiểm toán các công ty này sẽ 
nảy sinh nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp hơn nhiều khi kiểm 
toán các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hoặc các công ty cổ 
phần đang hoạt động ổn định trong thời gian cả niên độ . 
Có thể liệt kê một số khó khăn chính như sau: 
Về tính tuân thủ pháp luật: 
Giai đoạn DNNN cổ phần hóa doanh nghiệp theo Luật DNNN, 
còn giai đoạn công ty cổ phần hoạt động theo Luật DN. 
Nghị định 199/2004/NĐ-CP và Thông tư 33/2005.TT-BTC về Quy 
chế quản lý tài chính công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước 
đầu tư vào doanh nghiệp khác chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp 
nhà nước cổ phần hóa, không áp dụng cho công ty cổ phần. 
Nghị định 206/2004/NĐ-CP về quản lý lao động, tiền lương và lao 
động trong công ty nhà nước cũng chỉ áp dụng đối với doanh 
nghiệp nhà nước, không áp dụng đối với công ty cổ phần. 
Kiểm toán nhiều giai đoạn mà mỗi giai đoạn lại chịu sự điều chỉnh 
của nhiều chính sách, chế độ khác nhau là một công việc khó 
khăn cho các kiểm toán viên. Đặc biệt là việc phân định rạch ròi 
các giai đoạn, ví dụ: thông thường các cơ quan chức năng giao 
đơn giá tiền lương trên cơ sở cả niên độ năm tài chính, tuy nhiên 
khi thực hiện quyết toán quỹ tiền lương hạch toán vào chi phí thì 
phải áp dụng đơn giá tiền lương năm cho số tháng là doanh 
nghiệp nhà nước và phải xác định rõ ràng các chỉ tiêu tính lương 
như: doanh thu, sản lượng, lợi nhuận…của số tháng là DNNN, 
mà đôi khi các chỉ tiêu này doanh nghiệp không có số liệu hoặc 
số liệu không đáng tin cậy, chỉ mang tính thống kê. 
Về việc xử lý số liệu do kiểm toán phát hiện chênh lệch: 
Trong quá trình kiểm toán, nếu có phát hiện chênh lệch thì việc 
xử lý số chênh lệch ở mỗi giai đoạn cũng là vấn đề rất khác nhau. 
Cụ thể: 
Vấn đề thứ nhất: Việc xử lý số liệu chênh lệch trước thời 
điểm xác định giá trị doanh nghiệp. 
Theo quy định thì Tổ chức tư vấn định giá chịu trách nhiệm về kết 
quả xác định giá trị doanh nghiệp; Căn cứ Hồ sơ xác định giá trị 
doanh nghiệp do tổ chức tư vấn định giá xây dựng ( hoặc do 
doanh nghiệp cổ phần hóa tự xây dựng ), Ban chỉ đạo cổ phần 
hóa doanh nghiệp có trách nhiệm trình cơ quan có thẩm quyền 
quyết định giá trị doanh nghiệp; Kết quả công bố giá trị doanh 
nghiệp của cơ quan có thẩm quyền là cơ sở để xác định quy mô 
vốn điều lệ, cơ cấu cổ phần phát hành lần đầu và giá khởi điểm 
để thực hiện đấu giá cổ phần. 
Doanh nghiệp cổ phần hóa đước điều chỉnh giá trị doanh nghiệp 
đó công bố trong trường hợp sau đây: 
Có những nguyên nhân khách quan ( thiên tai địch họa, chính 
sách Nhà nước thay đổi hoặc do nguyên nhân bất khả kháng 
khác ) làm ảnh hưởng đến giá trị những tài sản của doanh 
nghiệp. 
Sau 12 tháng kể từ thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp mà 
doanh nghiệp chưa thực hiện việc bán cổ phần. 
Do đó, nếu có sự chênh lệch giữa số liệu của kiểm toán và số liệu 
xác định giá trị doanh nghiệp thì cũng không đủ cơ sở để điều 
chỉnh bởi: 
Thứ nhất: Kiểm toán Nhà nước chỉ xác nhận và đánh giá về 
BCTC của doanh nghiệp, không có chức năng định giá doanh 
nghiệp do số liệu kiểm toán cũng chưa đủ cơ sở pháp lý. 
Thứ hai: Kiểm toán Nhà nước thông thường chỉ kiểm toán trên 
tài liệu, hồ sơ, chứng từ đơn vị cung cấp ( chỉ kiểm toán theo sổ 
sách kế toán ), nhưng giá trị doanh nghiệp được xác định trước 
khi cổ phần hóa ngoài căn cứ theo giá trị sổ kế toán còn căn cứ 
vào tài liệu kiểm kê, phân loại và đánh giá chất lượng tài sản của 
doanh nghiệp tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp; Giá thị 
trường của tài sản tại thời điểm tổ chức định giá; Giá trị quyền sử 
dụng đất được giao, được thuê và giá trị lợi thế kinh doanh của 
doanh nghiệp. Do đó số liệu kiểm toán cũng chưa được chính 
xác hoàn toàn. 
Thông thường kiểm toán viên gặp trường hợp này đều xác nhận 
theo giá trị doanh nghiệp đã xác định mà chỉ đánh giá, nhận xét, 
kiến nghị ( nếu có ). 
Vấn để thứ hai: việc xử lý số liệu chênh lệch sau thời điểm 
xác định giá trị doanh nghiệp đến trước thời điểm chính thức 
chuyển thành công ty cổ phần. 
Theo quy định thì khoản chênh lệch tăng giữa giá trị thực tế vốn 
nhà nước tại thời điểm doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ 
phần với giá trị trị thực tế phần vốn nhà nước tại thời điểm xác 
định giá trị doanh nghiệp được xử lý về Quỹ hỗ trợ sắp xếp 
doanh nghiệp. Trường hợp phát sinh chênh lệch giảm thì doanh 
nghiệp cổ phần hóa có trách nhiệm báo cáo cơ quan có thẩm 
quyền quyết định cổ phần hóa để kết hợp với các cơ quan liên 
quan tổ chức kiểm tra, làm rõ nguyên nhân, xác định trách nhiệm 
tập thể, cá nhân và xử lý như sau: 
Nếu do nguyên nhân khách quan ( do thiên tai dịch họa; do Nhà 
nước thay đổi chính sách hoặc do biến động của thị trường quốc 
tế và các nguyên nhân bất khả kháng ) doanh nghiệp cổ phần 
hóa báo cáo cơ quan có thẩm quyền quyết định cổ phần hóa xem 
xét, quyết định sử dụng tiền thu từ bán cổ phần để bù đắp tồn 
thất sau khi trừ đi bồi thường của bảo hiểm ( nếu có ). Trường 
hợp tiền thu từ bán cổ phần không đủ bù đắp, cơ quan quyết định 
cổ phần hóa xem xét, điều chỉnh giảm quy mô, cơ cấu vốn điều lệ 
của công ty cổ phần. 
Nếu do nguyên nhân chủ quan: 
- Nếu lỗ do việc không xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính theo 
quy định hiện hành của Nhà nước khi xác định giá trị doanh 
nghiệp thì phải xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan cơ liên 
quan: doanh nghiệp, tổ chức tư vấn định giá và cơ quan quyết 
định cổ phần hóa để xử lý bồi thường vật chất. 
- Nếu lỗ do điều hành sản xuất, kinh doanh thì các cán bộ quản lý 
doanh nghiệp đó có trách nhiệm bồi thường toàn bộ tổn thất do 
chủ quan gây ra theo quy định hiện hành. 
- Trường hợp vì lý do bất khả kháng mà người có trách nhiệm bồi 
thường không có khả năng thực hiện việc bồi thường theo quyết 
định của cơ quan có thẩm quyền thì phần tổn thất còn lại được 
xử lý như trường hợp do nguyên nhân khách quan theo quy định 
tại điểm a khoản này. 
Trong giai đoạn này điều cần thiết là KTV phải xác định được 
trong tổng số chênh lệch do kiểm toán xác định có bao nhiêu là 
ảnh hưởng đến giá trị phần vốn nhà nước tại thời điểm đó và 
phải làm rõ nguyên nhân chủ quan, khách quan, trách nhiệm bồi 
thường…sau đó mới có thể điều chỉnh được, điều này quá khó 
đối với các kiểm toán viên với thời gian ngắn kiểm toán tại đơn vị. 
Đặc biệt đối với trường hợp phải giảm quy mô, cơ cấu vốn điều lệ 
của công ty cổ phần khi mà công ty đã IPO lần đầu ra công 
chúng. 
Vấn đề thứ ba: Việc xử lý số liệu chênh lệch sau thời điểm 
chính thức chuyển thành công ty cổ phần đến cuối niên độ 
kế toán ( 31/12/XX ). 
Trường hợp này tiến hành kiểm toán bình thường như kiểm toán 
những công ty cổ phần cả niên độ. 
Khó khăn về quá trình thực hiện kiểm toán: 
Cổ phần hóa các doanh nghiệp ở Việt Nam vẫn đang trong quá 
trình vừa làm vừa điều chỉnh, thể hiện qua việc các chế độ, chính 
sách về cổ phần hóa DNNN thay đổi liên tục ( khoảng 2 năm thay 
đổi một lần ). Trong bối cảnh mới mẻ đó, Kiểm toán Nhà nước 
cũng chưa có quy trình, chuẩn mực hướng dẫn về việc tổ chức 
kiểm toán các đơn vị đang trong quá trình cổ phần hóa doanh 
nghiệp. 
Khi kiểm toán các doanh nghiệp cổ phần hóa có nhiều giai đoạn 
trong một niên độ thì phải lập biên bản kiểm toán cho nhiều giai 
đoạn. Tuy nhiên, mẫu biểu hồ sơ cho kiểm toán các công ty cổ 
phần chưa được ban hành khiến rất khó khăn trong việc lập biên 
bản kiểm toán cũng như việc tổng hợp kết quả kiểm toán toàn 
Tập đoàn hoặc toàn Tổng công ty. 
Vấn để đặt ra là kiểm toán báo cáo tài chính nào khi trong năm có 
cả giai đoạn là DNNN, cả giai đoạn là công ty cổ phần; kiểm toán 
Bảng cân đối tài khoản của đơn vị tại thời điểm 31/12 hay cả thời 
điểm doanh nghiệp chính thức chuyển sang công ty cổ phần; 
kiểm toán Doanh thu, thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh cả 
niên độ hay từng giai đoạn v.v…tất cả những vấn đề đó vẫn chưa 
có hướng dẫn để thực hiện cho thống nhất trong các Đoàn kiểm 
toán, các tổ chức kiểm toán. 
Những đề xuất kiến nghị: 
- Nên chăng hạn chế độ hoặc có thể không kiểm toán xác nhận 
đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa vừa có giai đoạn DNNN 
vừa có giai đoạn công ty cổ phần trong niên độ kiểm toán, mà chỉ 
kiểm toán tính tuân thủ, kiểm toán hoạt động để có thể đưa ra 
đánh giá, nhận xét về quá trình cổ phần hóa và đưa ra kiến nghị 
nhằm tháo gỡ vướng mắc trong quá trình cổ phần hóa DNNN. 
Theo kinh nghiệm thì thông thường các trường hợp này không có 
chênh lệch về số liệu kiểm toán hoặc nếu có chênh lệch cũng 
không trọng yếu. Bởi lẽ theo quy định trước khi cổ phần hóa phải 
có định giá giá trị doanh nghiệp, xác nhận báo cáo tài chính của 
kiểm toán độc lập; phải được kiểm tra, thẩm định của Ban chỉ đạo 
cổ phần hóa và cơ quan có thẩm quyền quyết định giá trị doanh 
nghiệp; phải có quyết toán thuế của sơ quan thuế v.v…do đó số 
liệu có thể đáng tin cậy, dòng thời gian không tiến hành kiểm toán 
còn tiết kiệm được thời gian và chi phí cho cuộc kiểm toán đó. 
- Chỉ kiểm toán việc quản lý phần vốn nhà nước tại công ty cổ 
phần thông qua Người đại diện phần vốn nhà nước, không kiểm 
toán xác nhận toàn bộ số liệu của công ty cổ phần. Đặc biệt đối 
với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung 
được kiểm toán chỉ định theo Luật chứng khoán. 
- Ban hành quy trình, chuẩn mực, hồ sơ mẫu biểu đặc thù để 
kiểm toán các công ty cổ phần để áp dụng thống nhất trong toàn 
ngành. 
- Theo Điều 14 Luật KTNN thì KTNN có chức năng kiểm tra các 
cơ quan, tổ chức có sử dụng tiền và tài sản nhà nước, nhưng 
trong quá trình định giá giá trị tài sản và xử lý tài chính để xác 
định giá trị phần vốn Nhà nước tại Doanh nghiệp lại không có 
thành phần của KTNN. Nên chăng KTNN nên kiến nghị với Quốc 
hội bổ sung kiểm toán viên nhà nước trong Ban định giá xác định 
giá trị DN để tránh tình trạng thất thoát tiền và tài sản của nhà 
nước trong quá trình phức tạp này. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 mot_so_kho_khan_khi_kiem_toan_cac_doanh_nghiep_co_phan_hoa_512.pdf mot_so_kho_khan_khi_kiem_toan_cac_doanh_nghiep_co_phan_hoa_512.pdf