Trả lời sai vô ý thức :
Ngay cả trong trường hợp người cung cấp thông tin hoàn toàn có thiện chí trong
việc trả lời bảng câu hỏi, thì kết quả thu thập được cũng chưa chắc đã chính xác, vì
nó tuỳ thuộc vào loại biến số (variable) cần biết. A. Blais (1984, tr. 325-326) phân
biệt ba loại thông tin, tương ứng với ba loại biến số :
- thông tin về tình trạng của bản thân người được hỏi (biến số tình trạng),
- thông tin về những việc họ đang làm (biến số hành vi),
- và thông tin về những suy nghĩ của họ (biến số tư tưởng).
Nếu những thông tin liên quan đến tình trạng bản thân người được hỏi là những
thông tin dễ nắm bắt chính xác nhất (tuổi tác, giới tính, sở thích, nghề nghiệp ),
thì những thông tin về những việc họ đang làm ít nhiều có sai số (số giờ xem
truyền hình mỗi ngày, thức ăn thường dùng, chi tiêu hàng tháng(3) ). Những câu
hỏi liên quan đến việc kháí quát hoá những suy nghĩ của người được hỏi là những
câu hỏi thường cho những thông tin thiếu chính xác nhất, như thí nghiệm của
LaPiere được tiến hành năm 1934(4) hoặc một điều tra bỏ túi do chúng tôi tiến
(3) Một cuộc điều tra về việc chi tiêu trong gia đình của người dân cho thấy rằng thông thường độ chính xác
của kết quả điều tra ở tuần lễ trước cuộc phỏng vấn luôn cao hơn các tuần lễ trước đó, vì người trả lời
thường quên một số tiêu xài nào đó (Blais A., 1984).
(4) LaPiere tiến hành thí nghiệm như sau : ông tháp tùng một cặp vợ chồng người Trung Quốc đi du lịch
khắp nước Mỹ, và chú ý quan sát sự tiếp đón của 44 khách sạn và 184 nhà hàng. Sáu tháng sau, ông gửi đến
các cơ sở này một bảng câu hỏi trong đó có câu : Cơ sở của ông (bà) có nhận khách người Trung Quốc
không ? Kết quả thu được thật ngạc nhiên : trên 90% chủ doanh nghiệp trên trả lời rằng họ không nhận
hành năm 1996(5). Điều này cho thấy rằng giữa ý thức và hành động thực tế không
phải lúc nào cũng trùng khớp với nhau, và điều đó xuất phát từ tính chất chủ quan
của nhận thức con người.
10 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 480 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số nguyên tắc điều tra xã hội học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
duate programs.
Keywords: questionnaires; inquiry; data.
Title: Some principles for use of sociologic instruments in research social sciences.
TÓM TẮT
Việc sử dụng các công cụ điều tra xã hội học trong nghiên cứu khoa học như bảng câu
hỏi, phỏng vấn ở nước ta đã trở nên quen thuộc từ hơn một thập niên trở lại đây. Nó
gắn liền với sự phát triển của nghiên cứu khoa học xã hội và đòi hỏi phải tuân thủ nhiều
nguyên tắc khác nhau nếu muốn cho kết quả đáng tin cậy. Thế nhưng không ít người sử
dụng phương pháp nghiên cứu này mà không biết đến những nguyên tắc căn bản của nó.
Đó là vấn đề đáng quan tâm mà chúng tôi muốn đề cập trong bài viết này.
Từ khóa : bảng câu hỏi ; điều tra ; thu thập dữ liệu
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo A. Blais, “trong đa số các ngành nghiên cứu thuộc khoa học xã hội và nhân
văn, điều tra xã hội học đã trở thành công cụ được sử dụng nhiều nhất” (Blái A.,
1984, tr.321). Thật vậy, trên thế giới, việc sử dụng các công cụ điều tra xã hội học
như bảng câu hỏi, phỏng vấn phát triển mạnh mẽ từ những thập niên giữa thế kỷ
trước. Ở nước ta, từ vài thập niên trở lại đây, phương pháp điều tra xã hội học
được sử dụng khá phổ biến trong giới nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn,
nhất là trong lĩnh vực khoa học giáo dục. Thế nhưng qua khảo sát một số công
trình nghiên cứu gần đây, nhất là các luận văn tốt nghiệp Đại học và Thạc sĩ,
chúng tôi nhận thấy không ít người đã sử dụng chưa đúng cách các công cụ điều
tra xã hội học, nhất là hiện tượng lạm dụng điều tra (việc gì cũng tiến hành điều
tra). Như thể họ cho rằng điều tra xã hội học là phương pháp nghiên cứu toàn năng
mà công trình nào cũng phải sử dụng nó. Tình trạng trên đây xuất phát từ việc
người sử dụng phương pháp điều tra xã hội học chưa nắm vững những nguyên tắc
của phương pháp điều tra cũng như cách thức tiến hành. Để khắc phục hạn chế đó,
chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số nguyên tắc điều tra xã hội học dựa trên những
kết quả khảo sát thực tế một số công trình nghiên cứu gần đây ở nước ta.
1 Bộ môn Pháp văn, Khoa Sư Phạm, Đại học Cần Thơ.
18
Tạp chí Khoa học 2008:9 18-27 Trường Đại học Cần Thơ
2. MỤC ĐÍCH VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
Để tiến hành nghiên cứu, trước hết cần phải có dữ liệu. Tuỳ theo lĩnh vực nghiên
cứu, đặc điểm và mục tiêu của đề tài, nhà nghiên cứu có thể tìm kiếm tư liệu có
sẵn từ nhiều nguồn khác nhau. Nhà nghiên cứu cũng có thể tự xây dựng cho mình
các tư liệu nghiên cứu nếu không có nguồn tư liệu có sẵn, hoặc nguồn tư liệu này
không đủ, để phục vụ đề tài nghiên cứu.
Việc xây dựng tư liệu nghiên cứu có thể tiến hành qua hai hình thức : quan sát trực
tiếp và quan sát gián tiếp. Quan sát trực tiếp có ưu điểm là cách tiến hành ít phức
tạp hơn quan sát gián tiếp, nhưng lại mất nhiều thời gian hơn, và chỉ có thể áp
dụng cho các đề tài nghiên cứu có quy mô nhỏ với các mẫu nghiên cứu nhỏ.
Những vấn đề về dư luận, thái độ, niềm tin, động cơ, khuynh hướng xã hội, kiến
thức hoặc hành vi không thể áp dụng phương pháp quan sát trực tiếp để khảo
sát, mà phải dùng đến bảng câu hỏi được lập sẵn, hoặc phỏng vấn trực tiếp. Người
ta gọi đó là phương pháp quan sát gián tiếp, vì những thông tin thu thập được bằng
cách này đã qua lăng kính của người được phỏng vấn. Trong nhiều tình huống,
phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng như công cụ duy nhất để nhà
nghiên cứu thu thập thông tin, như đối với các vấn đề về sinh hoạt cá nhân, thói
quen tiêu dùng Nghĩa là những thứ mà nhà nghiên cứu không thể quan sát trực
tiếp được. Ngoài ra, phương pháp này có ưu điểm là có thể áp dụng cùng một lúc
trên địa bàn rộng lớn, nhờ các phương tiện thông tin liên lạc như bưu điện hoặc
mạng lưới điện thoại. Khác với phương pháp quan sát trực tiếp chủ yếu dựa vào
nguyên tắc « quan sát từ bên ngoài », điều tra xã hội học dựa trên những nguyên
tắc về tương tác lời nói và tương tác xã hội, nghĩa là người tiến hành điều tra tác
động trực tiếp đến ý thức của người được điều tra qua phỏng vấn, qua bảng câu
hỏi Theo N. Berthier (1998, tr.7), có hai khuynh hướng trái ngược nhau trong
việc sử dụng điều tra xã hội học : một số người dị ứng với việc tiến hành điều tra
vì không nắm rõ những nguyên tắc sử dụng, một số khác lại có cảm giác (sai lầm)
về sự đơn giản của phương pháp, khi cho rằng « chỉ cần » soạn câu hỏi và yêu cầu
người được điều tra trả lời. Cả hai khuynh hướng trên đều không đúng, vì điều tra
xã hội học không quá phức tạp cũng không quá đơn giản như người ta thường
nghĩ.
3. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Dữ liệu khảo sát
Các dữ liệu mà chúng tôi dùng để khảo sát bao gồm :
- 8 luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Phương pháp giảng dạy tiếng Pháp (Đại học
Rouen và Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh) được bảo vệ từ năm 2002 đến nay ;
- 9 bảng câu hỏi điều tra phục vụ cho các đề tài nghiên cứu các cấp được phát cho
chúng tôi để trả lời.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, chúng tôi áp dụng phương pháp định tính và phương pháp
phân tích nội dung (analyse du contenu).
19
Tạp chí Khoa học 2008:9 18-27 Trường Đại học Cần Thơ
Qua phân tích các công cụ điều tra xã hội học được sử dụng trong các dữ liệu trên,
chúng tôi thu thập được kết quả sau đây.
4. KẾT QUẢ THU ĐƯỢC
Kết quả nghiên cứu được trình bày dưới dạng các nguyên tắc sử dụng điều tra xã
hội học. Khi tiến hành điều tra xã hội học, người nghiên cứu phải lưu ý đến những
nguyên tắc sau đây :
4.1. Chỉ sử dụng điều tra xã hội học để tìm kiếm loại thông tin phù hợp
Như đã nói ở trên, tuỳ theo đặc điểm và mục tiêu của đề tài, nhà nghiên cứu có thể
sử dụng nguồn tư liệu có sẵn hoặc các tư liệu được xây dựng qua điều tra xã hội
học để phục vụ đề tài nghiên cứu. Mặc dù được sử dụng rộng rãi trong các ngành
khoa học xã hội, nhưng điều tra xã hội học không phải là phương pháp toàn năng,
là chiếc « chìa khoá vàng » có thể mở mọi cách cửa để nắm bắt thông tin, vì dù
quan trọng đến đâu, nó vẫn không tránh khỏi những hạn chế, như A. Blais đã từng
lưu ý :
« mặc dù điều tra là một phương pháp định hình thông tin có giá trị, nhưng nó có
những hạn chế không nhỏ mà người ta thường không biết, và bị lạm dụng trong
các ngành khoa học xã hội. Các nhà nghiên cứu cần đa dạng hoá phương pháp
nghiên cứu của mình bằng cách sử dụng nhiều hơn nữa những phương pháp khác
như quan sát trực tiếp » (Blais A., 1984, tr.322).
Thế mà trong một công trình nghiên cứu về các kỹ năng cần thiết cho người giáo
viên dạy ngoại ngữ ở bậc phổ thông(1), các tác giả đã lập ra một bảng câu hỏi gồm
96 kỹ năng được rút ra từ các tài liệu nghiên cứu nước ngoài và các văn bản chính
thức của nhà nước, và yêu cầu người trả lời chọn lựa tuỳ thích các kỹ năng mà họ
nghĩ là cần thiết. Kết quả là cả 96 kỹ năng đều có trên 60% người trả lời chọn !
Cách tiến hành điều tra như thế vô hình trung là đã vô hiệu hoá tính chất « pháp
lệnh » của các quy định của ngành giáo dục (lấy ý kiến về những quy định của Bộ
Giáo dục có nghĩa là đặt lại vấn đề về tính chất khoa học và sự cần thiết của các
quy định đó), trong khi đó là những điều cần phải thi hành ! Đó là chưa kể đến tác
động của việc liệt kê ra một bảng câu hỏi cho người trả lời tuỳ chọn mà không
dành chỗ cho người trả lời bổ sung thêm : nó như thể để « mớm » câu trả lời cho
người được hỏi. Hơn nữa, các câu hỏi chứa đựng quá nhiều thông số có thể có
nhiều giá trị khác nhau đối với từng người tham gia trả lời, cũng như quy định lỏng
lẻo đối với người trả lời (chọn bao nhiêu câu tuỳ thích) khiến kết quả thu được chỉ
là một bức tranh được phát hoạ theo trí tưởng tượng và theo thị hiếu của mỗi
người.
(1) Công trình nghiên cứu do một nhóm giảng viên tiếng Pháp công bố năm 2005, xem GROUPE DE
RECHERCHE-ACTION, 2005, tr. 94-122
20
Tạp chí Khoa học 2008:9 18-27 Trường Đại học Cần Thơ
Theo thầy (cô), những kỹ năng nào sau đây cần thiết cho người giáo viên dạy ngoại ngữ
(có thể chọn nhiều câu trả lời)(2) :
Các kỹ năng Tỷ lệ %
1 Hiểu rõ môi trường giáo dục và sư phạm 92,99
2 Thiết lập kế hoạch đào tạo hài hòa với đề án của cơ sở 87,20
3 Có một nhãn quan xuyên suốt về các mục tiêu giảng dạy 91,42
4 Xây dựng các mối quan hệ giữa lý thuyết về hoạt động học tập 93,24
5 Nắm vững và có khả năng huy động các kiến thức cần truyền đạt 95,59
96 Dung hoà các lợi ích 78,70
Nếu dựa vào kết quả này để xây dựng chương trình đào tạo giáo viên ngoại ngữ ở
trường Đại học Sư Phạm (như mục tiêu đề ra của nhóm nghiên cứu) thì rõ ràng là
còn thiếu rất nhiều kỹ năng liên quan đến ngoại ngữ cần dạy. Vả lại, trong số 96 kỹ
năng được hỏi, thì không có kỹ năng nào bị loại (kỹ năng được chọn ít nhất cũng
được 64,68% là kỹ năng « khai thác tiềm năng của các phần mềm trong dạy học »
số thứ tự 14 trong bảng điều tra nói trên). Kỹ năng « khuyến khích học sinh phát
biểu » (số thứ tự 27), kỹ năng « có phương pháp giáo dục thích hợp với bối cảnh »
(số thứ tự 44) và kỹ năng « hợp tác với học sinh và với những người xung quanh »
(số thứ tự 52) được nhiều người chọn nhất (96,62%). Kết quả này chỉ có ý nghĩa
phản ánh quan niệm (ước nguyện ?) của người trả lời bảng câu hỏi, chứ tuyệt đối
không thể xem là yêu cầu khách quan của công việc.
4.2. Chỉ hỏi những gì người được hỏi có năng lực trả lời
Nguyên tắc này quyết định tính chất đáng tin cậy của kết quả điều tra. Thật vậy, ai
ai cũng đều biết rằng có một mối quan hệ chặt chẽ giữa thông tin cần tìm kiếm và
đối tượng điều tra : không thể đặt mọi câu hỏi cho bất kỳ đối tượng nào, vì không
thể có người biết mọi chuyện hoặc có khả năng phán xét (và nhất là phán xét đúng
đắn) mọi chuyện. Theo nguyên tắc thông thường, người ta chỉ có thể cho cái mà
người ta có. Nhưng khi điều tra, đôi khi người được hỏi có thể cho cái mà người ta
nghĩ là mình có, thậm chí, người ta có thể cho cái mà người ta không có, vì đối
tượng tìm kiếm ở đây là ý kiến, là thông tin, tóm lại, là lời nói, và đây chính là
nguồn gốc của những thông tin sai lệch. Thế mà trong thực tế nghiên cứu khoa
học, nguyên tắc này lại dễ bị vi phạm : trong một phiếu điều tra, một học viên
Thạc sĩ đã đặt câu hỏi sau đây với một học sinh lớp 10 mới được học tiếng Pháp
ngoại ngữ 2 được vài tuần lễ :
Ba mẹ em có khả năng nào nhất trong việc sử dụng tiếng Pháp ?
a) Đọc hiểu văn bản viết
b) Sử dụng tiếng Pháp trong công việc hằng ngày
100% học sinh đã chọn câu trả lời a). Những ai hiểu rõ địa bàn nghiên cứu của đề
tài này đều nhận thấy là kết quả này không phản ánh đúng thực tế, và nhận ra ngay
(2) Xem bảng câu hỏi đầy đủ trong GROUPE DE RECHERCHE-ACTION, 2005, tr. 94-122.
21
Tạp chí Khoa học 2008:9 18-27 Trường Đại học Cần Thơ
lập tức sai sót về phương pháp điều tra : để có thể đánh giá, nhận định một tình
huống hay một sự việc, người trả lời cần phải có một trình độ chuyên môn nhất
định về vấn đề có liên quan (ngoài ra, trong trường hợp này, người biên soạn câu
hỏi điều tra đã vô tình để người trả lời suy luận sai, theo kiểu không b thì a).
4.3. Người được hỏi phải hiểu rõ câu hỏi
Để thông tin thu thập được chính xác, người hỏi và người trả lời phải có
cùng một ngôn ngữ (hiểu theo nghĩa rộng). Nguyên tắc này nhằm để tránh trường
hợp người trả lời không hiểu ý (hoặc hiểu khác ý) người hỏi. Vì thế, để bảo đảm là
người trả lời hiểu đúng câu hỏi, phải tránh sử dụng những khái niệm có thể hiểu
theo nhiều cách. Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng ngay cả những từ đơn giản nhất
cũng có thể mang nhiều nét nghĩa khác nhau tuỳ theo địa phương, tầng lớp xã hội,
thế hệ, trình độ học vấn Chẳng hạn khái niệm nhạc sến đối với những người
trung niên khác hoàn toàn với cách hiểu của thanh niên hiện nay. Ngay cả đối với
những từ ngữ thông dụng trong đời sống hàng ngày cũng có thể gây ra sự mơ
hồ trong cách hiểu : câu hỏi sau đây tưởng chừng như không thể rõ ràng hơn :
Phụ huynh em có thường trao đổi, trò chuyện với em bằng tiếng Pháp
không ?
a) có
b) không
Kết quả trả lời khiến nhà nghiên cứu phải suy nghĩ về cách hiểu của người trả lời :
100% học sinh lớp 10 học tiếng Pháp ngoại ngữ 2 ở một trường Trung học phổ
thông thị xã (tự nhận là) có ba mẹ biết tiếng Pháp trả lời là có. Nếu ta loại trừ khả
năng thiếu nghiêm túc của các em tham gia trả lời câu hỏi, thì để giải thích cho kết
quả điều tra này, khái niệm trao đổi, trò chuyện đối với các em này có thể chỉ là
việc ba mẹ các em sử dụng một vài tiếng Pháp chen vào trong lời nói hàng ngày
của họ mà thôi. Và dĩ nhiên việc sử dụng những khái niệm « cao siêu » hoặc
những thuật ngữ chuyên ngành hẹp cũng có thể khiến người trả lời không thể trả
lời chính xác, vì không hiểu chính xác (do có nhiều cách hiểu, hoặc do người trả
lời không chuyên về lĩnh vực có liên quan).
Ngoài ra, cách hành văn thiếu mạch lạc cũng là một nguyên nhân khiến
người trả lời lúng túng, vì không biết chính xác người hỏi cần gì ở người trả
lời. Câu hỏi sau đây được trích từ một phiếu điều tra của một đề tài nghiên cứu cấp
Bộ khiến người trả lời không khỏi đắn đo bởi tính chất mơ hồ của nó trong cách
viết câu (không có chủ từ), trong cách hỏi (không phải là câu hỏi nhưng lại có dấu
hỏi) :
4. Phản ánh thực trạng đào luyện về phương pháp dạy học (cả phương pháp
truyền thống lẫn phương pháp hiện đại) hệ đào tạo giáo viên THPT chính quy tập
trung trong quá trình giáo dục nghiệp vụ sư phạm của trường (khoa) ? (Đánh một
dấu X vào một ô trống phù hợp cho mỗi phương pháp dạy học)
22
Tạp chí Khoa học 2008:9 18-27 Trường Đại học Cần Thơ
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Đã và đang đào luyện
Sẽ đào
luyện
Không đào
luyện
4.1. PP đọc – chép
4.2. PP Thông báo – tái hiện
4.3. PP Giảng giải – minh hoạ
4.4. PP Dạy học – nêu vấn đề
4.5. PP phát hiện và giải quyết vấn đề
4.6. PP tìm tòi Ơritxtic
4.7. PP dạy học bằng khám phá
4.8. PP nghiên cứu (trong dạy và học)
4.9. PP khác (tự ghi
...
4.4. Thông tin mà người trả lời cung cấp không phải lúc nào cũng chính xác
Mức độ chính xác của thông tin có được từ các trả lời cho bảng câu hỏi tuỳ
thuộc vào nhiều yếu tố. Dựa trên nguyên nhân của sự sai lệch, ta có thể phân làm
hai loại sau đây :
4.4.1. Trả lời sai có ý thức :
Người cung cấp thông tin cố tình cung cấp thông tin sai sự thật nhằm dụng
ý riêng tư nào đó, chẳng hạn như khi người trả lời cảm thấy rằng câu hỏi có vẻ
« đe doạ » đến đời tư của họ, thì họ sẽ cho câu trả lời không chính xác. Về điều
này, M. Dawoud đã có lưu ý như sau :
« Bảng câu hỏi đã trở thành một công cụ không thể thiếu được trong nghiên
cứu khoa học xã hội và nhân văn, nhưng (...) là một công cụ rất mong
manh. Tính chất mong manh ấy nằm ở chỗ các câu trả lời của người được
hỏi đôi khi thiếu tính ổn định khi họ cảm thấy bị đe dọa. » (Dawoud M.,
1994, tr. 66)
Thật vậy, nếu người thầy đặt câu hỏi sau đây cho một học sinh có thói quen quay
cóp trong thi cử : « Khi làm bài thi, em có quay cóp không nếu không thuộc
bài ? », trong nhiều trường hợp, câu trả lời nhận được là « Không ». Học sinh ấy
đã không nói đúng sự thật, vì em cảm thấy không an toàn, ngay cả khi người đặt
câu hỏi không phải là thầy giáo trực tiếp dạy học sinh đó.
Đối với người được hỏi là giáo viên, các câu hỏi điều tra về việc dạy học cũng có
thể được hiểu là công cụ dùng để đánh giá phẩm chất và trình độ của người trả lời,
vì thế họ thường có thái độ thận trọng dè dặt khiến họ chọn những câu trả lời an
toàn, như trong trường hợp sau đây :
Anh (chị) đang áp dụng phương pháp dạy học nào ?
a) đọc / chép
b) giải thích giáo trình
c) diễn giảng
d) dạy học khám phá
23
Tạp chí Khoa học 2008:9 18-27 Trường Đại học Cần Thơ
Vì lý do an toàn cho bản thân hoặc cho tập thể, người được hỏi sẽ có khuynh
hướng chọn giải pháp dễ được chấp nhận nhất (chẳng hạn chọn phương pháp đang
thịnh hành là dạy học khám phá) hoặc câu trả lời ít bị phê phán nhất, mặc dù điều
đó hoàn toàn trái với thực tế. Ngay cả khi áp dụng nguyên tắc khuyết danh để
người trả lời được an tâm, nhưng người nghiên cứu vẫn không thể loại bỏ hoàn
toàn ảnh hưởng tiêu cực của loại câu hỏi này : sức ép của cộng đồng, của xã hội là
nhân tố khiến người trả lời né tránh trả lời sự thật hoặc không biểu lộ hết suy nghĩ
và tình cảm của mình. Cách tốt nhất để triệt tiêu các mối đe doạ có thể có, theo M.
Dawoud đề nghị là không nên đặt câu hỏi trực tiếp cho người trả lời, mà nên hỏi về
người thứ ba, như trong thí dụ sau đây :
Không nên hỏi Mà phải hỏi
Em có tự cho phép mình có hành động
vô kỷ luật không nếu em bị thầy (cô)
không cho phát biểu ý kiến trong gi
ờ
Trong giờ thảo luận ở lớp, vì thầy (cô)
không cho phát biểu ý kiến nên François
tự cho phép mình có hành động vô kỷ
luật để thầy (cô) chú ý đến bạn ấy. thảo luận ở lớp ?
a) Em chấp nhận thái độ ấy
b) Em phân vân
c) Em không chấp nhận thái độ ấy
a) Em chấp nhận thái độ ấy
b) Em phân vân
c) Em không chấp nhận thái độ ấy
(Dawoud M., 1994, tr. 67).
4.4.2. Trả lời sai vô ý thức :
Ngay cả trong trường hợp người cung cấp thông tin hoàn toàn có thiện chí trong
việc trả lời bảng câu hỏi, thì kết quả thu thập được cũng chưa chắc đã chính xác, vì
nó tuỳ thuộc vào loại biến số (variable) cần biết. A. Blais (1984, tr. 325-326) phân
biệt ba loại thông tin, tương ứng với ba loại biến số :
- thông tin về tình trạng của bản thân người được hỏi (biến số tình trạng),
- thông tin về những việc họ đang làm (biến số hành vi),
- và thông tin về những suy nghĩ của họ (biến số tư tưởng).
Nếu những thông tin liên quan đến tình trạng bản thân người được hỏi là những
thông tin dễ nắm bắt chính xác nhất (tuổi tác, giới tính, sở thích, nghề nghiệp),
thì những thông tin về những việc họ đang làm ít nhiều có sai số (số giờ xem
truyền hình mỗi ngày, thức ăn thường dùng, chi tiêu hàng tháng(3)). Những câu
hỏi liên quan đến việc kháí quát hoá những suy nghĩ của người được hỏi là những
câu hỏi thường cho những thông tin thiếu chính xác nhất, như thí nghiệm của
LaPiere được tiến hành năm 1934(4) hoặc một điều tra bỏ túi do chúng tôi tiến
(3) Một cuộc điều tra về việc chi tiêu trong gia đình của người dân cho thấy rằng thông thường độ chính xác
của kết quả điều tra ở tuần lễ trước cuộc phỏng vấn luôn cao hơn các tuần lễ trước đó, vì người trả lời
thường quên một số tiêu xài nào đó (Blais A., 1984).
(4) LaPiere tiến hành thí nghiệm như sau : ông tháp tùng một cặp vợ chồng người Trung Quốc đi du lịch
khắp nước Mỹ, và chú ý quan sát sự tiếp đón của 44 khách sạn và 184 nhà hàng. Sáu tháng sau, ông gửi đến
các cơ sở này một bảng câu hỏi trong đó có câu : Cơ sở của ông (bà) có nhận khách người Trung Quốc
không ? Kết quả thu được thật ngạc nhiên : trên 90% chủ doanh nghiệp trên trả lời rằng họ không nhận
24
Tạp chí Khoa học 2008:9 18-27 Trường Đại học Cần Thơ
hành năm 1996(5). Điều này cho thấy rằng giữa ý thức và hành động thực tế không
phải lúc nào cũng trùng khớp với nhau, và điều đó xuất phát từ tính chất chủ quan
của nhận thức con người.
4.5. Cách xây dựng bảng câu hỏi quyết định giá trị của thông tin thu được
Việc xây dựng bảng câu hỏi có ý nghĩa đăc biệt quan trọng đến kết quả thu thập
được. Cách kết cấu một bảng câu hỏi có thể tác động đến tính khách quan của câu
trả lời, vì nhãn quan của người soạn câu hỏi có thể chi phối đến người trả lời về
vấn đề nghiên cứu. Người trả lời « thiếu lập trường » có thể dựa vào cách hỏi để
đoán ý đồ của người đặt câu hỏi (như học sinh đoán ý của thầy khi trả lời các câu
hỏi trong lớp), như J. Richard-Zapella đã từng lưu ý : « đặt một câu hỏi tức là đề
nghị với người nghe những vật liệu cho phép anh ta xây dựng câu trả lời và giới
thiệu những vật liệu ấy » (Richard-Zappella J., 1990, tr. 26), do đó « câu hỏi điều
tra thường được đặt ra không phải như là những câu chất vấn, mà như là những đề
nghị của câu trả lời » (Richard-Zappella J., 1990, tr. 27).
4.6. Phân biệt giữa thực tế khách quan và cảm nhận của người trả lời về thực
tế khách quan
Kết quả thu được từ những câu hỏi nhằm yêu cầu người trả lời cho biết ý kiến về
một vấn đề nào đó không phải là sự thật khách quan, mà chỉ là cảm nhận của
người trả lời về thực tế khách quan mà thôi. Nói cách khác, đó chỉ là hình ảnh thu
được qua lăng kính nhận thức, tình cảm của người trả lời, và do đó, chất lượng
tuỳ thuộc hoàn toàn vào lăng kính ấy. Một thí dụ minh hoạ : nhà nghiên cứu không
thể dựa vào kết quả thu được từ câu hỏi « Israel có vũ khí nguyên tử không ? » để
kết luận là Israel có hay không có sở hữu vũ khí nguyên tử.
4.7. Nguyên tắc tự nguyện của người tham gia trả lời
Mục đích của bảng câu hỏi là nhận được câu trả lời, và hơn thế nữa, câu trả lời
càng chính xác càng tốt. Vì thế sự hợp tác tự nguyện của người trả lời là yếu tố
tiên quyết để bảo đảm chất lượng thông tin thu được. Nếu không tự nguyện, người
trả lời sẽ trả lời qua quít, sẽ không có tinh thần trách nhiệm, và vì thế sẽ làm sai
lệch kết quả điều tra.
Thế nhưng, trong thực tế, có rất nhiều cuộc điều tra được tổ chức thiếu nghiêm túc.
Bảng câu hỏi được chuyển qua nhiều trung gian, người phân phát bảng câu hỏi
thường không nằm trong nhóm nghiên cứu, nên không hiểu mục đích, tính chất và
tầm quan trọng của công trình nghiên cứu, vì thế không làm cho người được hỏi
nhận thức được vấn đề nghiên cứu, và do đó tinh thần hợp tác của họ cũng không
cao. Nhược điểm này không được cải thiện ngay cả khi người ta sử dụng biện pháp
vật chất làm đòn bẩy để kích thích sự hợp tác (trả thù lao cho người trả lời bảng
câu hỏi, tặng quà...).
khách Trung Quốc, thế mà cặp vợ chồng trên được tất cả các nhà hàng và khách sạn tiếp đón, trừ một nơi
duy nhất từ chối.
(5) Trong số 15 du học sinh Việt Nam tại Paris và Rouen (Pháp) được hỏi : Bạn có chấp nhận nạn phân biệt
chủng tộc không ? 13 người trả lời « không » và hai người còn lại trả lời « còn tuỳ ». Ít hôm sau, khi được
hỏi « Khi phải sử dụng chung thang máy với một người nước ngoài, trường hợp nào khiến bạn có cảm giác
ít an tâm nhất ? » a) với một người da trắng b) với một người da vàng c) với một người da đen d) không
có trường hợp nào, thì có 12 người chọn câu trả lời c).
25
Tạp chí Khoa học 2008:9 18-27 Trường Đại học Cần Thơ
4.8. Nguyên tắc ngẫu nhiên trong chọn mẫu điều tra (échantillon)
Một yếu tố khác có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả điều tra là phương pháp lấy
mẫu điều tra (échantillon) hoặc nói cách khác, là việc quyết định chọn những ai trả
lời các câu hỏi. Thật vậy, vì việc sử dụng điều tra xã hội học trong nghiên cứu
khoa học dựa trên nguyên tắc lấy kết quả của một bộ phận của cộng đồng để suy
rộng ra cho cả cộng đồng đó (khác với việc tiến hành tổng điều tra trên tất cả thành
viên trong một cộng đồng) nên vấn đề phương pháp luận là rất quan trọng. Vì thế,
khi tiến hành điều tra, người nghiên cứu cần phải tuân theo những nguyên tắc chặt
chẽ, nếu muốn kết quả có tính khoa học. Trên thế giới, người ta áp dụng nhiều
phương pháp, nhưng phương pháp thông dụng nhất và hiệu quả nhất là phương
pháp lấy mẫu ngẫu nhiên. Thế nhưng, trong thực tế, việc áp dụng phương pháp này
còn cần phải phân tích thêm. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một bài viết
khác.
5. KẾT LUẬN
Phương pháp nghiên cứu bằng các công cụ điều tra xã hội học nhất là bàng câu hỏi
là một công cụ đo lường mềm dẽo và đa dụng, có thể tiếp cận được những vấn đề
đa dạng và phức tạp. Tuy nhiên, để kết quả điều tra được chính xác, người sử dụng
cần phải tuân thủ nhiều nguyên tắc chặt chẽ, liên quan đến nhiều yếu tố, từ việc
biên soạn và thiết kế các câu hỏi đến việc chọn người trả lời câu hỏi. Chất lượng
của các dữ liệu thu thập được từ điều tra tùy thuộc vào mức độ tôn trọng những
nguyên tắc ấy của người nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
BEAUD S., WEBER F. (2003) : Guide de l’enquête de terrain, Nxb. La Découverte, Paris.
BERTHIER N. (1998) : Les techniques d’enquête en sciences sociales, Nxb. Armand Colin, Paris.
BLANCHET A., GHIGLIONE R., MASSONNAT J. & TROGNON A. (2000) : Les techniques
d’enquête en sciences sociales, Nxb. Dunod, Paris.
BORDELEAU Y. (1997) : Méthodes d’analyse et d’intervention en milieu organisationnel, Nxb.
Editions Nouvelles, Montréal, Canada.
CRENNER E., GUERIN F. & HOUSEAUX F. (2002) : « L’exploitation d’une enquête pilote en
vue de l’amélioration d’une enquête innovante » tham luận trình bày tại hội thảo Insee Méthodes :
Actes des Journées de Méthodologie Statistique 2002
DAWOUD M. (1994) : Recherche en éducation, Nxb. Editions Nouvelles, Québec, Canada.
GAUTHIER B. (1982) : Recherche sociale, Nxb. Presses Universitaires de Québec, Canada.
GRAWITZ M. (2001) : Méthodes des sciences sociales, Nxb. Dalloz, Paris.
GROUPE DE RECHERCHE-ACTION (2005) : « Référentiel de compétences des enseignants de
français du secondaire » trong Actes du Séminaire régional Asie-Pacifique Contacts des langues
et Innovations pédagogiques, Hanoi.
MENDELSOHN M. & BRENT J. (2001) : « Comprendre la méthodologie des sondages », trong
tạp chí Suma, Vol. 2 n°3, 2001.
M
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_nguyen_tac_dieu_tra_xa_hoi_hoc.pdf